Mục lục
I. KHÁI NIỆM THI PHÁP
Là toàn bộ hình thức nghệ thuật được nhà văn sáng tạo nhằm thể hiện nội dung của tác phẩm.
Cụ thể: là hệ thống những nguyên tắc, cách thức xây dựng hình tượng, tổ chức tác phẩm, lựa chọn và sử dụng, tổ chức’ các phương tiện ngôn từ để làm nên tác phẩm. Nội dung chủ yếu của khái niệm thi pháp chính là cách trình bày nội dung tác phẩm văn học. Cách trình bày độc đáo, hấp dẫn nhằm tạo nên phẩm chất, giá trị của tác phẩm, tức là làm cho nội dung trở nên sâu sắc, Có tính thuyết phục.
Nói đến thi pháp là nói đến cái gì tạo nên phẩm chất nghệ thuật riêng biệt,
thú vị của tác phẩm, tác giả, thể loại, trào lưu hay trường phái.
II. KHÁI NIỆM THI PHÁP VĂN HỌC DÂN GIAN
Là toàn bộ các đặc điểm về hình thức nghệ thuật, về phương thức và thủ pháp miêu tả, biểu hiện, về cách cấu tạo đề tài, cốt truyện, phương pháp xây dựng hình tượng con người.
III. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA THI PHÁP CA DAO
1.Đặc trưng cái tôi trữ tình trong ca dao:
Thông thường nội dung tác phẩm trữ tình được thể hiện gắn liền với hình tượng nhân vật trữ tình, đó là hình tượng người trực tiếp thổ lộ suy nghĩ, cảm xúc tâm trạng trong tác phẩm. Nhân vật trữ tình không có diện mạo, hành động, lời nói, quan hệ cụ thể như nhân vật tự sự và kịch nhưng nhân vật trữ tình cụ thể trong giọng điệu, cảm xúc, trong cách cảm, cách nghĩ thể hiện được tâm hồn người, tấm lòng người. Trong ca dao dân ca Việt Nam, cái tôi trữ tình thường là những cảm xúc chủ đạo được thể hiện tinh tế, đa dạng.
Ca dao là loại thơ trữ tình dân gian, là tiếng nói của tư tưởng, tình cảm và mơ ước, khát .vọng của người bình dân. Vì lẽ đó, khi những câu ca dao được ra đời và truyền đi trong cộng đồng, nó đã bị phai dần cái tôi trữ tình của một cá nhân, được sửa đổi đôi chút và trở thành của cả cộng đồng, của cả những con người có cùng tình thế, ước mơ, tình cảm. Và có lẽ vậy mà qua ca dao ta câm nhận được sâu sắc nhịp trái tim yêu thường của người bình dân với tất cả sự ấm áp ngọt ngào cùng tình yêu thương, lòng lạc quan, nghi lực ý chí phi thường vượt lên mọi khổ cực của cuộc sống. Vì thế nhân vật trữ tình trong ca dao là người bình dân, người thi sĩ, những người sáng tác, người diễn xướng, thống nhất với nhau
Chủ thể trữ ình thường được đặt trong. mối quan hệ hữu cơ với đối tượng trữ
tình, biểu luận qua hai loại nhân vật
+ Nhân vật hiển ngôn: ình tượng con người được trực tiếp thể hiện tình cảm bộc lộ tâm tư, suy nghĩ. cảm xúc trong lời ca.
+ Nhân vật biểu tượng thông qua biểu tượng, con người bộc lộ tâm tư cảm xúc với nhau, đó là những biểu tượng gần gũi với cơn ngươi Việt Nam. con cò. con
thuyền, cây đa. bến nước, sân đình
Con cò mà đi ăn đêm
Bậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Hay:
Thuyền về có nhớ bến chãng
Bến thể một dạ khăng khăng đen thuyền
Các nhân vị trữ tình được đặt trong nhiều mối quan hệ
+ Quan hệ gia đình mẹ con, cha con. mẹ chồng nàng dâu, vợ chồng, anh em,
ơn cha nặng lắm ai ơi
Nghĩa mẹ bằng trời. chín tháng cưu mang
+ Quan hệ lứa đôi: chàng trai-cô gái, bạn bè,
“Thương ai rồi lại nhớ ai.
Mặt buồn rười rượi như khoai mới trồng .
+ Quan hệ xã hội: người nông dân quan lại, chủ tớ
Con ơi. nhớ lấy câu này
Cướp đêm là gì.ác. cướp ngày là quan. “
Nhân vật trữ tình luận lên trong sinh hoạt hằng ngày, cuộc sống lao động, trong mối quan hệ với thiên nhiên, gia đình làng xóm có lúc đối thoại, có lúc độc thoại
Về đối thoại ‘tở đâu năm cửa nàng
Sông nào sáu khúc, nước chảy xuôi một dòng?
….
Thành Hà Nội năm cửa chàng
sông Lục Đầu sáu khúc nướcchảy xuôi một dòng.
Về độc thoại :Nhớ ai con mắt em dám
Chân đi thất thểu như chăm tha mồi .
Cảm xúc tâm tư của nhân vật trữ tình được bộc lộ bằng nhiều giọng điệu tâm tính sâu lắng, trách móc, giận hờn. đau buồn, xót xa, nói bóng gió, hơn nhiên vui tươi:
Hoa cúc vàng nở hoa cúc tím
Em có chồng rồi trả yếm cho anh. “
Nếu ở đây chủ thể là chàng trai đòi lại kỉ vật thì đó là người coi trọng vật chất, so bì thiệt hơn, nhỏ nhen, xử sự không mấy đẹp đẽ. Và khi đáp lại thì lời của cô gái sẵn giọng, ăn đường trả miếng:
Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh
Yếm em, em mắc, yếm gì anh, anh đòi!”
Nhưng nếu chủ thể là cô gái thì (qua hai dòng đầu) thì cả cô gái và chàng trai đều là những người xử sự đẹp. Yêu nhau không lấy được nhau, người con gái chủ động trả lại kĩ vật. Còn chàng trai thì cho rằng kỉ vật đã thuộc về cô gái, anh ta không có quyền nhận lại. Qua đó mà ta thấy được nghịch cảnh đáng buồn, sự nuối tiếc về mối tình dang dở của chàng trai và cô gái.
Đấy là ví dụ điển hình về nhân vật trữ tình trong ca dao. Do có sự lưu truyền nên ca dao như có phần khái quát hơn, nó không còn đề cập đến cá nhân cụ thể là chàng trai hay cô gái mà đã được xem như câu hát chung cho mọi đối tượng, cái cá nhân? cá thể trong ca dao đã phai nhạt mà thay vào đó là tính cộng đồng.
2.Thời gian và không gian:
Thời gian và không gian là những mặt của hiện thực khách quan được phản ánh trong tác phẩm tạo thành thế giới nghệ thuật trong tác phẩm.
2.1 Thời gian nghệ thuật:
Trong thơ ca dân gian, thời gian của tác giả và thời gian của người đọc hoà lẫn với thời gian ngưu diễn xướng. Thời gian ở đây là thời gian hiện tại:
“Nào khi gánh nặng em chờ
Qua truông em đợi bây giờ phụ em”
Thời gian hiện tại được xác định là thời điểm được sáng tác, diễn xướng và thời gian thưởng thức, tiếp nhận hài hoà làm một.
Nếu có thời gian quá khứ và tương lai thì đó là thời gian quá khứ gần và tương lai gần:
“Tìm em đã tám hôm nay
Hôm qua là tám, hôm nay là mười”
Hoặc:
“Xa mình trời nắng nói mưa
Canh ba tôi nói sáng, canh trưa tôi nói chiều”
Thời gian trong ca dao có tính công thức và ước lệ: trăm năm, ngàn năm, chiều chiều, đêm đêm, đêm trăng thanh…
+ Trăm năm: cuộc đời một con người mang nội dưng là câu hẹn ước sự vĩnh viễn:
“Trăm năm ghi tạc chữ đồng
Dù ai thêu phục vẽ rồng mặc ai
+ Chiều chiều: tâm trạng nhớ nhung, sự khắc khoải chờ đợi tìm điểm nhìn
hoài vọng bến cũ quê hương:
“Chiều chiều ngó ngược ngó xuôi
Ngó không thấy mẹ, bùi ngùi nhớ thương
Ngoài ra trong ca dao còn có thời gian đối lập: khi xưa – bây giờ, khi đi –
khi về sự thay đổi trong tình cảm .
“Khi đi bóng hãy còn dài
Khi về bóng đã vắng ai bóng tròn
2.2 Không gian nghệ thuật.
gần gũi, bình dị ở làng quê, là phương tiện để nhân vật bộc lộ tâm tư, cảm xúc suy nghĩ của mình. Đây là không gian trần thế, đời thường gắn với môi trường sống thân thuộc với con người bình dân:
Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa
Bên cạnh tính xác thực, không gian nhiều khi cũng mang tính phiếm chỉ và
bị chi phối bởi cảm quan của nhân vật trữ tình:
“Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Ta thường:bắt gặp trong ca dao không có không gian xác định trong những
lời ru con:
“Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chày thức đủ vừa năm”
Không gian địa lí: những âu ca dao viết về miền quê cụ thể, địa danh cụ thể
qua đó thể hiện niềm tự hào tình yêu quê hương thiết tha sâu nặng:
“Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”
Ngoài ra còn có một số không gian tiêu biểu như.
+ Không gian thề nguyền: trăng sao, cây đa, bến đò… thể hiện sự bất biến, vĩnh hằng:
“Bao giờ cạn nước Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền”
+ Không gian đối lập: xa-gần, đông-tây… thể hiện sự cách trở, không hoà
hợp, ngang trái:
“Gần nhà xa ngõ nên khó đi thăm
Hẹn sang mười bốn sao rằm chưa sang
+ Không gian tâm lí: không có thực, được nhận diện bằng cái nhìn khác ~
thường đầy chủ quan.
+ Không gian phiếm chỉ:
núi Truồi ai đắp mà cao
Sông Dinh ai đắp ai đào mà sâu
+ Không gian vật lí: ở đó người bình dân sinh sống, làm lụng, tình tự,
than thở
“Cô kia đứng ở bên sông
Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang
+ Không gian xã hội: mối quan hệ đa dạng giữa người với người:
“Gặp nhau giữa chuyến đò đầy
Một lần đã hẹn, cầm tay mặn mà.”
Trong những câu ca dao đượm buồn thì không gian thường đi hèn với thời
gian là lúc ban đêm.
Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ
Tóm lại: Trong văn thơ thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật có
mối liên hệ chặt chẽ, một mặt thuộc phương diện đề tài, mặt .khác thể hiện nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức tác phẩm của từng tác giả, từng thể loại, từng hệ thống nghệ thuật.
3.Các biểu tượng phổ biến:
“Biểu tượng là nhóm hình ảnh cảm xúc tinh tế về hiện thực khách quan, thể
hiện quan niệm thẩm mỹ tư tưởng cửa từng nhóm tác giả. từng thời đại. từng dân tộc và từng khu vực cư trứ (Nguyễn Xuân Kính – “Thi pháp ca do ).
Biểu tượng nghệ thuật trong ca .dao được xây đựng bằng ngôn từ với nhữn
quy ước của cộng đồng về một ý niệm tượng trưng. Biểu tượng không chỉ đơnthuần thay thế cái được biểu hiện mà còn chủ yếu tượng trưng cho những ý nghĩ, quan niệm, tư tưởng của con người.
Hệ thống biểu tượng nghệ thuật mang những đặc trưng, biểu hiện sâu sắc tính địa phương, tính dân tộc. Nó gồm một số biểu tượng phổ biến sau:
3.1 Con cò:
Đã từ lâu hình ảnh con cò đã đi vào ca dao với tất cả vẻ đẹp của nó. Người
nông dân đã gửi gắm niềm vui, nỗi buồn, sự cực nhọc, vất vả .vào những cánh cò
trong ca dao. Dường như thiếu những cánh cò ấy ca dao sẽ nghèo đi biết mấy. Con cò làm tổ trên cành tre, con cò kiếm ăn trên đồng ruộng, bãi sông, không ăn lúa mà bắt cá, bắt tép… Cứ như vậy, những cánh cò trắng muốt cứ in bóng trong suốt chiều đài cửa ca dao
Đi vào trong văn học, con cò trở thành một biểu tượng nghệ thuật đầy sáng
tạo của cha ông ta khi nó gắn liền với hình ảnh người nông dân. lam lũ, chịu thương chịu khó, cần cù vất vả trên đồng ruộng:
“Trời mưa quả dưa vẹo vọ
Con ốc nằm co
Con tôm đánh đáo
Con cò kiếm ăn .
Luôn chịu số phận hẩm hiu.
“Con cò đậu cọc bờ ao
ăn sung sung chát, ăn .đào đào chua
Hình ảnh người nông dân nhất là người phụ nữ lam lũ, lầm lụi:
“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non .
Họ còn luôn luôn bị khinh rẻ, bị đổ oan:
“Cái cò cái vạc cái nông
Sao mày giẫm lúa nhà ông hỡi. cò
Không, không tôi đứng trên bờ
Mẹ con nhà nó đổ ngờ cho tôi .
Trong hoàn cảnh bị áp bức, bị chà đạp, bị oan ức, họ vẫn muốn, dù phải chết, cũng phải chết trong sự trong sạch:
con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con .
Trong đời, thường thì “Cánh hoa rụng chọn gì đất sạch” (Chu Mạnh Trinh)
nhưng người nông dân Việt Nam không nghĩ thế, quyết không sống đục, thết thì nhất định phải chết ‘trong.
Một cánh cò thôi mà bay khắp mọi miền đất nước, xuyên thấu mọi thời gian,
cánh cò “bay lả bay la ‘ từ chiều sâu quá khứ đến chiều dài hôm nay, cánh cò lại
bay vào lời ru của mẹ, lời dạy của cô lời tâm sự với bạn bè :
con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi”
( ‘Con cò” – Chế Lan Viên)
Về mặt nghệ thuật, hình tượng con cò đã trở thành một mô-típ đậm đặc bản
sắc dân tộc và tính nhân dân, thường khơi gợi ở lòng người nhiều tình cảm và kỉ niệm về quê hương đất nước.
3.2 Hoa.
Hoa là thứ biểu tượng đáng chú ý trong ca dao. Hoa đi vào thế giới văn học
mang ý nghĩa tượng trưng cho một phẩm chất, một thân phận, một thời hoa
của một đời người. Trong đó, hoa nhài và hoa sen là đối tượng được phản ánh khá nhiều trong kho tàng ca dao Việt Nam.
3.3 Hoa nhài
ông cha ta đã dùng hình ảnh của hoa nhài để miêu tả cảnh xứng đôi vừa lửa:
“Đôi ta lấm tấm hoa nhài
Chồng đây vợ đấy kém ai trên đời .
Chỉ “lấm tấm” thôi, nghĩa là không có gì to tát, lớn lao cả. ấy là vẻ đẹp hiền
hoà, bình dị mà chẳng thoáng chút mặc cảm, tự ti nào vì có “kém ai đâu? Hương thơm của hoa nhài còn tượng trưng cho sự thanh tao, quý giá, trang nhã, văn minh lịch sự của con người:
“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An .
Vẻ đẹp của hoa nhài thường được ví với nụ cười đảng yêu của ngưu con gái:
Miệng cười như cánh hoa nhài
Như nụ hoa quế như tai hoa hồng”
Vị trí của hoa nhài trong ca dao không chiếm ưu thế như hoa hồng, hoa mai.
Đấy là thứ hoa biết khiêm tốn, có chút e lẻ, khép kín:
“Chơi hoa cho biết mùa hoa
Thứ nhất hoa lí thứ ba hoa nhài .
Trong ca dao, hoa nhài là một thứ hoa đẹp vẻ đẹp hài hoà, bình dị. Qua đó,
ta thấy được quan niệm thẩm mĩ và quan niệm đạo đức của nhân dân lan động.
Họ ưa chuộng những gì giản dị, nhỏ bé; ca ngợi thuỷ chung, tình nghĩa; thích cái đẹp bên trong hơn cái phô trương bện ngoài.
3.4 Hoa sen
Trong các loài hoa biểu tượng cho vẻ đẹp can quý, ta không thể không nhắc
tới hoa sen:
“Hoa sen mọc bãi cát lầm
Tuy rằng lấm láp vẫn mầm hoa sen’.
Sự đủ đầy, phúc lộc trong cuộc sống của người nông dân cũng được thể hiện
qua hình ảnh hoa sen:
‘Lên chùa bẻ một cánh sen
ăn cơm bằng đèn đi cấy sáng trăng .
Không những thế, hoa sen mang một mầm sống âm ỉ mà mạnh mẽ. Tuy dầm
mưa dãi nắng mà hương sắc chẳng nhạt phai:
‘(Hoa sen hoa khéo giữ màu
Nắng hồng không nhạt mưa dầm không phai .
Không giống như hương thơm có tiếng của hoa nhài, hương sen là mìn hương
đằm thắm. Nó là biểu hiện của sự thuần khiết, thánh thiện, trắng trong:
“ Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chúng hôi tanh mùi bùn.
Với sức sống mãnh liệt, dẻo dai và phẩm chất trong sạch, thanh cao hoa sen đã trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp thánh thiện mà giản dị, chất phác, hiền lành của người dân đất Việt.
3.5 Trúc – mai
Theo quan niệm của nhà nho, tùng, trúc, mai là những thứ cây tượng trưng cho khí tiết, đức tính cao thượng, phẩm chất trong sạch của người quán tử. Còn tác giả dân gian không mấy khi tá thực cây trúc, cây mai. Họ nhắc đến mai, trúc nhằm thể hiện con người. Có khi trúc được nhắc đến một mình tượng trưng cho người con gái xinh xắn:
Ttrúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh .
Có khi trúc mai quấn quýt với nhau thể hiện tình cảm đôi lứa thắm thiết:
“Trúc với mai, mai về trúc nhớ
Trúc trở về mai nhớ trúc không?”
Hình ảnh trúc mai trong ca dao được dùng để diễn đạt nhiều cung bậc tình cám, nhiều cánh ngộ tình duyên:
+ Khi là lời nhắn nhủ hi vọng:
“Đợi cho trúc ở với mai
Đợi chờ anh ở với ai chưa chồng
+ Khi là tâm trạng náo nức, vui mừng:
Trầu này, cúc với mai, đào
Trầu này thục nữ anh hào sánh đôi .
+ Cũng có khi đó là nỗi giận hờn, oán trách:
“Những là lên miếu xuống ghè
Để tôi đánh trúc đánh tre về trồng
Tưởng rằng nên vợ nên chồng
Nào ngờ nói thể mà không có gì .
+ Và đó còn là nỗi thất vọng:
“Chiều nay có kẻ thất tình
Tựa mai mai ngã, tựa định đình xiêu .
Như vậy? trong ca dao, biểu tượng trúc mai thương được dùng với ý nghĩa tượng trưng cho đôi bạn trẻ, cho tình duyên.
4. Mô-típ quen thuộc:
1.”Thân em… “
Trải qua bao năm tháng, ca dao vẫn là tiếng nói ân tình, thổ lộ những tâm tư tình cảm của người bình dân xưa. Ca dao đã ăn sâu vào tâm hồn người Việt đặc biệt là mảng ca dao viết về đề tài thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ có rất nhiều câu ca dao bắt đầu bằng mô-típ “Thân em… “.
Ở những câu, bài ca dao có “Thân em… ” mang nghĩa là thân phận, cuộc đời của người phụ nữ. Những thân phận, cuộc đời này thường có số kiếp hẩm hiu, bạc bẽo. Đa phần những câu ca dao với mô-típ này thường mang giai điệu buồn bã, chán ngán, ai oán cuộc đời bạc bẽo, xã hội phong kiến bất công, tàn nhẫn. “Thân em…” phản ánh sự lệ thuộc, thể hiện nỗi. đau của người phụ nữ trong xã hội có.
“Thân em như thể bèo trôi
Sóng dập gió dồi biết tấp vào đâu”
Những câu ca dao này đã liên tưởng, thể hiện nỗi cảm thông sâu sắc đối với thân phận người phụ nữ. Cuộc đời người phụ nữ xưa kia bị lệ thuộc, ràng buộc bằng nhiều sợi dây, hữu hình và vô hình, khiến họ không thể vươn lên, chiến thắng nổi số phận:
“Thân em như hạc đầu đình
Muốn bay không cất nổi mình mà bay
Qua những câu ca dao mở đầu bằng mô-típ “Thân em… “, người bình dân còn muốn thể hiện nỗi đau khổ, bất hạnh của người phụ nữ khó cổ thể giãi bày trong xã hội đương thời. Họ phải gửi gắm lòng mình qua những câu ca dao khắc khoải đọc lên mà nghe lòng xiết bao xót xa:
“Thân em như lá đài bi
Ngày thì dãi nắng, đêm thì dám sương .
Nỗi đau ấy đâu phải ai cũng thấu hiểu cho họ, lắm lúc bề ngoài trông họ tươi tắn mà ruột gan rối bời:
“Thân em như cây sầu đâu
Ngoài tươi trong héo; giữa sau tương tư .
Dẫu trải qua bao giông tố cuộc đời, số kiếp có bạc bẽo đến đâu thì người phụ nữ vẫn vẹn toàn đức hạnh. Dù trong khó khăn, thử thách họ vẫn thể hiện bản lĩnh. Tác giả bình dân đã tự hào ca ngợi vẻ đẹp cả hình thức lẫn tâm hồn của người phụ nữ, thể hiện giá trị vốn có của họ:
“Thân em như thể chuông vàng
ở trong thành nội có một ngàn quân lính hầu
“Thân em… ” thật đẹp đẽ và cao quý lắm thay:
“Thân em như cá hóa long
Chín tầng mây phủ, ở trong da trời”
Những người mẹ – người nghệ sĩ của tình thương đã ngân lên những giai điệu hát ru đẹp và ngọt ngào bằng những câu ca dao. Vì thế mà ca dao đã đi sâu vào tiềm thức và tâm hồn của người bình dân. Bằng những câu ca dao với mô-típ “Thân em… “, dân gian đã thốt lên những tiếng đời than thân, trách phận. Bên cạnh đó họ còn thể hiện thái độ phản kháng, đấu tranh cho quyền lợi của người phụ nữ, làm giàu thêm cho ca dao người Việt.
2.”Chiều chiều… “ nỗi nhớ trong ca dao:
Liên quan đến buổi chiều, ca dao có nhiều cấu trúc phổ biến như: chiều chiều, chiều hôm, chiếu nay… Chiều là khoảng thời gian gần tối, trước khi bóng hoàng hôn đổ xuống, mang trạng thái tĩnh, hay gợi buồn. Đây là thời gian rảnh rỗi nhất trong ngày, là thời điểm củ gặp gỡ, đoàn tụ, trở về (con chim dáo dát bay về tổ, thuỷ triều cũng vội vã về với biển, con người cũng trở về với mái ấm, chỗ dựa của lòng mình là tình yêu và tình cảm gia đình). ấy vậy mà vào thời điểm ấy, các chàng trai, cô gái cô đơn xa cách người thương, còn người phụ nữ lấy chồng xa quê thì bơ vơ nơi đất khách quê người. Vì vậy khi câu hát của họ vang lên là cả một khoảng trời nhớ thương nhức buốt, là những khoảng trống vô hình, là những lời tâm sự thiết tha chân tình.
Đây là lời của cô con gái nhớ mẹ:
chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”
Chiều chiều! Nốt nhạc đã dạo đầu cho một mô-típ gợi buồn. Đằng sau nốt nhạc ấy hiện lên chân ‘dung một cô gái với một nỗi buồn khắc khoải. Nỗi buồn của một cô gái mới về nhà chồng còn lạ. lẫm chưa quen, trong lòng cồn cào bao nỗi nhớ về gia đình, cha mẹ và những kỉ niệm đẹp. Thế là chiều nào cũng vậy, cô . lén ra ngõ sau nhà, nơi ít người lại qua, ít ai để ý, ở đó cô có thể tránh mọi con mắt dò xét để thả hồn qua những nỗi nhớ, để “trông về quê mẹ”. Mà có xa xôi gì cho cam. Có khi chỉ cách có một quãng đồng mà hoa ngàn dặm tít mù; bởi một lẽ thời phong kiến người con gái có chồng là đóng khung cuộc đời mình ở nhà chồng. Bài ca dao mở ra là “chiều chiều” khép lại là “chín chiều”như đóng chặt tất cả những con đường mà cô có thể về với mẹ. Thật xót xa cho thân hận những người phụ nữ thời phong kiến.
Ở một lời ca khác nỗi nhớ đã trở thành nỗi đau tột cùng khi người con gái hạm vào màn sương của sự mất mát:
“Chiều chiều xách giỏ hái rau
Ngó lên mả mẹ ruột đau như dầ
Hình ảnh người mẹ đã tan vào khói sương của hoài niệm. Chỉ còn lại trong rái tim người con gái xa quê một nỗi đau không bao giờ lành lặn. Nỗi đau ấy ại tiếp tục cộng hưởng ở những thế hệ bạn đọc mai sau.
Còn dưới đây là nỗi nhớ của những người yêu nhau:
“Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai
“Chiều chiều… ” đã trở thành điểm hẹn của nỗi nhớ, điệp khúc của sự chờ đợi “Người quân tử” – địa chỉ của nỗi nhớ ấy vừa gần gũi vừa xa xôi, vừa thực vừa mộng, vừa là một chàng trai cụ thể vừa là một chàng trai trong tâm tưởng, tưởng tượng.
Đa số những câu có mô-típ “chiều chiều… ” người ta sáng tác ra để gửi gắm nỗi nhớ, niềm thương, nghiêng hẳn về mặt tình cảm. Song bên cạnh đó cũng có một số câu nghiêng về phần lí trí nhiều hơn, những câu ấy mang đậm chất triết lí:
“Chiều chiều bóng đổ qua cẩu
Con ong say vì mật, con bướm sầu vì hoa .
Mỗi sự vất, hiện tượng đều tuân theo một quy luật vận động nhất định. và thời gian chính là chiếc chìa khóa vàng giúp người ta nhận ra giá trị đích thực của con người, của cuộc đời.
Mô-típ bài hát ru phổ thốn nhất là “chiều chiều lại nhớ chiều chiều’. Chữ “chiều” được láy lại nhiều lần, tạo ra một âm điệu dễ đi vào lòng người.
Trong hát ru như có một thế giới đặc biệt. Đó là thế giới dành cho trẻ, của trẻ. Đó là thế giới của thực vật, nhiều nhất là động vật. ớ đó cái mà con người làm, loài vật cũng làm:
“Chiều chiều con quạ lợp nhà . .
Con cu chẻ lạt con gà đưa tranh
Chèo vẻo nấu cơm nấu canh
Chìa vôi đi chợ mua hành về nêm .
Nhưng hát ru đâu phải chỉ để hát ru, qua lời hát người ta muốn giãi bày tâm sự thầm kín trong lòng. Hát để trẻ ngủ còn mình thức, một mình mình đối diện với chính mình:
chiều chiều bìm bịp giao canh
Trống chùa đã đánh sao anh chưa về?”
Cũng như không gian, thời gian là một phạm trù có ý nghĩa đặc biệt đối với nhận thức và tình cảm con người. Trong ca dao chúng ta bắt gặp rất nhiều mô-típ về thời gian, nhất là thời gian “chiều chiều . Đó là một mô-típ chứa đựng rất nhiều thú vị nhưng cũng còn nhiều ẩn số chờ đợi chúng ta tiếp tục khám phá và tìm hiểu.
3.Ngôn ngữ ca dao:
Nghệ thuật văn học dân gian tác động tới con người bằng kí hiệu ngôn ngữ. Đó cũng là một loại hình nghệ thuật của thi pháp ca dao. Thông qua những tín hiệu . ngôn ngữ, hầu hết các bài ca đạo đã thể hiện một cách cụ thể, phong phú và linh hoạt những hình .tượng thẩm mĩ văn học phản ánh mọi mặt của cuộc sống sinh hoạt, những suy tư và diễn biến cung bậc tình cám của con người.
Chính vì thế mà ngôn ngữ ca dao trong sinh hoạt diễn xướng dân ca với sự cộng hưởng của các yếu tố nghệ thuật dân gian luôn toả sáng làm cơ sở trực tiếp cho những bài ca đao đậm đà hương sắc của người Viết Nam.
Ngôn ngữ thơ ca dân gian có nguồn gốc dân dã thể hiện bản chất bình dị, chất phác, hồn nhiên của người nông dân lao động. Tuỳ theo đặc điểm cấu tạo của ngôn ngữ từng dân tộc mà hệ thống nhịp điệu trong thơ, sắc thái tu từ, cách vận dụng ngôn ngữ mang những nét khác nhau. Chế Lan Viên đã từng nhận xét về ngôn ngữ Tiếng Việt: “một thứ tiếng đơn âm nhưng đa thanh, làm cho câu thơ vừa ngắn gọn, vừa có tính chất âm nhạc .
Để biểu lộ tình cảm của mình, những lời tâm sự không biết giãi bày cùng ai, nhân dân ta đã đưa tất cả những nỗi niềm ấy vào ca dao, tự hôi, nói, chất vấn nỗi buồn của mình như ‘tìm kiếm một sự an ủi và hình thức độc thoại là một thể loại mà dân gian ta hay chọn lựa để gửi gắm tâm tư tình cám của mình.
Đó là tâm tình của người con gái sau khi dệt vải:
“em ngồi kẻo vải quay tơ
Để anh đọc sách ngâm thơ kẻo buồn
Em ngồi kẻo vải bán buôn
Để bán cái buồn dệt vải cho anh .
Hình thức ngôn ngữ ca dao mang tính đối thoại được sử dụng rộng rãi trong lối hát đối đáp:
“Em đố anh đâu chi là dầu không thắp?
Bắp chi là bắp không rang?
Than chi là than không quạt?
Bạc chi là bạc không mua?”
Bằng hình thức ngôn ngữ mang tính ẩn dụ, tác giả dân gian đã diễn tả lối đối đáp khôn ngoan, mang hàm ý sâu sắc, tạo cho người nghe những liên tưởng phong phú và đem đến một ý nghĩa khái quát cao.
Ngôn ngữ đối thoại cũng thật gần gũi với cuộc sống sinh hoạt đời thường. Đó chỉ là hình ảnh con trâu, cái cày, những người bạn thân của nhà nông, nhưng khi bước vào ca dao nổ đã trở thành những hình tượng nghệ thuật mang tỉnh chất so sánh:
“Của chua ai thấy chẳng thèm
Em cho chị mượn chồng em mấy ngày
Chồng em nào phải trâu cày
Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm.”
Đặc biệt hình thức đối thoại trong ca dao là cơ sở cho những bài hát đối đáp dao duyên, một hình thức phổ biến trong sinh hoạt diễn xướng dân ca ba miễn. Phần lớn nội dung đều mang tính trữ tình, diễn tả tâm ‘trạng của tình yêu đôi lứa:
“Mình về có nhớ ta chăng
Ta như lạt buột khăng khăng nhớ mình
Ta về ta cũng nhớ mình
Nhớ yếm mình mà nhớ tình mình trao.
Bên cạnh đó, lối kết cấu hai vế đối lập trong lời ca dao cũng đã tạo nên vê sinh động của những câu hát dao duyên trong dân ca:
“Anh đến tìm hoa thì hoa đã nở
Anh đến tìm đò thì đò đã sang sông
Anh đến tìm em thì em đã lấy chồng
Em yêu anh như lửa có mặn nồng chi mô?”
Ngôn ngữ ca dao có sự kết hợp của ngôn ngữ về thời gian và không gian đem đến cho ca dao một nét đặc sắc riêng không trùng lặp với các thể loại khác.
Thời giàn hiện tại trong ca dao được thể hiên bằng những cụm từ chỉ hiện tại như: “hôm qua”, “đêm nay”, “khi xưa thì thời ‘gian trong ca dao vẫn diễn tả sự việc mang ý nghĩa hiện tại:
Đêm qua dồn dập mưa mau
Gió rung cành ngọc cho đau lá vàng
Trách chàng phụ ngài tham vàng
Gió rung cành ngọc lá vàng cho đau.
Bên cạnh đó ngôn ngữ thời gian nghệ thuật trong ca dao còn được thể hiện qua những từ láy để nhấn mạnh quá trình diễn ra của sự vật hiện tại:
“Chiều chiều ra đứng bờ ao
Nước kia không khát, khát khao duyên chàng”
Để cụ thể hoạt tất cả hình ảnh bằng cách hiểu, cách nghĩ đa chiều thì ngôn ngữ không gian chính là ngôn ngữ chính tạo nên chiều sâu của bài ca dao. Nó thể hiện không gian của nội tâm con người qua các hình ảnh quen thuộc như cây đa, bến nước; sân đình, đồng ruộng,… nơi gặp gỡ của các nhân vật trữ tình:
“Cây đa cũ bến đò xưa
Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ
Ca dao đa dạng, phong phú còn thể hiện ngay ở cách xưng hô, ngôn ngữ sử dụng đại từ nhân xưng chứa dựng tình cảm lúc đối đáp với nhau:
“Cô kia cắt cỏ bên sông
Muôn sang anh ngả cành hồng cho sang .
Đại từ nhân xưng cũng là ngôn ngữ phiếm chỉ xu hướng không cá thể hoá nhân vật là đặc điểm của thơ ca dân gian Việt Nam, và đó là một trong những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc làm tăng giá trị diễn xướng của ca dao.
Đặc sắc ngôn ngữ ca dao chính là ở chỗ nó kết hợp nhuần nhuyễn hai phong cách, ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ hội thoại, nó truyền miệng bằng thơ. Chỉnh hình thức tồn tại đó đã khiến ca dao thấm đượm thơm lâu trong lòng người đọc.
4.Thể thơ lục bát:
Trong những tác. phẩm thơ ca dân gian, ca dao được sáng tác ở nhiều hình thức thơ khác nhau: song thất, song thất lục bát, bốn chữ, hỗn hợp, tuy nhiên được vận dụng phổ biến hơn cả là thể lục bát. Điều này thật dễ hiểu vì thơ lục bát là “những lời nói vần” gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân, dễ nhớ, dễ thuộc.
Thể lục bát trong ca dao bộc lộ trực tiếp những tâm tình nảy sinh từ thực tiễn cuộc sống; thể hiện từ những bức tranh lao động đến những suy nghĩ về cuộc đời, từ khoảnh khắc hồn nhiên vô tư của con người đến những diễn biến tình cảm trữ tình phong phú. Các tác phẩm ca dao được làm theo thể lục bát được vận dụng linh hoạt và nhiều vẻ nhất trong dân ca, trong những giai điệu ngâm ngợi, ca xướng uyển chuyển. Sở dĩ như vậy là do kết cấu đặc trưng riêng biệt về âm luật của thể loại thơ này. Có thể thấy lục bát mang đầy đủ dáng dấp của một thể thơ cách luật với nhưng yếu tố đặc thù về tổ chức âm thanh: gieo vần, ngắt nhịp, phối điệu trong hình thức tối thiểu là một cặp lục bát gồm 2 câu với số tiếng cố định: 6 tiếng (câu lục) và 8 tiếng (câu bát). Phương thức gieo vần 6-8 là thao tác đặc biệt tạo nên được vẻ nhịp nhàng trong ngôn ngữ thơ, là phương tiện tổ chức văn bản và là chỗ dựa cho sự phát triển nhạc tính để hình thành nên những âm hưởng nhiều màu sắc vang vọng trong thơ. Nhịp điệu thơ lục bát về cơ bản là nhịp chắn 2/2/2, 2/4/2, hoặc 4/4 diễn tả những tình cảm thương yêu, buồn đau…
“Người thương/ ơi hỡi / người thương
Đi đâm mà để/ buồn thương/ lạnh lùng .
nhưng khi cần diễn đạt những điếu trắc trở, khúc mắc, mạnh mẽ, đột ngột hay tâm trạng bất thường, bất định thì có thể chuyển sang nhịp lễ 3/3, 1/5, 3/5… là một dạng của lục bát biến thể:
“Chồng gì anh / vợ gì tôi
Chẳng qua là cái nợ đời chi đây”
Có thể hiểu lục bát biến thể là những câu ca dao có hình thức lục bát nhưng không khít trên sáu dưới tám mà có sự Co dãn nhất định về âm tiết, về vị trí hiệp vần… Lục bát biến thể cũng là vấn đề đáng chú ý trong ca dao. Sự phong phú về thể lục bát không chỉ dừng lại ở đó. Có câu lục biến thể tăng tiến như.
“Con gà rừng tốt mã khoe lông
Chẳng cho đi chọi, nhất lồng làm chi
Phần lớn câu lục biến thể tăng tiếng đều bắt nguồn từ dụng ý nghệ thuật của tác giả dân gian mà cách nói phổ biến là giảng giải, phân trần. Một số câu lục biến thể có sự chêm xen các từ khẩu ngữ đệm vào, đây là một đặc điểm của thơ hát nói. .
Không hẳn lục bát chỉ có tàng số tiếng, câu nói có thể ngắn gọn, súc tích hơn cũng có thể nhờ vào câu lúc biến thể giảm số tiếng. Loại biến thể này thì lời ca như những câu châm ngôn, có lời như một tục ngữ. Lời thơ súc tích, hàm nghĩa mang tính triết lí nhân sinh, những nhận xét sắc sảo về những vấn đề cuộc sống, sinh hoạt, tình yêu:
“Mật ngọt chết ruồi
Ai mà đến đây thời người say sưa
Khác với câu lục câu bác có thể kẻo dài tự do, có thể là do đặc trưng về số dòng số tiếng của thơ lục bát:
“Hoa kia thơm lửng, thơm lừng
Dặn con ong kia đừng chơi nhởi, dặn con bướm đừng xôn xao”
Mang những đặc trưng chung của kiểu câu lục và câu bát biến thể và có những đặc điểm như câu suy luận nhiều vế, câu kết hợp nhiều kiểu câu, khuôn lục bát không rõ ràng, câu nặng tính khẩu ngữ, thường là câu dồn chứa nhiều thông tin, ranh giới câu lục thường xâm lấn câu bát hoặc ranh giới chức năng của hái câu không rõ ràng: ‘
“Hạt lúa vàng, hạt thóc cũng vàng
Anh yêu em, bác mẹ, họ hàng cũng yêu”
Từ những đặc trưng cấu trúc ngữ nghĩa trên có thể thấu về cơ bản thể thơ lục bát vẫn là thể thơ nền nã, chỉnh chu với những quy định rõ ràng về vần nhịp, về số tiếng mỗi dòng thơ, về chức năng đảm trách của mỗi câu trong thể. Tuy vậy cũng có lúc câu lục tràn sang câu bát, câu lục và câu bát dài quá khổ, có khi xê dịch phối thanh, hiệp vần… đó là dạng lục bát biến thể. Sự biến đổi đó là do nhu cầu biểu đạt Linh cảm ngày càng phong phú, đa dạng phá vỡ khuôn hình 6/8 thông thường. Tuy nhiên dù phá khuôn hình, âm luật, cách gieo vần của thể thơ lục bát về cơ bản vẫn giữ nguyên. Đó là dấu hiệu đặc trưng cho ta nhận biết nó vẫn là thể lục bát.
Từ ngàn đời nay sự liên kết luôn . tạo nên những thứ bền chặt nhất, và thể song thất lục bát kết hợp với lục bát đã tạo nên được một âm hưởng vang vọng, bay xa hơn cho ca dao Việt Nam. Đa dạng phong phú nhưng không kém phần tinh túy xâu xa với ba lối liên kết cơ bán nhất đã làm cho ý nghĩa của ca dao thấm dần vào hồn thơ của người. Đầu tiên là dạng song thất lục bát ở dạng này bài ca dao ít nhất là một khổ bao gồm hai dòng đầu là 7, hai dòng sau là 6/8:
“Thang mô cao / bàng thang danh vọng
Nghĩa mô trọng / bằng nghĩa chồng con
Trăm năm nước chảy đá mòn
Xa nhau nghìn dặm dạ còn nhớ thương .
Tiếp theo là dạng lục bát dán thất là hai câu 618 rồi đến hai câu 7:
“Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn lên hái nụ. tẩm xuân
Nụ tẩm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng rồi tình tiếc lắm thay .
Cuối cùng là hai câu lục bát đầu cuối xen giữa hai câu thật:
“Đêm qua nguyệt lặn về tây
Sự tình kẻ đấy người đây còn dài
Trúc với Mai / lMai về Trúc nhớ
Trúc trở về / Mai nhớ Trúc không
Bây giờ kẻ Bắc người Đông
Kể sao cho xiết tấm lòng riêng tư .
Thể thơ này thường lặp đi lặp lại, cuộn .trào như ngọn sóng phù hợp cho việc diễn tả tâm trạng buồn đau của ‘nhân vật trữ tình: Thể song thất và lục bát kết hợp nhau là cho tình cảm vốn .đa chiều, phức tạp được thể hiên có hiệu quả rõ rệt với cách nói đa giọng, nhiều cưng .bậc và gam màu.
Thể vãn là đặc trưng: trong hát dặm Nghệ Tỉnh. Mỗi câu thơ thường gồm 4, 5, 6 chữ và vần chân:
“Công đôi ta thề thốt
Kể đã mấy niên rồi
Lòng đã quyết lứa đôi
Nhất ngôn nói hơn lời
Đừng bốn chốn ba nơi…
Thể vãn kết hợp với thể lục bát làm cho tiết tấu và vần điệu thơ phóng phú, có khả năng diễn đạt những cung bậc khác nhau của tình câm:
“Nào khi mô em nói với anh.
Sông cạn mà anh không cạn
Vàng mòn mà nghĩa không mòn
Nay cho nước lại xa non .
Đêm nằm tơ tưởng héo hòn ruột tằm
Thể lục bát kết hợp với thể vãn tạo cho bài ca có thế vững chắc, là điểm nhấn kết vấn đề, ngăn lại đòng kể lan_ man của thể vãn:
“Tháng giêng tháng hai, tháng ba, tháng bốn.
Thảng khôn, tháng nạn
… … …
Cho than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi lên cây . ”
Ngoài ra còn có thể hỗn hợp, thể này kết hợp các đặc trưng của các thể khác nhằm diễn đạt nhiều cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình. Trong ca dao, thể này sử dụng không nhiều, chiếm một phần trăm nhưng khá đa dạng:
“Ai sau ai thảm .
Ai thương ai cảm . .
Ai nhớ ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy, chạnh lòng nước non”
Nếu thể 6-8 thường được vận dụng trong những bài ca có nội dung trữ tình hoặc giao duyên, thể song thất lục bát (hai câu 7 chữ và một câu 6-8) thường dừng trong những bài hát . có âm điệu nói lối và ca xướng thi thể hỗn hợp 4, 5 chữ, kết hợp với thể lục bát và song thất lục bát được sử dụng nhiều trong những loại hát nghi lễ phong tục, những bài hát sinh hoạt, những bài hát giao duyên.
Nói tóm lại, đặc trưng thể thơ trong ca dao suy cho cùng là diễn đạt tâm trạng nhiều chiều của nhân vật trữ’ tình. Tùy theo cảm xúc, cung bật mà chọn lựa một thể thơ phù hợp. Thông thường người.bình dân hay mượn thể loại văn vần này để bày tô nỗi lòng, tâm trạng của mình trong cuộc sống, sinh hoạt, tình yêu… do vậy thể thơ chủ yếu của ca dao vẫn là thể lục bát. Vì thể thơ này cớ khả năng diễn đạt- tất thảy những cung bậc câm xúc mà những con người thấp cổ bé họng không biết chia sẻ cùng ai. Việc sáng tạo thể thơ đốc đảo này thể hiện đời sống tinh thắn phong phú của người bình dân, rất nhiều nhà thơ thành công nhờ thể thơ này. Ngày nay, thể lục bát trở thành niềm tự hào của dân tộc Việt Nam