Phân tích và cảm nhận “Gương báu khuyên răn”- Nguyễn Trãi

Đề  : Phân tích và cảm nhận “Gương báu khuyên răn”- Nguyễn Trãi

 

          Bài làm 1

  1. Kiến thức trọng tâm
  2. Tác giả Nguyễn Trãi ( Xem bài ”Bình Ngô đại cáo”)
  3. Phong cách sáng tác( Xem bài ”Bình Ngô đại cáo”)
  4. Hoàn cảnh sác tác

– ”Cảnh ngày hè” được sáng tác vào thời gian Nguyễn Trãi về quê sống ẩn giật.Cuộc sống thanh bình, giản dị đã giúp ông lắng nghe trọn vẹn nhịp sống của con người, của thiên nhiên và sáng tác nên bài thơ.

Bài thơ là bài số 43 trong số 61 bài thơ của mục ”Bảo kính cảnh giới” (thuộc phần vô đề của tập thơ ” Quốc âm thi tập”)

  1. Bố cục

– Câu thơ đầu : Tâm trạng nhàn rỗi của tác giả trong ngày hè

– Năm câu thơ tiếp: Bức tranh thiên nhiên ngày hè

– Hai câu thơ cuối: Ước nguyện của nhà thơ

  1. Phân tích cụ thể

1.Tâm trạng nhàn rỗi của tác giả trong ngày hè ( Câu thơ đầu )

              Bất tri tam, bất dư niên hậu

          Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

       Hai câu thơ là lời đồng vọng , là một câu hỏi lớn của Nguyễn Du gửi gắm vào hậu thế để tìm kẻ tri âm, tìm người đồng cảm, tìm sự sẻ chia với chính nỗi đau, nỗi bất hạnh của  thi nhân ở cuộc sống trần gian.”Hồng nhan thì bạc mệnh” điều đó đúng nhưng không chỉ thế, ”Tài hoa cũng bạc mệnh” và lịch sử đã chứng minh được điều đó sống cách trước Nguyễn Du gần 400 năm Nguyễn Trãi đã sống một cuộc đời mà cả hạnh phúc lẫn thương đau đều được đẩy đến tột cùng.

        Trong khoảng thời gian đời người hơn 60 năm, thi nhân đã để lại một gia sản vô cùng quý giá. Trong sự nghiệp sáng tác, bên cạnh tập thơ chữ Hán nổi tiếng Ức Trai thi tập ông còn có tập ” Quốc âm thi tập ”.

Gồm những bài thơ viết rải rác trong suốt cuộc đời, Quốc âm thi tập đã giúp người đọc khai mở nhiều phần sâu kín trong tâm hồn người thi sĩ bất hạnh vào loại bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

      Nguyễn Trãi cũng là đại thi hào dân tộc, người anh hùng cứu quốc thuở ”Bình Ngô”

là danh nhân văn hóa Đại Việt. Thơ chữ Hán cũng như thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi đẹp đẽ, sâu sắc, biểu tượng cao quý của nên văn hiến Việt Nam

       Đề tài mùa hè, cảnh ngày hè, được nói nhiều trong thơ văn cổ dân tộc.Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến đều có thơ viết về mua hè rất hay. Bài thơ là một thi phẩm khá tiêu biêu cho ngôn ngữ thi ca Ức trai, đậm đà dấu ấn thời đại,thời Lê – thế kỉ XV. Nó nói lên cảnh sắc mùa hè làng quê và nỗi ước mong của nhà thơ về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

     Năm 1418, Nguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi khởi xướng ở Thanh Hóa , trong 10 năm kháng chiến là 10 năm chứa đựng biết bao nỗi niềm , khó khăn, nguy hiểm đối với thi nhân. Nhưng dường như những khó khăn ấy đối với ông là nơi tu dưỡng nhân cách, phẩm chất , hun đúc một tinh thần vĩ đại trong bậc đại nhân, đại trí

             Khó khăn thì mặc có màng bao

             Càng khó bao nhiêu chỉ mới hào

                                        ( Thuật hứng, XXI )

 Sau những năm kháng chiến đối mặt với muôn vàn khó khăn:

          Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần

        Khi Khôi Huyện quân không một đội

   Thì giờ đây, cái ”nhàn” thân ,giây phút hòa mình cùng vui vẻ tươi tắn với cuộc sống, đất trời đã về với ông. Mở đầu bài thơ là một câu lục ngôn nói lên một cảnh sống 

 

của thi nhân. Câu thơ bình dị như một lời nói vui vẻ, thoải mái , hồn nhiên:

          Rồi /hóng mát /thuở ngày trường

Khởi hứng bằng một tâm thế của một con người thích an nhàn hưởng thụ thiên nhiên, rũ sạch bụi lầm của chốn phồn hoa đô hội, con người đến với thiên nhiên tự do, tự tại, giản dị không gò ép. Phải chăng vì thế mà câu thơ cũng vuột ra khỏi cái khuôn khổ của thơ luật để giản dị , nhẹ nhàng như chính con người và cuộc sống chốn sơn lâm. Câu thơ nhẹ nhàng gợi nghĩ đến hình ảnh một vị tiên đồng , đạo cốt. Từ ”rồi” kết hợp với ngày trường cộng hườn với nhịp thơ kéo giãn thời gian của một ngày. Cảm giác thư thái cũng theo đó mà ngân nga.

      Lẽ ra câu thơ phải bảy chữ mới đúng là thể thất ngôn bát cú quen thuộc , song Nguyễn Trãi đã lược đi một chữ. Đây cũng là cách tân táo bạo , mới mẻ trong thơ nôm nước ta thuở ấy. Nhịp thơ 1/2/3 chậm rãi phản ánh tư thế ung dung , tự tại vốn có của tác giả.

   Chữ ” rồi ” tách riêng thành một nhịp thể hiện cảm nhận của tác giả về tình cảnh của mình. ”Rồi” là từ cổ có nghĩa là nhàn nhã không vướng bận điều gì nhưng khi đọc sâu, ngẫm sâu vào từng câu chữ t lại cảm nhận được tiếng thở dài trong câu thơ. Cụm từ ”thuở ngày trường” trong đầu câu có cùng nghĩa với ”hạ nhật trường” trong một câu thơ của Cao Biển thời Đường.

              Lục thu âm nồng hạ nhật 

       ( cây xanh bóng rợp ngày hè dài)

   Nguyễn Trãi không phải người không biết giới hạn. Có nhiều lần ông đã bày tỏ ý nguyện ”công thành nhân thoái” ( xong việc rồi nên đành rút lui) nên đành lui về quê ở ẩn. Cuộc đời Nguyễn Trãi thường không mấy lúc được thảnh thơi, đây là lúc ông được sống ung dung, được thỏa nguyện hòa mình với thiên nhiên mà ông hằng yêu mến

     Không có việc gì quan trọng, cần kíp để làm cả , chỉ có mỗi ”việc” là hóng mát. Ngày trường là ngày dài. Đây là cảm giác tâm lý về thời gian của người đang sống trong cảnh nhàn rỗi, thấy ngày dường như dài ra. Với con người ưa suy nghĩ , hành động như Nguyễn Trãi thì cảm giác ấy càng rõ hơn bao giờ hết. Giữa lúc xây dựng lại non sông sau chiến tranh , việc dân việc nước bời bời mà ông bị bắt buộc phải hóng mát hết ngày này đến ngày khác thì quả là trớ trêu. Bởi vậy ông rơi vào tình cảnh thân nhàn mà tâm bất nhàn. Đằng sau câu thơ trên dường như thấp thoáng một nụ cười chua chát của Nguyễn Trãi trước tình cảnh trớ trêu ấy.

     Thân có nhàn nhưng thực sự tâm có nhàn không? Cụ Nguyễb Bỉnh Khiêm xưa kia tuy ” Một mai , một cuốc, một cần câu”, nhưng tâm hồn của cụ thật điểm nhiên, thanh tịnh ” Thơ thẩn dầu ai vui thú nào” (” Nhàn”) . Còn cụ Nguyễn Trãi sống trong hoàn cảnh bị nghi oan , bọn quyền thần dèm pha, nịnh bợ liệu rằng cuộc sống của nhân dân có được an bình, yên vui? Có lẽ đó là nỗi niềm mà cụ canh cánh mãi trong lòng, khó mà dứt được.

  1. Bức tranh thiên nhiên trong ngày hè ( 5 câu thơ tiếp)

       Nguyễn Trãi là vị anh hùng tên tuổi lừng lẫy trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Tài năng kiệt xuất của ông không chỉ được khẳng định trong lĩnh vực chịn trị, quân sự, ngoại giao mà còn được khẳng định qua sự nghiệp văn chương đồ sộ với những đóng góp lớn lao cho nền văn học nước nhà

     Lý tưởng mà Nguyễn Trãi ôm ấp là giúp vua làm cho đất nước thái bình nhân dân thịnh vượng. Lý tưởng cao đẹp ấy là nguồn động viên mạnh mẽ khiến ông vượt qua mọi thử thách , gian nan trên đường đời. Lúc được nhà vua tin dùng cũng như khi thất sủng nỗi niềm lo nước , thương dân luôn canh cánh trong lòng ông. Giông bão cuộc đời không thể dập tắt nổi ngọn lửa nhiệt tình trong tâm hồn người chí sĩ tài đức vẹn toàn ấy.

     Bài thơ ”cảnh ngày hè ” được sáng tác vào thời gian Nguyễn Trãi về nghỉ ở Côn Sơn. Ông tạm thời xa lánh chốn kinh đô tấp nập ngựa xe và chốn cửa quyền hiểm hóc để về với chốn thiên nhiên trong trẻo, an lành nơi thôn dã, bầu bạn cùng dân cày cuốc cùng mây nước , chim muông , hoa cỏ hữu tình. Trong những ngày tháng dài nhàn nhã bất đắc dĩ ấy nhà thơ có lúc thấy vui trước cảnh vật mùa hè tưng bừng sức sống và kín đáo gửi vào những vần thơ tả cảnh một thoáng khát vọng mong cho dân giàu, nước mạnh. Bài thơ phản ánh tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời , yêu nhân dân , đất nước.

     Trong nỗi canh cánh đó bức tranh thiên nhiên tươi tắn hiện về hòa vào bức tranh lao động khỏe khoắn, tươi vui có thể là một niềm an ủi lớn đối vởi cụ. Xa chốn quan trường, Nguyễn Trãi hòa mình vào cuộc sống thôn dã, quê nhà. Đó là hình ảnh bức tranh thiên nhiên mà tác giả đã say sưa nét vẽ như ở trong bài thơ đã chứng tỏ một điều cuộc sống đâu phải cứ giàu có thì sang trọng.

       Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

      Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

       Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Tác giả đón nhận cảnh ngày hè trong tư thế ung dung, thoải mái khi ở ẩn,lúc nhà vua không còn trọng dụng tới nữa. Các từ ” đùn đùn”( dồn dập tuôn ra), ” giương ”( tỏa rộng ra), ” phun” , ”tiễn” ( ngát, nức) gợi tả sức sống căng đầy chứa chất bên trong sự 

vật tạo nên những hình ảnh mới lại , ấn tượng. Bức tranh cảnh ngày hè được tác giả vẽ lên thật rực rỡ và tươi đẹp với nhiều màu sắc. Nguyễn Trãi đã dùng các tính từ để diễn tả đó là màu xanh của cây hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen màu vàng lung linh của ánh nắng chiều. Tất cả hòa quyện lại với nhau tạo nên cảnh vật đặc trưng của mùa hè mà khi nhìn vào thi liệu thì bức tranh tất được vẽ vào lúc cuối hè: hoa lựu đang rộn ràng chuyển sang màu đỏ rực, sen thì đã tiễn mùi hương. Lá hòe ngả sang màu lục , um tùm dồn lại từng khối lá xanh, tỏa rộng, che rợp cả mặt sân. Hoa lựu không còn nhạt mà rực rỡ như những chùm lửa đỏ. Sau này Nguyễn Du cũng đã dùng hoa lựu để nói cái oi bức, rực nóng của mùa hè.

            Dưới trăng quyên đã gọi hè

     Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông.

Dưới những ao đầm hoa sen đã nở rộ xen 

giữa những chiếc lá mát xanh, cả đầm sen đưa hương thơm ngát. Điểm vào cái không gian ấy là tiếng ve kêu ồn ã như đang trút hết mình cho chút chiều tà. Nếu mùa xuân là mùa cây cối đâm chồi nảy lộc thì mùa hạ là lúc trưởng thành. Đặc biệt cuối hè là lúc nó phô diễn một sức sống căng đầy sung mãn nhất của sự trưởng thành. Nó bắt đầu kết trái cho mùa thu để rồi chuẩn bị cho sự hóa thân  vào mùa đông.

   Chỉ trong ba câu thơ hàm súc tác giả đã vẽ ra trước mắt  người đọc một bức tranh mùa hè rực rỡ với những gam màu đậm, tươi tắn cùng những hình ảnh đặc trưng của mùa hè. Bao trùm lên những bức trạn ấy chính là những” chiếc lọng” xanh biếc của tán hòe đang bung sắc như làm dịu đi cái chói chang , gay gắt của nắng hè. Đặt điểm nhìn xuống thấp hơn ,nhà thơ đã khéo léo đan cài màu đỏ rực của thạch lựu hiên trước nhà cùng sắc hồng của ao sen đang tỏa hương thơm ngát lan tỏa khắp không gian.

     Nếu thơ ca cổ điển ưa những gam màu trầm hơn là những sắc gắt, ưa tả tĩnh hơn tả động thì Nguyễn Trãi đã dám bước qua cái khuôn khổ ấy để thoát khỏi những bức tranh thanh đạm, tiêu sơ và để đến gần hơn bức tranh ngày hè tươi vui, đầy sức sống. Nhà thơ không chỉ cảm nhận được hình sắc của thiên nhiên tạo vật mà con cảm nhận được một mạch sống đang ứa căng tràn trề, đang đùn đùn phun ra những sắc xanh sắc đỏ của hoa lá cỏ cây. Thiên nhiên của Nguyễn Trãi hiện lên qua những động từ mạnh ” đùn đùn”  ” phun” , ” tiễn” , ” giương” như đang trào dâng một sức sống nội sinh mãnh liệt mạnh mẽ, nó được đặt trong sự vận động, phát triển của tự nhiên. Ao sen cũng không chỉ gợi một thứ hương dịu nhẹ mà còn thể hiện sự lan tỏa , sự chuyển động của mùi hương ấy khắp không gian.

    Đều lấy tâm điểm là những bông hoa thạch lựu đỏ như những đốm lửa nhưng nếu Nguyễn Du gợi tả màu sắc qua phép điệp âm ” lửa lựu lập lòe ” trong câu thơ ” đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”( truyện Kiều) thì hoa lực trong thơ của Nguyễn Trãi còn viên mãn nhưng cũng rất thanh thoát ý vị ấy khác hẳn với cái nóng nực của mùa hè mà các nhà thơ trong ”Hồng Đức quốc âm thi tập” đã biểu hiện.

      Nước nồng sừng sực đầu rô trỗi

     Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè.

   Phải chăng chính nhà thơ đã mở rộng tâm hồn mình để cảm nhận cuộc sống, để phát hiện ra cái thế giới bên trong đang tuôn tràn của thiên nhiên, và cái vận động không ngừng của tự nhiên.

    Giữa cảnh với người có nét tương đồng nào chăng? Đời người anh hùng cũng đã vơi nhưng giống như hàng tùng bách dày dặn tuyết sương nên sức sống vẫn chảy mạnh trong huyết quản. Thức đỏ( màu đỏ) của hoa lựu phải chăng là thức đỏ của tấm lòng sắt son với dân với nước? Mùi hương thơm ngát của sen có phải là lý tưởng chẳng bao giờ phai nhạt của Nguyễn Trãi suốt đời phấn đấu vì đất nước thanh bình vì nhân dân hạnh phúc?!

  Nhưng trong thi của Nguyễn Trãi không chỉ có họa có hương mà còn có những âm thanh muôn vẻ của cuộc sống thường nhật

          Lao xao chợ cá làng ngư phủ

         Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.

Thiên nhiên không hề u ám trầm lặng khi nắng chiều buông mà ngược lại rất rộn rã và sôi động. Nhà thơ đã đưa vào bức tranh của mình những hình ảnh vô cùng quen thuộc gần gũi nhưng lại không đi theo khuôn sảo , lối mòn nào. Hai từ láy ” lao xao” ”dắng dỏi” được đảo lên đầu mỗi câu thơ làm bật lên cái âm thanh sôi động náo nhiệt xóa tan không khí quạnh hưu , cô tịch lúc ”tịch dương”. Cảnh phiên chợ- một dấu hiệu của sự sống con người hiện ra với tiếng người mua kẻ bán tiếng cười nói tiếng chuyện trò gian thật bình yên và ấm áp. Nhà thơ không hề thoát tục không hề xa dời cuộc sống mà là đang hướng lòng mình về với cuộc sống bình dị từ những âm thanh bình dị nhất. Nhà thơ nhiw căng mở hết tất cả các giác quan cả thị giác, khứu giác, thính giác và cả những liên tưởng bất ngờ ”dắng dỏi cầm ve ” tiếng ve ing ỏi một thứ âm thanh không xa lạ đối với mùa hè được ví như cung đàn mùa hạ tấu lên một cách rộn ràng hòa chung với bản đàn rạo rực, hối hả của cuộc sống căng tràn trong thiên nhiên. Lời thơ như diễn tả 1 cuộc sống đang sinh sôi, tiếp diễn ngay cả khi ngày sắp tàn. Một khung cảnh thật êm đềm và thanh bình nơi chốn  làng quê. Cùng viết về mùa hè nhưng những cảm xúc trong mỗi bài thơ lại đem đến một mùa hè khác nhau:

                 Tháng tư đầu mùa hạ 

                 Tiết trời thực oi ả

               Tiếng dế kêu thiết tha

               Đàn muỗi bay tơi tả.

Nếu như ta cảm nhận được mùa hè rộn ràng náo nhiệt trong những vần thơ Ức trai thì mùa hè của Nguyễn Khuyến oi nồng và có phần u uất. Bởi với ”cảnh ngày hè” Nguyễn Trãi đã cảm nhận thiên nhiên sự sống bằng chính sức sống dồi dào trong tâm hồn mình, bằng sự tha thiết với cuộc sống. Còn Nguyễn Khuyến đã mượn mùa hè để dải bày những bức bối, u uất trong lòng mình đúng như tên bài thơ ”Than mùa hè”. Thi nhân như đang náo nức muốn hòa mình cùng niềm vui sự sống với tâm hồn thiết tha yêu  thiên nhiên để rồi từ đó thổi bùng lên khát vọng bấy lâu nay của một con người luôn hết mình với đất nước.

 Thiên nhiên trong bài thơ này là thế. Dường như nó đang ở trạng thái căng đầy nhất. Một bức tranh thiên nhiên đủ gợi cho chúng ta liên tưởng về một cuộc sống ấm no đủ đầy.

  1. Ước nguyện của nhà thơ ( 2 câu thơ cuối)

   Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã dành những lời trân trọng nhất ”Nguyễn Trãi là người đầu đội trời Việt Nam , chân đạp đất Việt Nam tâm hồn lộng gió thời đại.”

Vẻ đẹp ấy của hồn thơ Nguyễn Trãi đã được phác họa qua những vần thơ của ” Cảnh ngày hè”, một trong số bài thơ của chùm thơ 61 bài “ Bảo kính cảnh giới”. Ở đó, ta không chỉ bắt gặp một tâm hồn tinh tế nhạy cảm trước thiên nhiên của một người nghệ sĩ mà còn thấy được một tấm lòng luôn cháy sáng vì nước vì dân của vị anh hùng dân tộc.

 Tuy tác giả đón nhận cảnh ngày hè với tư thế ung dung trong một ngày nhàn rỗi nhưng ông vẫn luôn suy nghĩa, lo lắng cho dân cho nước. Cảm nhân cảnh ngày hè nhưng tác giả vẫn quan tâm tới cuộc sống của nhân dân. Thế nên, ông thấy âm thanh tấp nập, lao xao của làng chài. Ông quan tâm tới nhân dân, lo cho dân cho nước. Chính vì vậy, ông mong ướ mình có cây đàn của vui Ngu Thuấn để gãy khúc “Nam phong”, Nguyễn Trãi có thể mang tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và đất nước.

  Hai câu cuối của bài thơ được tác giả gửi gắm trọn vẹn tâm tư và suy nghĩ:

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương

Hai câu kết của bài thơ cũng là một mô típ thường thấy trong thơ Nguyễn Trãi. Một tấm lòng ưu ái luôn chỉ chực dân lên trong lòng người. Câu thơ gắn với một điển thích. Ở Trung Quốc thời cổ đại có một triều đại lý tưởng ( Thực chất là một cộng đồng người nguyên thủy sống theo bộ tộc) được đời đời truyền tụng như là một hình mẫu đẹp- thời vua Nghiêu Thuấn. Vua Thuấn có cây đàn (gọi là Ngu Cầm). Vua thường hay dạo khúc Nam phong trong đó có câu “ Nam phong chi thì hề khả dĩ phụ ngô dân chi tài hề” nghĩa là “gió nam thuận thì có thể làm cho dân ta thêm nhiều của”. Mượng một điển tích, Nguyễn Trãi đã không dấu được sự vui mừng khi thấy dân chúng khắp nơi đang được đủ đầy ấm no.

Hai câu kết toát lên một tình yêu lớn. Con người Ức Trai lúc nào cũng hướng về nhân dân, đất nước, mong ước cho dân được ấm no và nguyện hi sinh phấn đấu cho hòa bình, hạnh phúc. Trong thơ Ức Trai, hai câu kết luôn luôn là sự hội tụ bừng sáng những tư tưởng tình cảm cao cả, đẹp đẽ. Vì thế mà câu kết đã để lại trong tâm hồn người đọc những ấn tượng mạnh mẽ như ở bài “Thuật hứng -số 5”, nhà thơ đã từng bộc bạch, gửi gắm:

Bui có một tấm lòng ưu ái cũ

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông

( “Thuật hứng”-số 5)

Bài thơ nôm ra đời gần 600 năm về trước miêu tả cảnh tình mùa hè nơi đồng quê, đã đem đến cho chúng ta nhiều thú vị văn chương. Một giọng thơ thâm trầm, hồn hậu đáng yêu. Nhiều tiếng cổ cáu trúc câu thơ thất ngôn chen lục ngôn. Phép đối ở phần thực và phần luận khá chặt chẽ về ngôn từ, thanh điệu, hình ảnh và ý tưởng. Cảnh sức và âm thanh mùa hè quê ta xa xưa sống dậy qua những vần thơ nhuần nhị đầy cá tính sáng tạo. Ức Trai đã gửi gắm một tình yêu thiên nhiên nồng hậu, một tấm lòng thiết tha với cuộc sống, một niềm ước mong tốt đẹp cho hạnh phúc của nhân dân. Vĩ đại thay Ức Trai. Bài học thương yêu nhân dân mà ông nói đến lúc nào cũng mới mẻ và đậm đà.

 Câu nói người xưa “Tiên thiên hạ chỉ ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chí lạc nhi lạc” ( Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ) thật hợp với cuộc đời Nguyễn Trãi. Một cuộc đời trọn tình, vẹn nghĩa với nước với dân.

Nhà bác học Lê Quý Đôn đã từng khẳng định rằng “ Thơ khởi phát từ trong lòng người”. Quả thực không có những cảm xúc, những tâm sự sâu kín nén chặt, chất chứa trong lòng sẽ chẳng bao giờ có thơ. Qua “Cảnh ngày hè” ta không chỉ ngưỡng mộ tài năng của nhà văn hóa lớn mà ta còn nghe được tiếng lòng, tiếng yêu cuộc sống, tiếng yêu quê ương , dân tộc cảu Ức Trai tiên sinh tha thiết hơn bao giờ hết.

  1. Nghệ thuật:

– Tác giả đã vận dụng một cách sáng tạo thể thơ Đường Luật với sự đan xen của câu sáu chữ và câu 7 chữ.

– Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, gần gũi với khẩu ngữ ( Lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân) nhưng lại rất giàu cảm xúc và giàu sức gợi.

– Bút pháp tả cảnh ngụ tình đực trưng của văn học trung đại: Miêu tả thiên nhiên, đất trờ và cảnh sống sinh hoạt của con người để qua đó bộc lộ một cách kín đáo tâm tư, tình cảm, nỗi lòng của mình về con người , về cuộc đời.

  1. Ý nghĩa văn bản.

– Bài thơ đã dựng nên một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc, đẹp đẽ, thơ mông và khung cảnh của cuộc sống sinh hoạt bình an, yên ổn. Điều đó thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và khát vọng xã hội phồn vinh, nhân dân no đủ, đất nước thịnh vượng của người nghệ sĩ hết lòng vì nước vì dân.

– Đồng thời, bài thơ cũng khắc họa tâm hồn và nhân cách cao thượng, tấm lòng yêu quê hương đất nước của Nguyễn Trãi. Ngay cả khi đang bị chèn ép, nghi ngờ, Nguyễn Trãi cũng vẫn lo lắng cho nhân dân, vẫn khao khát được sóng hiến tài năng, công sức của mình cho dân, cho nước.           

 

Bài làm 2

           Như B.Shelly từng nói: “Thi sĩ là con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự cô độc của chính mình”. Quả thật đúng như vậy, thơ có mặt ở trên đời cũng giống như người bạn, người tri âm đồng hành cùng chính cảm xúc chân thật nhất của con người. Một thi phẩm hay dù trong thời đại nào, giai đoạn nào nó cũng gắn mình trong một hình hài mới, hay hòa mình vào những dòng thơ khuôn mẫu niêm luật thì cũng đều mang những đặc sắc riêng cùng giá trị riêng. Đến với thơ Trung đại ta sẽ bắt gặp những dòng thơ hào sảng với niềm tự hào dân tộc, yêu đất nước, sẽ lắng đọng thưởng thức những cảnh thiên nhiên đất trời làng quê dân dã, sẽ cảm nhận rõ ràng tình yêu của người nghệ sĩ đối với nước non với người dân cùng khát vọng về một đất nước thịnh vượng, xã hội phồn vinh. Tất cả những vẻ đẹp này đều được gói gọn trong “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi – một thi phẩm trung đại có sức sống lâu bền.

       Nguyễn Trãi là một nhà tư tưởng vĩ đại, nhà quân sự lỗi lạc, nhà văn, nhà thơ kiệt xuất của dân tộc, và còn là nhà chính trị, nhà ngoại giao tài ba – một danh nhân văn hóa thế giới. Có thể nói, Nguyễn Trãi là một hiện tượng hiếm có trong lịch sử dân tộc và thế giới một con người đã có cống hiến rất lớn trong công cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước ấy đã phải gánh chịu tai họa thảm khốc nhất lịch sử. Cuộc đời lắm gian truân, là người hiểu biết rộng, có sự tìm tòi về văn chương những điều này đã giúp Nguyễn Trãi trở thành một thi sĩ tài ba. “Cảnh ngày hè” là bài thơ được ông sáng tác vào thời gian về nghỉ ở Côn Sơn. Tại đây Nguyễn Trãi được hòa mình với vẻ đẹp của thiên nhiên và con người ở làng quê, sống một cuộc sống nhẹ nhàng bình dị, tạm thời xa lánh nơi kinh đô tấp nập ngựa xe, mệt mỏi vì những thủ đoạn chạy đua tiền bạc quyền thế. Trong những tháng ngày dài nhàn nhã “bất đắc dĩ” ấy, nhà thơ tận hưởng mọi khoảnh khắc yên bình của quê hương, kín đáo gửi những tâm tư của mình vào thơ ca, khát vọng về một đất nước bình yên, dân giàu, nước mạnh, tâm hồn chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước. Mở đầu bài thơ ta thấy một thi sĩ với một tâm thế thảnh thơi:

Rồi hóng mát thuở ngày trường

      Một vị quan hằng ngày bận rộn với công việc triều chính, nay lại rảnh rỗi ngồi hóng mát phải chăng ông đã tạm gác việc triều chính, thế sự nhiễu nhương sang một bên, tạm lánh đục về trong, sống đời sống của một hiền nhân thanh cao không vướng bụi trần. Người nghệ sĩ với tâm hồn thư thái, thanh thản trong một dịp nhàn rỗi hiếm hoi đang hóng mát “ thuở ngày trường” – một ngày dài dằng dặc, thời gian như ngưng đọng. Ở đây ta có thể thấy rõ cách tân mới mẻ của Nguyễn Trãi khi câu thơ bảy chữ của thể thất ngôn bát cú nay lại chỉ còn sáu chữ. Nhịp thơ 1/2/3, chậm rãi phản ánh tư thế ung dung, tự tại vốn có của tác giả, nhàn nhã, như không vướng bận điều gì. Ông rất biết mà tận hưởng những ước nguyện của mình, ông ao ước được hòa mình cùng thiên nhiên, được sống trong khoảnh khắc bình dị, nhưng cũng thật trớ trêu thay, giữa lúc thế sự còn chưa yên, sau chiến tranh còn cần nhiều cải thiện, việc dân việc nước bời bời mà ông bị bắt buộc phải hóng mát hết ngày này qua ngày khác thì quả là trớ trêu. Bởi vậy, ông rơi vào cảnh thân nhàn mà tâm bất nhàn. Đằng sau câu thơ trên dường như thấp thoáng một nụ cười chua chát của Nguyễn Trãi trước tình cảnh trớ trêu ấy. Tiếp đó ở ba câu tiếp theo ta thấy một bức tranh quê hiện lên với nét tươi tắn, hài hòa:

Hoè lục đùn đùn tán rợp giương.

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.

      “Hòe lục”, “thạch lựu”, “hồng liên trì” đều là những hình ảnh đẹp đẽ, chúng đua nhau vươn lên khoe sắc, mọi vật như căng tràn sức sống. Trật tự thiên nhiên trải từ cao xuống thấp, điểm nhìn của thi sĩ cũng di chuyển từ tầng không, qua hiên nhà rồi xuống ao sen. Ở tầng nào của thiên nhiên, sức sống bên trong cảnh vật cũng như đang căng tràn. Tất cả là sự sống của thiên nhiên đang kì toàn thịnh. Ta thường thấy rằng thiên nhiên trong thơ cũ trung đại vẫn luôn gắn với hệ thống ước lệ tượng trưng gò bó, hình ảnh cũng chỉ gói gọn trong một phạm vi nhất định, nhà thơ đều phải bó mình vào những niêm luật hà khắc thế nhưng đến với Nguyễn Trãi trong “Cảnh ngày hè” ta thấy cũng là những hình ảnh quen thuộc của mùa hè nhưng cách nhà thơ viết về nó là cả những sự sống, sức sống dồi dào, sục sôi mạnh mẽ. Ta bắt gặp một hồn thơ Thơ trung đại đầy sáng tạo với những cách tân không chỉ về ngôn từ mà còn là nội dung, trong thơ của Nguyễn Trãi ta còn toàn cảm nhận được một bức tranh thiên nhiên với những chuyển động mạnh khác với vẻ ưa cái tĩnh, thanh trong vị, đạm trong màu sắc trong lối thơ cũ. Nguyễn Trãi của nhiên phải là một hồn thơ vô cùng tinh tế với những tài năng sáng tạo của mình. Có được cảm quan đó, hẳn đấy phải là một tâm hồn yêu thiên nhiên, và rạo rực với niềm tin vào cuộc sống, vào dòng lưu chuyển đất trời. Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi nhờ những chuyển động mạnh mẽ đầy nội lực ấy mà bớt đi vẻ đài các cao sang ước lệ của văn chương cổ điển, mà mang đậm hơi thở của cuộc sống. Bức tranh làng quê không chỉ dừng lại với những hình ảnh thiên nhiên mà dần xuất hiện hình ảnh của con người thân thuộc:

Lao xao chợ cá làng ngư phủ,

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.

         Với thủ thuật sử dụng phép đảo ngữ, đặt những âm thanh “ lao xao”, “ dắng dỏi” lên đầu mỗi câu tạo nên sự náo nhiệt của bức tranh ngày hè. Âm thanh rộn rã, tươi tắn cho ta thấy một đất nước đã trở nên phồn thịnh hơn. Vì sao lại nói như vậy? Đây chính là tiếng “Lao xao” tiếng trao qua đổi lại, ồn ã tiếng nói tiếng cười. Là tiếng lao xao của những người lao động cần cù chịu khó, cuộc sống của họ đang không ngừng phát triển. “Lao xao” cùng với tiếng ve kêu nhộn nhịp mà tươi vui. Tiếng ve lúc chiều tà như tiếng đàn rộn rã khiến tâm trạng nhà thơ cũng náo nức hẳn lên. Cùng với âm thanh của cuộc sống sung túc, đủ đầy là bản nhạc ve trong khoảnh khắc tịch dương. Lúc tịch dương, dù là miền sơn cước hay chốn chương đài người ta đều nghĩ đến không gian hiu quạnh cô tịch, sự sống đang dần tàn lụi. Nhưng, chiều “tịch dương” trong thơ Nguyễn Trãi không như vậy. Không gian hiu quạnh cô tịch đã bị xua tan bởi bản nhạc ve “dắng dỏi”. Tiếng ve inh ỏi như một bản đàn làm hoàng hôn cũng trở nên náo nhiệt. Ta thấy Nguyễn Trãi một con người có tình yêu cuộc sống, tình yêu con người đến nồng nàn mãnh liệt, khát khao giao cảm với thiên nhiên với cuộc đời đã gợi lên trong tác giả những cảm xúc cùng sự chân thành thật lòng nhất, một tâm hồn thiết tha cuộc sống. 

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,

Dân giàu đủ khắp đòi phương.

 

       Người sử dụng điển tích đàn Ngu cầm của vua Nghiêu Thuấn, nói về hình ảnh đời sống của nhân dân an cư lạc nghiệp, đất nước yên bình. Nguyễn Trãi luôn đau đáu trong lòng một niềm mong mỏi sao cho dân chúng khắp nơi đều được giàu có, no đủ. Ẩn giấu đằng sau lời ước mong ấy là sự trách móc nhẹ nhàng mà nghiêm khắc bọn quyền thần tham bạo ở triều đình đương thời không còn nghĩ đến dân, đến nước. Theo ông, với cảnh nước non tươi đẹp cùng nhân dân chất phác, siêng năng, cuộc sống lẽ ra phải được trở lại ấm no, hạnh phúc từ lâu. Chính ước mơ ấy đã phần nào giúp ta hiểu hơn về tấm lòng Nguyễn Trãi, một nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ. Khát vọng thật cao đẹp nhưng còn đẹp hơn khi khát vọng ấy là ước mơ chung cho tất cả mọi người. Đó là ước mơ lớn, khát vọng lớn đẹp đẽ và thật đáng ngưỡng mộ. 

      Bài thơ đã dựng nên bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc, đẹp đẽ, thơ mộng và khung cảnh của cuộc sống sinh hoạt bình an, yên ổn. Điều đó thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và khát vọng xã hội phồn vinh, nhân dân no đủ, đất nước thịnh vượng của người nghệ sĩ hết lòng vì nước, vì dân. Đồng thời, bài thơ cũng khắc họa tâm hồn và nhân cách cao thượng, tấm lòng yêu quê hương, yêu đất nước của Nguyễn Trãi. Ngay cả khi đang bị chèn ép, nghi ngờ, Nguyễn Trãi cũng vẫn lo lắng cho nhân dân, vẫn khao khát được cống hiến tài năng, công sức của mình cho dân, cho nước. Tác giả đã vận dụng một cách sáng tạo thể thơ Đường luật với sự đan xen của câu sáu chữ và câu bảy chữ. Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, gần gũi với khẩu ngữ nhưng lại rất giàu cảm xúc và giàu sức gợi. Bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc trưng của văn học trung đại: Miêu tả thiên nhiên, đất trời và cảnh đời sống sinh hoạt của con người để qua đó bộc lộ một cách kín đáo tâm tư, tình cảm, nỗi lòng của mình về con người, về cuôc đời.

     “Cảnh ngày hè” đã trở thành thi phẩm nổi tiếng có sức hấp dẫn đến người đọc đến tận ngày nay. Đọc tác phẩm ta như cảm nhận rõ hơn về một tấm lòng yêu nước chân thành mãi khó phai của tác giả, càng sục sôi thêm ngọn lửa tình yêu tổ quốc đối với ta – những đọc giả. Bởi thế mới nói, Nguyễn Trãi thật đúng với danh vua Lê Thánh Tông đã tặng: “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo” (Tâm Ức Trai sáng tựa sao khuê).

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *