Đề thi Văn 10 trại hè Hùng Vương và duyên hải 2015 văn 11 tỉnh Thái Nguyên

 

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG THPT CHUYÊN THÁI NGUYÊN

—————————

 

 

ĐỀ THI ĐỀ XUẤT OLIMPIC HÙNG VƯƠNG

NĂM 2015

MÔN: NGỮ VĂN LỚP 11

Thời gian: 180 phút (không kể thời gian giao đề)

 

Câu 1(8 điểm)

Người Nga có câu nói: “Nếu có hai cái bánh mì, tôi sẽ bán một cái để mua hoa hồng. Cả tâm hồn cũng cần phải được ăn uống”.

Suy nghĩ của anh chị về quan niệm sống trên đây.

 

 

Câu 2 (12 điểm)

Nhà thơ Bằng Việt cho rằng “Tiêu chuẩn vĩnh cửu của thơ ca là cảm xúc

Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Tự chọn phân tích bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu hoặc “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử để làm sáng tỏ ý kiến.

 

ĐÁP ÁN ĐỀ THI ĐỀ XUẤT OLYMPIC HÙNG VƯƠNG NĂM 2015.

 

Câu 1 (8 điểm)

1.Yêu cầu kĩ năng (1 điểm)

– Biết cách làm bài nghị luận xã hội, bố cục chặt chẽ, mạch lạc.

– Diễn đạt trong sáng, không sai chính tả, văn phong giàu cảm xúc, sáng tạo.

  1. Yêu cầu về kiến thức (7 điểm)

2.1 Giải thích ý nghĩa câu nói (1 điểm)

– Bánh mì và hoa hồng là hai hình ảnh tượng trưng cho đời sống vật chất và tinh thần của con người.

– Cả tâm hồn cũng cần được ăn uống:  cả tâm hồn cũng cần được quan tâm, chăm sóc.

=> Câu nói khẳng định đời sống tinh thần cũng quan trọng và cần thiết không kém gì đời sống vật chất. Cần phải cân bằng, hài hòa giữa đời sống vật chất và tinh thần để có một cuộc sống ý nghĩa.

2.2 Phân tích và lí giải vấn đề (3 điểm)

– Đời sống vật chất là toàn bộ những điều kiện vật chất để con người tồn tại: ăn, mặc, ở. Còn tâm hồn là toàn bộ thế giới tinh thần: tư tưởng, tình cảm và suy nghĩ của con người.

– Nếu con người chỉ chú trọng đời sống vật chất thì cuộc sống sẽ lệch lạc, đơn điệu và vô nghĩa. Vật chất nếu thiếu thốn vẫn có cách bù đắp nhưng tâm hồn thì không thể.

– Tâm hồn quyết định nhân cách, lối sống, tư tưởng của mỗi người, làm nên nét đẹp nhân văn trong mỗi con người. Vì vậy, nó cũng cần được nuôi dưỡng để ngày càng tinh tế, phong phú hơn.

– Dẫn chứng.

2.3 Bình luận vấn đề (3 điểm)

– Đây là một quan niệm sống đúng đắn và để lại cho ta bài học sâu sắc về cách sống có ý nghĩa.

– Cần biết chăm lo, hài hòa giữa đời sống vật chất và tinh thần để mỗi người có một cuộc sống hạnh phúc, thoải mái và có ý nghĩa thực sự.

– Lối sống thiên về chú trọng vật chất hay tinh thần đều có tác hại đối với cuộc sống của mỗi người.

– Phê phán những người có cái nhìn thực dụng khi đánh giá về con người lại đem ra tiêu chí mang giá trị vật chất để xếp hạng.

– Bài học đối với bản thân.

 

 

 

 

 

Câu 2 (12 điểm)

  1. 1. Yêu cầu về kĩ năng

Hiểu đề, biết cách làm bài nghị luận văn học. Biết phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề. Bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ. Hành văn trôi chảy. Văn viết có cảm xúc. Không mắc các lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp, chính tả.

Chú ý: bài viết vừa phải có sắc thái lí luận vừa thể hiện khả năng cảm thụ văn học tinh tế, sâu sắc

  1. 2. Yêu cầu về kiến thức

Thí sinh có thể trình bày theo các cách khác nhau nhưng cần đảm bảo được các ý sau:

2.1. Giải thích ý kiến của Bằng Việt

– Tiêu chuẩn: thước đo, chuẩn mực đánh giá một đối tượng. Có nhiều loại tiêu chuẩn khác nhau và các tiêu chuẩn có thể thay đổi theo thời gian

– Tiêu chuẩn vĩnh cửu: thước đo, chuẩn mực có giá trị bất biến, đúng với mọi thời đại

– Cảm xúc: những cung bậc tình cảm, tâm trạng con người

-> Bản chất ý kiến của Bằng Việt: khẳng định thước đo để đánh giá giá trị tác phẩm thơ ca ở mọi thời đại là yếu tố tình cảm, cảm xúc

2.2. Bàn luận, chứng minh

a, Bàn luận: Vì sao nói tiêu chuẩn vĩnh cửu của thơ ca là cảm xúc?

– Xuất phát từ đặc trưng thơ ca:

+ Thơ là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc, nếu không có cảm xúc thì người nghệ sĩ không thể sáng tạo nên những vần thơ hay, ngôn từ sẽ chỉ là những xác chữ vô hồn nằm thẳng đơ trên trang giấy, nói như Ngô Thì Nhậm, thi sĩ phải “xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần”

+ Văn học phản ánh đời sống con người, với thơ ca cuộc sống không chỉ là hiện thực xã hội bên ngoài mà còn là đời sống tâm hồn, tình cảm phong phú của chính nhà thơ: “Thơ là người thư kí trung thành của những trái tim”

+ Cảm xúc trong thơ cũng không phải thứ cảm xúc nhàn nhạt. Đó phải là tình cảm ở mức độ mãnh liệt nhất thôi thúc người nghệ sĩ cầm bút sáng tạo. Nhà thơ phải sống thật sâu với cuộc đời mới có thể viết nên những vần thơ có giá trị của sự trải nghiệm (“Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy”)

– Xuất phát từ qui luật tiếp nhận văn học, trong đó có thơ ca: bạn đọc tìm đến với thơ là tìm đến tiếng nói đồng điệu, đi tìm hồn mình trên trang viết nhà thơ, nói như Tố Hữu “Thơ là một điệu hồn đi tìm những hồn đồng điệu”. Vì vậy nếu những tình cảm, cảm xúc được bộc lộ trong thơ không chân thành, sâu sắc, ám ảnh thì sẽ không thể tạo nên sự đồng cảm ở độc giả, cũng có nghĩa là thơ sẽ thiếu sức sống

b, Chứng minh: phân tích bài thơ “Vội vàng” (Xuân Diệu) hoặc “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử) để làm sáng tỏ ý kiến

* Vội vàng:

– Ấn tượng đầu tiên của độc giả về bài thơ là mạch cảm xúc sôi nổi, mãnh liệt tuôn trào với một tình yêu cuộc sống đến thiết tha, cuồng nhiệt

+ Thi sĩ muốn tắt nắng, buộc gió để lưu lại mãi hương sắc cuộc sống trần gian (4 câu đầu)

+  Nhìn thế giới như một khu vườn trên mặt đất với cảm xúc say mê (Của ong bướm này đây… cặp môi gần)

+ Nuối tiếc trước thời gian chảy trôi không ngừng trong khi tuổi xuân đời người hữu hạn (Xuân đương tới nghĩa là….mùa chưa ngả chiều hôm)

+ Khát khao giao cảm trực tiếp và tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của cuộc sống trần thế (Ta muốn ôm…Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi)

– Tác giả lựa chọn được hình thức nghệ thuật phù hợp để bộc lộ cảm xúc:

+ Thể thơ tự do với các dòng thơ dài ngắn không đều, nhịp thơ thay đổi linh hoạt phù hợp diễn tả cảm xúc sôi nổi dâng trào của thi sĩ

+ Bài thơ được cấu trúc theo lối triết luận, vừa có sự hấp dẫn của cảm xúc mãnh liệt, cháy bỏng vừa logic, chặt chẽ

+ Ngôn ngữ thơ vừa chính xác, vừa mới mẻ, táo bạo, sử dụng nhiều động từ mạnh, các tính từ miêu tả, kết hợp các biện pháp tu từ như so sánh, điệp từ, liệt kê, bút pháp tương giao

+ Hình ảnh thơ mới lạ, gợi cảm

* Đây thôn Vĩ Dạ

      – Cảm xúc bao trùm bài thơ là tình yêu đối với mảnh đất, con người xứ Huế, nỗi buồn, mặc cảm chia li, xa cách và ước mong được đồng cảm, sẻ chia. Những cảm xúc ấy được thể hiện ở ba khổ thơ với các sắc thái cụ thể:

+ Day dứt vì chưa về thăm thôn Vĩ (khổ 1)

+ Đau đáu về thời khắc gặp gỡ có còn kịp (khổ 2)

+ Hoài nghi về sự bền chặt của tình người, tình đời (khổ 3)

– Hình thức nghệ thuật phù hợp:

+ Tổ chức cấu trúc bài thơ thành 3 khổ dưới hình thức 3 câu hỏi đầy day dứt, băn khoăn

+ Ngôn ngữ thơ: giản dị, chính xác, tinh tế, gợi cảm, sử dụng lớp từ cực tả

+ Bút pháp vừa cổ điển vừa hiện đại, vừa tả thực, vừa gợi tả, mang màu sắc tượng trưng, siêu thực

+ Các biện pháp nghệ thuật: so sánh, nhân hóa, điệp từ

2.3. Đánh giá

* Ý kiến của Bằng Việt

– Ý kiến trên hoàn toàn đúng đắn. Nó không chỉ đúng với mọi thời đại, mọi dân tộc mà còn đúng với mọi loại hình thơ ca

– Bằng Việt chỉ đề cao cảm xúc chứ không hề tuyệt đối hóa vai trò của cảm xúc, coi nhẹ tài năng của người cầm bút. Nếu chỉ có cảm xúc tuôn trào mà không có tài năng thơ ca đủ độ chín, câu chữ, tứ thơ non nớt, vụng về thì cũng không thể có thơ hay và cảm xúc của thi sĩ cũng không thể chuyển tải trọn vẹn đến người đọc

– Ý kiến có giá trị với cả hoạt động sáng tác và tiếp nhận thơ ca: thi sĩ trước hết phải là người có tâm hồn giàu rung cảm, sống sâu sắc, trọn vẹn với từng khoảnh khắc cuộc đời để có những cảm xúc mãnh liệt, dồi dào trên mỗi trang thơ; độc giả tìm đến với thơ ca trước hết cần lắng lòng mình để cảm nhận những nỗi niềm tâm sự người nghệ sĩ gửi vào trang viết

* Bài thơ: “Vội vàng” hoặc “Đây thôn Vĩ Dạ”: tác phẩm hay, là minh chứng thuyết phục cho ý kiến của Bằng Việt

  1. Biểu điểm:

– Điểm 11 – 12: đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trên, bài viết sâu sắc độc đáo, diễn đạt lưu loát, câu văn giàu hình ảnh, cảm xúc.

– Điểm 8 – 10: Nội dung đầy đủ, có thể còn thiếu một vài ý nhỏ, bố cục rõ ràng, diễn đạt trôi chảy, câu văn có hình ảnh, cảm xúc.

– Điểm 5 – 7:  Bài làm còn thiếu ý. Văn chưa hay nhưng rõ ý. Mắc không quá nhiều lỗi chính tả, dùng từ, viết câu.

– Điểm 3 – 4: Trình bày ý còn sơ sài, kết cấu không rõ ràng, còn nhiều lỗi diễn đạt.

– Điểm 1- 2: Không hiểu đề, không có kĩ năng nghị luận, mắc quá nhiều lỗi diễn đạt.

Lưu ý: Giám khảo vận dụng linh hoạt biểu điểm. Có thể thưởng điểm cho những bài viết có sáng tạo nếu điểm toàn bài chưa đạt tối đa. Điểm cho lẻ đến 0,25.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *