Bình Ngô đại cáo là áng văn yêu nước đồng thời là áng văn chứa đựng tư tưởng nhân văn – Phân tích và làm sáng tỏ nhận định trên.

Đề 21: “Bình Ngô đại cáo là áng văn yêu nước đồng thời là áng văn chứa đựng tư tưởng nhân văn”.

Anh (chị) hãy phân tích và làm sáng tỏ nhận định trên.

 

Bài viết

    Bình Ngô đại cáo được coi là áng thiên cổ hùng văn là tấm gương soi của đất nước Việt Nam, của con người Việt Nam. Nó là bản hùng ca về ý nghĩa, thái độ và việc làm của toàn thể nhân dân ta suốt đời này qua đời khác. Nó là tiếng vọng của ngàn xưa cho đến mai sau, mãi mãi nói lên rằng chúng ta những người Việt Nam đã sống như thế, đang sống như thế và sẽ sống như thế. Vì vậy, Bình Ngô đại cáo không chỉ nói lên khí phách anh hùng với tư tưởng yêu nước và tâm hồn cao đẹp mang tinh thần nhân văn của cả dân tộc Việt Nam.

   Bản thân Nguyễn Trã từ nhỏ đã được hấp thụ những truyền thống tốt đẹp của gia đình. Nguyễn Trãi là người thông minh, Năm 20 tuổi đi thi đỗ thái học sinh. Nguyễn Trãi chứng kiến nhiều biến cố lớn lao và bị buộc phải đứng trước những lựa chọn khó khăn. Tuy nhiên, ông luôn là người đi theo xu hướng tiến bộ, yêu nước, lấy quyền lợi của đất nước, của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu của mình. Nguyễn Trãi là người hiểu rõ nỗi thống khổ lẫn sức mạnh của nhân dân.

  Sự thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam sơn đã mở ra một kỉ nguyên mới cho đất nước. Truyền thống yêu nước anh hùng của dân tộc trải qua chiến tranh càng chứng tó sức sống mãnh liệt. Đó cũng là môi trường thuận lợi để Nguyễn Trãi phát huy tài năng của mình. Thơ văn Nguyễn Trãi luôn chở nặng một niềm tâm sự yêu nước thương dân, đó là sự thôi thúc của lý tưởng trừ bạo, yên dân, đồng thời mang theo cái khí tiết cứng cỏi, thẳng ngay, chính trực của người quân tử. Dù trong bất kì hoàn cảnh nào, dù phải chịu những cảnh ngộ oan trái ra sao, thì nhà thơ vẫn không ngừng theo đuổi giấc mơ dân giàu đủ khắp đòi phương của mình.

    Tác phẩm Bình Ngô đại cáo được viết thể văn chính luận cổ, sau đại thắng quân Minh là bản tổng kết xuất sắc quá trình kháng chiến 10 năm không chỉ thể hiện tinh thần yêu nước bảo vệ độc lập, truyền thống bất khuất chống ngoại xâm, còn đặc biệt đề cao chí nhân, đại nghĩa như một giá trị văn hóa sáng ngời của dân tộc đại Việt. Theo Đại Việt sử kí toàn thư: Tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo được viết vào tháng 12/1427 còn theo Ức Trai thi tập: tháng 4/1428.

 Cáo viết khi chiến thanh kết thúc là nhằm tổng kết quá trình chiến đấu và công bố chiến thắng. Bình có nghĩa là dẹp yên, xác định rõ tư thế của kẻ đi gây rối và kẻ dẹp loạn. Ngô vừa là tước hiệu của Chu Nguyên Chương khi chính thức lên ngôi, vừa là quê cha đất tổ của nhà sáng lập Đại Minh. Vào thời Tam quốc, giặc Đông Ngô sang xâm lược nước ta, tàn ác và bạo ngược vô cùng. Không thể quên nỗi đau đó, nhân dân ta thường gọi quân xâm lược là giặc Ngô, biểu thị sự khinh ghét. Cho nên 

Bình Ngô là bình định giặc Ngô. Trong phạm vi của dân tộc: Bài cáo là kết tinh của một thời đại, một chẳng đường phát triển đầy tự hào của dân tộc so với toàn bộ thơ văn từ trước đến đấy và cả những chặng đường sau đó về quan điểm dân tộc, về tinh thần dân tộc và về tư tưởng yêu nước. Trong phạm vi tư tưởng và văn nghiệp: Bài cáo được sáng tác ở thời kỳ rực rỡ nhất của cuộc đời Ức Trai, nó được xem là một thiên cổ hùng văn, có giá trị như một bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc.

Văn học trung đại Việt Nam khởi nguồn từ truyền thống sản xuất và chiến đấu của tổ tiên, từ những thành tựu văn hóa và chính từ thực tiễn hàng nghìn năm đấu tranh chống ngoại xâm phương Bắc. Hiếm thấy một dân tộc nào trên thế giới lại phải liên tục tiến hành những cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm như dân tộc Việt Nam. Nhà Tiền lê, nhà Lý chống Tống. Nhà Trần chống Nguyên Mông. Nhà Hậu Lê chống giặc Minh. Quan Trung chống giặc Thanh. Những cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại  được tiến hành trong thời kì lịch sử nhằm bảo vệ nền độc lập, thống nhất của tổ quốc không những tôi luyện bản lĩnh dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tin, khí thế hào hùng của dân tộc mà còn góp phần làm nên một truyền thống lớn trong văn học Việt Nam: Chủ nghĩa yêu nước. Đặc điểm lịch sử đó đã quy định cho hướng phát triển của văn học là phải luôn quan tâm đến việc ca ngợi ý chí quật cường, khát vọng chiến đấu,chiếng thắng, lòng căm thù giặc sâu sắc, ý thức trách nhiệm của những tấm gương yêu nước, những người anh hùng dân tộc quên mình vì nghĩa lớn. Có thể nói, đặc điểm này phản ánh rõ nét nhất mối quan hệ biện chứng giữa lịch sử dân tộc và văn học dân tộc. Quá trình đấu tranh giữ nước tác động sâu sắc đến sự phát triển của văn học, bồi đắp, phát triển ý thức tự hào dân tộc, tinh thần độc lập tự chủ. Cho nên, chế độ phong kiến có thể hưng tinh hay suy vong nhưng ý thức dân tộc, nội dung yêu nước trong văn học vẫn phát triển không ngừng.

  Nói đến ‘nhân văn’ (Humanism) là chúng ta nói đến vẻ đẹp, nét đẹp của con người. Theo từ điển văn học thì khái niệm nhân văn được hiểu theo hai cấp độ: cấp độ thế giới quan và cấp độ lịch sử. Ở cấp độ thế giới quan: Chủ nghĩa nhân văn là toàn bộ những tư tưởng quan điểm, tình cảm quý trọng các giá trị của con người như trí tuệ, phẩm giá, vẻ đẹp… Ở cấp độ thế giới quan: Chủ nghĩa nhân văn là một trào lưu văn hoá – tư tưởng nảy sinh ở Ý và một số nước khác ở châu Âu. Theo phạm trù văn hoá được ghi chép lại trong thư tịch cổ thì nó có biên địa ý nghĩa rất rộng, ngoài ý nghĩa để cao giá trị nhân đạo, vẻ đẹp văn hoá của con người, còn nói đến nét đẹp tinh anh của con người và vũ trụ. Một tác phẩm có giá trị nhân văn là thể hiện con người với những nét đẹp của nó đặc biệt là giá trị phẩm chất, tâm hồn của nhân vật, tác phẩm đó hướng đến sự khẳng định và đề cao cái đẹp của con người. Trong văn học ở giai đoạn Trung kỳ trung đại, khái niệm nhân văn cũng có những điểm khác trước. Trong thơ văn, khái niệm nhân văn là đề cao vẻ đẹp của người trí thứcNho sĩ tích cực dấn thân và đầy ý thức trách nhiệm đối với ý thức trách nhiệm đối với đất nước, nhân dân và triều đại. Đó là duy trì đạo lý nhân nghĩa, hiếu trung. Sự đau xót đi liền với phẫn nộ và lên án chiến tranh phong kiến đã thể hiện tình cảm nhân đạo sâu sắc của thơ văn trong giai đoạn này.

Tư tưởng yêu nước và nhân văn là hai tư tưởng có giá trị xuyên suốt trong thời kỳ văn học Trung đại nước ta bởi đó tính chất đặc thù của lãnh thổ và dân tộc chống ngoại xâm và thiên tai để bảo vệ sự sống còn của dân tộc. Nguyễn Trãi sống vào thời Lê Sơ cũng là giai đoạn văn học Việt Nam rơi vào thời Trung kỳ Trung đại (thế kỷ XV- cuối thế kỷ XVIl). Đó đó, yêu nước chính là khẳng định trách nhiệm cống hiến và trung thành với đất nước đi đôi với khẳng định trách nhiệm cống hiến và trung thành với vương triều đang trị vì đất nước. Bảo vệ và xây dựng đất nước là bảo vệ và xây dựng triều đại nhà Lê. Cho nên, thơ văn ở giai đoạn này nói chung của Nguyễn Trãi nói riêng đều thể hiện nội dung ca ngợi chiến thắng chống quân Minh, khẳng định chủ quyền độc lập, tự hào về truyền thống và con người Đại Việt, tự hào về cảnh đất nước thái bình thịnh vượng…

Với Nguyễn Trãi, yêu nước không còn dừng lại ở tâm lí, tâm trạng và tình cảm nữa mà nó đã trở thành một lí luận, một quán niệm. Đó là quần niệm về độc lập dân tộc và quốc gia có chủ quyền, điều này được thể hiện rất rõ qua những câu thơ trong bài cáo:

Như nước Đại Việt ta từ trước;

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Núi sông bờ cõi đã chia;

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập; 

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương.

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau;

Song hào kiệt thời nào cũng có.

Nguyễn Trãi đã có khái niệm về đất nước, quốc gia về chủ quyền lãnh thổ mới mẻ hơn, tiến bộ hơn, bảo gồm nhiều nhân tố có quan hệ hữu cơ: Văn hiến (Vốn xưng nền văn hiến đã lâu); độc lập chủ quyền, cương vực lãnh thổ (Núi sông bờ cõi đã chia); phòng tục tập quán (Phòng tục Bắc Nam cũng khác), lịch sử riêng, chế độ riêng (Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập – Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương). Những lời văn mạnh mẽ, dứt khoát, có ý khẳng định chắc chắn, Nguyễn Trãi đã khẳng định một cách hùng hồn chủ quyền dân tộc. Nguyễn Trãi nêu bật lịch sử các triều đại bằng phép liệt kê, song hành, đã khẳng định lịch sử lâu dài của đất nước, đồng thời khẳng định tư thế độc lập ngang hàng của Đại Việt với các triều đại phong kiến phương Bắc. Nó còn như khẳng định về hậu quả thất bại tất yếu của kẻ thù khi chúng xâm phạm đến độc lập chủ quyền của dân tộc ta. 

Tác giả khẳng định đó là tội ác Bại nhân nghĩa nát cả đất trời và kể ra những hành động tội ác man rợ của chúng. Nào là tàn sát, giết hại nhân dân kể cả các em nhỏ cũng không tha: Nướng dân đen trên ngọn lửa hừng tàn – Vùi con đỏ xuống hầm tại vạ. Rồi chúng lại bóc lột dân ta bằng thuế khoá nặng nề, ra sức vơ vét tài nguyên đất nước, đẩy người dân đến chỗ đường cùng, thậm chí tính mạng không được đảm bảo:

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngắn thấy cá mập, thuồng luồng

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.

Còn dã man, tàn bạo đến mức: 

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thấy kẻ goá bụa khốn cùng.

-Nặng nề những nỗi phụ phen,

Tan tác cả nghề cảnh cửi.

Hậu quả bọn chúng để lại thật là tàn khốc: giá đình tan nát, vợ mất chồng, con cái thì nheo nhóc, muôn loài bị phá hủy, tiêu diệt, sản xuất thì trì trệ, nhân dân khổ cực. Để nêu rõ tội ác của quân xâm lược, tác giả đã dụng phương pháp liệt kê có chọn lọc, sử dụng những câu văn giàu hình tượng, giọng văn thay đổi linh hoạt, phù hợp với cảm xúc. Lúc thì tỏ ra căm phẫn, tức giận đến thấu xương cái lũ xâm lược tàn bạo, lúc thì lại thể hiện sự xót xa, đau đớn cho nhân dân ta.

Ở phần đầu bản cáo trạng là một hình ảnh đầy ấn tượng: Nướng dân đen trên ngọn lửa hừng tàn – Vùi con đỏ xuống dưới hầm tại vạ, để rồi kết thúc bằng một hình ảnh có giá trị tổng kết cao: Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội – Dơ bạn thấy, nước Đông Hải không rửa sạch mùi. Và cuối cùng là lời phán quyết nghiêm khắc, đanh thép của nhân dân ta về tội ác của chúng:

Lẽ nào trời đất dùng tha

Ai bảo thần nhân chịu được?

Nguyễn Trãi cho rằng để tạo ra được sức mạnh dân tộc, người có trách nhiệm với lịch sử ngoài việc phải đồng cảm cộng khổ với dân, yêu nước còn phải nhận thức được vai trò quan trọng của dân còn phải có tính thần đoàn kết dân tộc để đánh đuổi ngoại xâm:

Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới;

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.

Do đó người lãnh đạo có quyết tâm cao độ, có những chiến lược, chiến thuật phù hợp để nâng cao sức mạnh của tình đoàn kết của nhân dân, chú trọng mưu cơ hơn bình lực. Trong tác phẩm này, có thể nói, hình tượng của Lê Lợi chính là hình tượng người anh hùng áo vải sinh động và toàn diện. Những lời tự bạch như phải trải tâm cản mình trước thần dân: Đau lòng nhức óc, chốc đã mười mấy năm trời-… Quên ăn vì giận, sách lược thảo suy xét đã tình – Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ. Bởi vì trong lúc thế giặc mạnh thì quân ta binh lực yếu kém, có khi lương thực cạn kiệt, có khi quân ta hiếm hoi nhân tài. Thế nhưng, nhờ tài lãnh đạo của Lê Lợi, nghĩa quân Lam Sơn đã đoàn kết một lòng, vượt qua khó khăn tạo nên sức mạnh to lớn chiến thắng kẻ địch:

                               Gươm mài đá, đá núi cũng mòn

                               Voi uống nước, nước sông phải cạn,

                    Đánh một trận sạch không kinh ngạ

                    Đánh hài trận tàn tác chim muông.

Vì vậy, theo Nguyễn Trãi, dân là gốc nước, được dân thì được nước, triều đình là thuyền, dân là nước, nước chở thuyền nhưng cũng làm lật thuyền… Với Nguyễn Trãi, trước hết của sự nhân nghĩa là cốt ở yên dân. Nếu một dân tộc từ trên xuống dưới đoàn kết một lòng thì có thể đánh thắng bất kỳ thế lực ngoại xâm nào. Sức mạnh của một đất nước bắt nguồn từ sự đoàn kết thành một khối thống nhất. Nếu như một đất nước lòng dân không thuận sẽ dễ làm loạn, vì Thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hoà nghĩa là thuận cơ trời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng thuận lòng dân. Cho nên, trong tư tưởng nhân nghĩa là yêu nước, thương dân, đánh giặc, trừ bạo cứu nước, ăn dân mà trong đó, yên dân là mục đích của nhân nghĩa, còn trừ bạo chỉ là đối tượng và phương tiện của nhân nghĩa.

Buổi đầu của cuộc khởi nghĩa thật là đầy khó khăn: quân giặc thì đang hùng mạnh, mà chúng ta mới có ít người, nhân tài thiếu thốn như sao buổi sớm, như lá mùa thu. Có lúc bị bao vây, lương thực cạn kiệt, quân sĩ chẳng còn mấy người (khi Linh Sơn, lương hết mấy tuần – khi Khôi Huyện không còn một đội)… Tuy vậy, nhờ bền gan vững chí khắc phục giản nan, nhờ sự chứng lưng đấu cật của tướng sĩ, nhờ sự đoàn kết của toàn dân và chiến lược, chiến thuật đúng đắn…, chúng ta đã dần dần xây dựng được lực lượng vững mạnh dẫn tới chiến thắng.

Đoạn tiếp theo, Nguyễn Trãi tập trung lược thuật quá trình chiến thắng. Điều đáng lưu ý, trên thực tế, từ khi dựng cờ khởi nghĩa đến khi toàn thắng, nghĩa quân Lam Sơn đã chiến thắng nhiều trận. Nhưng ở đây, Nguyễn Trãi chỉ tập trung nói đến một số trận tiêu biểu nhất của từng giai đoạn.

Ở giai đoạn mở màn đánh lớn, tác giả nói đến hai trận chiến ác liệt xảy ra tại Bồ Đằng và Trà Lân. Quân giặc hoàn toàn bị bất ngờ, thừa chạy liểng xiểng; quân ta chiến thắng nhanh chóng. Ở đây, Nguyễn Trãi có cách miêu tả rất ngắn gọn nhưng vẫn làm nổi bật lên được cái cốt lõi của hai trận đánh là sự bất ngờ trong việc dừng quân. Do đó, giặc thì hoảng sợ, hoang mang, quân thế càng đánh càng mạnh:

Sĩ khí đã hăng

Quân Thanh càng mạnh

Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,

Lí An, Phương Chinh nín thở cầu thoát thân.

Ở giai đoạn hai, quân ta mở chiến dịch Thanh Nghệ để tiến quân ra Bắc. Nguyễn Trãi nói đến hai trận có ý nghĩa chiến lược và đã diễn ra vô cùng ác liệt là trận Ninh Kiều và trận Tốt Động. Giặc thì huy động tổng lực sống chết cố thủ, ta thì quyết chiến quyết thắng; do đó, trận chiến trở nên cực kì dữ dội. Bằng cách nói cường điệu, Nguyễn Trãi đã khiến người đọc có ấn tượng sâu sắc về sự ác liệt của trận chiến, sự thất bại nhục nhã của giặc Minh:

Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm

Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.

Phúc Âm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu.

Một gian kẻ thù: Lí Lượng cũng đành bỏ mạng.

Ở giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến, Nguyễn Trãi tập trung bút lực nói về chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang. Đây là bản hùng ca vang dội nhất của cuộc kháng chiến trường kì. Như vậy mọi người đã biết, lẽ ra sau một loạt chiến bại, giặc Minh phải rút quân, nhưng trái lại, với bản chất ngoan cố, chúng lại cử viện binh hùng hậu chia làm nhiều ngả tiến xuống Đại Việt. Hai tên tướng giỏi chỉ huy hai đạo quân mạnh tạo nên thế gọng kìm hòng đè bẹp quân ta: 

Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại,

Năm ấy tháng mười, Mộc Thành chia đường từ Vân Nam tiến sang.

Nhưng ta đã có sự bố phòng chữ đáo. Hai gọng kìm của giặc liên tiếp bị bẻ gãy:

Ta trước điều binh thủ hiểm, chặt mũi tên phong.

Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.

Sau đó là những chiến thắng dồn dập. Hơi văn hăm hở như có nhịp thở của người viết, mạch văn dồn đuổi như cố theo kịp bước hành quân thần tốc và những đòn đánh cấp tập của nghĩa quân:

Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,

Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu.

Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.

Ngày hai tám, Thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.

Tiếp đó, bài cáo chuyển sang tiếp cận cụ thể cảnh trận mạc. Câu văn đúc lại, ngắn gọn, đầy hình ảnh thậm xưng phóng đại nhằm cực tả sức mạnh vĩ đại, khí thế áp đảo của quân ta:

Sĩ tốt kén tay hùng hổ,

Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh,

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn 

Với uống nước, nước sông phải cạn,

Đánh một trận, sạch không kình ngạc

Đánh hai trận, tàn tác chim muông

Cơn gió to trút sạch lá khô,

Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.

Trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo, tư tưởng nhân văn đã được bao hàm trong tư tưởng nhân nghĩa. Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của Bình Ngô đại cáo, nó là mục tiêu chiến đấu vô cùng cao cả và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đồng thời là tư tưởng của dân tộc được hình thành và phát triển xuyên suốt chiều dài lịch sử. Theo Nguyễn Trãi nhân nghĩa không chỉ là hành động thương xót nhân dân mà còn gắn với hành động trừ bạo cứu dân. Mục đích của nhân nghĩa đã được khẳng định là cốt yên dân, là bảo vệ hạnh phúc của nhân dân. Hạnh phúc lớn nhất của dân là được sống trong môi trường hòa bình, yên ổn làm ăn, không lâm vào chết chóc, đau thương. Phạm Văn Đồng đã từng nhận định về Nguyễn Trãi: triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chẳng qua là lòng yêu nước thương dân: Cái nhân nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng, chống ngoại xâm, diệt tàn bạo, cì độc lập của đất nước, hạnh phúc của nhân dân. Vì vậy mà từ một lí tưởng, nỗi niềm luôn cảnh cánh trong lòng, giờ đây đã được Nguyễn Trãi nâng lên như một triết lý sống bằng hai câu luận để mở đầu bài cáo:

                   Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

                   Quân điếu phạt trước lộ trừ bạo.

Thật ra, triết lý nhân nghĩa vốn là học thuyết của Nho giáo đề cao đạo đức, tình nhân ái giữa con người với nhau. Nguyễn Trãi đã tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo theo hướng lấy lợi ích của nhân dân và của dân tộc làm gốc. Cho nên nói, triết lý nhân nghĩa là mạch chảy ngầm trong suốt cả bài cáo.

Tội ác của giặc Minh nhiều không kể xiết, chúng không từ bất kì một thủ đoạn nào để cướp nước ta. Trong tác phẩm này, tội ác bất dung của chúng đã được Nguyễn Trãi tái hiện lại hết sức chi tiết khiến cho người đọc cũng cảm thấy rùng mình và khiếp sợ. Khi tố cáo tội ác kẻ thù, Nguyễn Trãi cũng đứng trên lập trường nhân nghĩa vì quyền sống còn người:

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ

Nheo nhóc thấy kẻ goá bụa khốn cùng

Đứng trên lập trường nhân bản hơn nữa đứng về quyền sống của người dân vô tội để tố cáo, lên án giặc Minh, Bình Ngô đại cáo chứa đựng những yếu tố của bản tuyên ngôn nhân quyền. Có thể nói, quyền sống của người dân đã thành nguồn cảm hứng mạnh mẽ để tác giả viết nên bản cáo trạng đanh thép và thống thiết. Trong mười hai cặp tứ lục, tác giả đã mười lần trực tiếp và hai lần gián tiếp nói đến đời sống nhân dân. Đằng sau những hành động dã man, mưu mô xảo quyệt, là bộ mặt ghê tởm lũ ác ôn, bầy quỷ sứ phương Bắc đang hoành hành trên xương máu, nước mắt, trên tính mạng và tài sản nhân dân ta. Những câu văn cảm thán của Nguyễn Trãi cất lên như một lời nguyền, chất chứa căm hờn, oán giận, xúc động lấy tỉnh hồn người. Nguyễn Trãi đã từng tiêcn cha lên ải Bắc, từng nếm mật nằm gai, là chứng nhân của lịch sử gọi vừa nhà Minh hiếu chiến là giảo đồng (trẻ ranh, nhãi ranh), lũ tướng tá giặc Minh là đồ nhút nhát. Đó cũng là tiếng nói căm thù, khinh bỉ, là ý chí sắt đá chống quân xâm lược, chống lũ bành trướng phương Bắc tham tàn, hiếu chiến.

Nguyễn Trãi đã dành phần lớn bài đại cáo miêu tả chi tiết về diễn biến cuộc đấu tranh cũ trang và quá trình phản công của nghĩa quân Lam Sơn, và những tội ác vô cùng dã man của bọn giặc Minh cướp nước, hiếu chiến, man rợ và hứng tàn. Ông luôn dõi mắt theo từng bước chân của cuộc kháng chiến, luôn trằn trọc suy nghĩ đắn đo cho vận mệnh của đất nước. Có thể thấy được Nguyễn Trãi thật sự là người quan tâm đến dân quân tướng sĩ, ông đã dành hết tấc lòng để sống với họ mới hiểu được những nỗi thống khổ này, vì vậy mà tác giả có thể vạch rõ mặt kẻ thù của dân tộc là ai. Chủ nghĩa nhân văn của Nguyễn Trãi không phải là một khái niệm đạo đức đơn thuần mà còn bảo hàm cả cách nhìn nhận đánh giá con người về mặt vị trí, vai trò, bản chất…và trong các mối quan hệ với tự nhiên xã hội và đồng loại. Cho nên, khái niệm nhân nghĩa – nhân văn này không chủ thuộc phạm vi nhân sự mà còn thuộc phạm vi thiên đạo:

                  Lẽ nào trời đất dùng tha;

                  Ai bảo thần nhân chịu được.

Còn nói về nguyên nhân chiến thắng, Nguyễn Trãi không đề cao quyền mưu bằng nhân nghĩa:

                 Đem đại nghĩa để thắng hung tàn;

                 Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Ông chỉ lấy tấm lòng nhân nghĩa rất mực để cảm hoá sự cường bạo của giặc. Đấy là lòng người mong muốn mà cũng chính là thiên lý. Nguyễn Trãi cho rằng nhân nghĩa phải hợp với lẽ trời, mà trời vốn có đất hiếu sinh, nên đã trao trả cho nhà Minh hàng chục vạn tù binh và cấp cho họ phương tiện trở về:

                 Thần vũ chẳng giết hại,

                 Thể lòng ta mở đường hiếu sinh

                 Cấp cho phương tiện trở về……

                 Bởi vì:

                 Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng;

                 Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.

Mục đích khởi nghĩa là để trừ bạo và yên dân, kết thúc chiến tranh để chấm dứt đổ máu, để bảo vệ toàn quân, để nhân dân nghỉ sức. Đây là một quyết định vô cùng trí tuệ vô cùng nhân nghĩa của một vị quân sư, của người lãnh đạo đất nước. Có thể nói, đây là nét mới trong tư tưởng nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi chỉ ra dựa trên cơ sở thực tiễn của lịch sử dân tộc số với tư tưởng nhân nghĩa theo truyền thống Khổng – Mạnh. Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trước hết là thưong dân, chăm lo cho dân, tiến lên bước nữa là vạch mặt kẻ thù xâm lược, đồng thời thể hiện nét đẹp rạng ngời luân lý đạo đức, khiến cho kẻ thù chẳng đánh mà chịu khuất phục. Qua đó, ta cũng thấy được nguồn gốc của chủ nghĩa nhân văn trong văn học trung đại bắt nguồn từ truyền thống nhân đạo của người Việt Nam, từ cội nguồn văn học dân gian, chịu ảnh hưởng của tư tưởng nhân văn tích cực vốn có của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo. Chủ nghĩa nhân đạo – nhân văn trong văn học trung đại được thể hiện phong phú, đa dạng ở lòng thương người, lên án, tố cáo các thế lực tàn bạo chà đạp lên con người, đồng thời khẳng định, đề cao con người về mối quan hệ đạo đức, lối sống tốt đẹp giữa người với người. Trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo, những đặc điểm trên đã được Nguyễn Trãi thể hiện hết sức điêu luyện, và phải là một người thực sự có tâm với nước với dân thì mới có thể viết được như vậy.

Kết luận

Có thể nói, Bình Ngô đại cáo đã kết tụ những nét đẹp tinh hoa của linh hồn dân tộc, tư tưởng yêu nước và nhân văn. Đó chính là những bài học ngàn vàng, là tấm gương trong suốt để con cháu Đại Việt ngàn đời sau nói theo và học tập. Tâm hồn và sự nghiệp của Nguyễn Trãi mãi mãi là vì sao sáng như Lê Thánh Tông truy tặng Ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo. Bình Ngô đại cáo xứng đáng là một thiên anh hùng ca bất hủ của dân tộc. Tác giả của nó xứng tầm nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *