Đọc hiểu Bài học tuổi thơ – Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng, NLXH lối sống trung thực

 

 

ĐỀ KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ II KHỐI 11

Môn thi:  NGỮ VĂN

Thời gian làm bài: 90 phút, không kể thời gian phát đề

Đề có 02 trang

Họ và tên……………. Lớp…………Số báo danh……

ĐỌC (6,0 điểm)

            Thằng con tôi 11 tuổi, học lớp sáu. Qua mùa thi chuyển cấp, nhân một buổi chiều cho con đi chơi mát, nó kể… Đang hỏi nó về chuyện thi cử, nó chợt hỏi lại tôi:

            – Ba! Có bao giờ thấy có một bài luận văn nào điểm không không ba? Con số không cô cho bự bằng quả trứng gà. Không phải cho bên lề, mà một vòng tròn giữa trang giấy. Thiệt đó ba. Chuyện ngay trong lớp của con, chứ không phải con nghe kể đâu.

            Tôi chưa kịp hỏi, nó tiếp:

            – Còn thua ba nữa đó, ba. Ít nhứt ba cũng được nửa điểm. Còn thằng bạn của con, con số không bự như quả trứng.

            Thằng con tôi ngửa mặt cười, có lẽ nó thấy thú vị vì thời học trò của ba nó ít nhứt cũng hơn được một đứa.

            Số là cách đây vài năm, có một nhà xuất bản gởi đến các nhà văn, nhà thơ quen biết trong cả nước một câu hỏi, tôi còn nhớ đại ý, nhà văn, nhà thơ thời thơ ấu học văn như thế nào, nhà xuất bản in thành sách “Nhà văn học văn”. Đọc qua, nghe các nhà văn, nhà thơ kể, tất nhiên là mỗi người có mỗi cuộc đời, mỗi người mỗi giọng văn, nhìn chung thì người nào, lúc còn đi học, cũng có khiếu văn, giỏi văn. Nếu không thì lấy gì làm cơ sở để sau này trở thành nhà văn? Rất lô-gích và rất là tự nhiên vậy. Duy chỉ có bài của tôi hơi khác, có gì như ngược lại. Tôi kể, hồi tôi học ở trường trung học Nguyễn Văn Tố (1948 – 1950), tôi là một học sinh trung bình, về môn Văn không đến nỗi liệt vào loại kém, nhưng không có gì tỏ ra là người có khiếu văn chương. Và có một lần, bài luận văn của tôi chỉ được có một điểm trên hai mươi (1/20). Đó là kỷ niệm không quên trong đời học sinh của tôi, môn Văn.

            Khi con tôi đọc bài văn đó, con tôi hỏi:

            – Sao bây giờ ba là nhà văn? Và bạn bè cũng hỏi như vậy. Tôi cũng đã tự lý giải về mình, và lời giải cũng đã in vào sách rồi, xin không nhắc lại.

            Tôi hỏi con tôi:

            – Luận văn cô cho khó lắm hay sao mà bạn con bị không điểm.

            – Luận văn cô cho “Trò hãy tả buổi làm việc ban đêm của bố”.

            – Con được mấy điểm?

            – Con được sáu điểm.

            – Con tả ba như thế nào?

            – Thì ba làm việc làm sao thì con tả vậy.

            – Mấy đứa khác, bạn của con?

            Thằng con tôi như chợt nhớ, nó liến thoắng:

            – A! Có một thằng ba nó không hề làm việc ban đêm mà nó cũng được sáu điểm đó ba.

            – Đêm ba nó làm gì?

            – Nó nói, đêm ba nó toàn đi nhậu.

            – Nó tả ba nó đi nhậu à?

            – Dạ không phải. Ba nó làm việc ban ngày nhưng khi nó tả thì nó tả ba nó làm việc ban đêm, ba hiểu chưa?

            – Còn thằng bạn bị không điểm, nó tả như thế nào?

            – Nó không tả không viết gì hết, nó nộp giấy trắng cho cô.

            – Sao vậy?

            – Hôm trả lại bài cho lớp, cô gọi nó lên, cô giận lắm, ba. Cô hét: “Sao trò không làm bài”. Nó cúi đầu làm thinh. Cô lại hét to hơn: “Hả?”. Nó cũng làm thinh. Tụi con ngồi dưới, đứa nào cũng run.

            – Nó là học trò loại ” cá biệt” à?

            – Không phải đâu ba, học trò tiên tiến đó ba.

            – Sao nữa? Nó trả lời cô giáo như thế nào?

            Nó cứ làm thinh. Tức quá, cô mới quất cây thước xuống bàn cái chát: “Sao trò không làm bài?” Tới lúc đó nó mới nói: “Thưa cô, con không có ba”. Nghe nó nói, hai con mắt của cô con mở tròn như hai cái tô. Cô đứng sững như trời trồng vậy ba!

            Tôi bỗng nhập vai là cô giáo. Tôi thấy mình ngã qụy xuống trước đứa học trò không có ba.

            Sau đó cô và cả lớp mới được biết, em mồ côi cha khi vừa mới lọt lòng mẹ. Ba em hy sinh trên chiến trường biên giới. Từ ấy, má em ở vậy, tần tảo nuôi con…

            Có người hỏi em: “Sao mày không tả ba của đứa khác”. Em không đáp, cúi đầu, hai giọt nước mắt chảy dài xuống đôi má.

            Chuyện của đứa học trò bị bài văn không điểm đã để lại trong tôi một nỗi đau. Em bị không điểm, nhưng với tôi, người viết văn là một bài học, bài học trung thực. Sáng tạo không đồng nghĩa với bịa đặt.

            Giữa những dòng chữ bịa đặt và trang giấy trắng, tôi xin để trang giấy trắng trung thực trên bàn viết.

(Bài học tuổi thơ Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng, NXB Văn học, 1990)

Câu 1. Xác định ngôi kể và điểm nhìn trong truyện. Hãy chỉ ra căn cứ để xác định ngôi kể trong văn bản Bài học tuổi thơ.

Câu 2. Trong truyện ngắn, lí do “không có ba” của cậu bé học trò bị bài văn không điểm là gì? Tại sao chuyện cậu bé học trò bị bài văn không điểm lại để lại trong nhân vật “tôi” nỗi đau?

Câu 3.Theo anh/chị, nhà văn Nguyễn Quang Sáng muốn gửi gắm ý nghĩa gì qua phần kết của câu chuyện?

Câu 4. Văn bản “Bài học tuổi thơ ” có tác động như thế nào đến cách nhìn của anh/chị về những nỗi đau khi chiến tranh đã qua đi ? (Trình bày bằng cách gạch ý hoặc viết đoạn văn ngắn từ 6 đến 8 dòng).

VIẾT (4,0 điểm)

Từ truyện ngắn Bài học tuổi thơ của Nguyễn Quang Sáng, anh/chị hãy viết một bài văn nghị luận khoảng 500 chữ trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của lối sống trung thực.

—————-HẾT————-

 

 

 

 

 

HƯỚNG DẪN CHẤM GIỮA HỌC KÌ II

Môn: NGỮ VĂN – Lớp: 11

(Đáp án – thang điểm gồm có 02 trang)

 

 

Phần Câu Nội dung Điểm
I   PHẦN ĐỌC 6,0
  1 – Ngôi kể: Ngôi thứ nhất

– Điểm nhìn:  Học sinh có thể trả lời

+ Điểm nhìn ngôi thứ nhất hạn tri

+ Điểm nhìn: nhân vật tôi

– Căn cứ xác định ngôi kể: Nhân vật dùng đại từ nhân xưng “tôi” hoặc xưng hô ở ngôi thứ nhất khi trần thuật.

0.5

0.5

0.5

2 Lí do “không có ba” của cậu bé học trò bị bài văn không điểm là :  Ba em hy sinh trên chiến trường biên giới. Từ ấy, má em ở vậy, tần tảo nuôi con…

Chuyện cậu bé học trò bị bài văn không điểm lại để lại trong nhân vật “tôi” nỗi đau. Bởi vì:

+ Nỗi đau vì một học trò được kém một cách không đáng có.

+ Nỗi đau vì cuộc đời thiếu sự sẻ chia, thông cảm, thấu hiểu với nhau.

 

0.5

 

 

1,0

3 Nhà văn Nguyễn Quang Sáng muốn gửi gắm ý nghĩa gì qua phần kết của câu chuyện:

– Bài học về tính trung thực và sự lựa chọn cách sống trung thực trong cuộc sống.

– Bài học về sự thấu hiểu, đồng cảm.

 

0.75

0.75

4 – Đảm bảo hình thức đoạn văn từ 6 – 8 dòng

– Trình bày được thông điệp rút ra từ văn bản

– Lập luận thuyết phục, diễn đạt trong sáng, mạch lạc

Thông điệp gợi ý:

– Chiến tranh đã đi qua nhưng những nỗi đau vẫn hiện hữu: nỗi buồn, nỗi tủi hờn vì không còn người thân; nhiều thế hệ sinh ra trong thời bình nhưng vẫn mang những “vết thương” do chiến tranh để lại.

– Tri ân người đã hi sinh vì đất nước và sống xứng đáng với người đã hi sinh…

0.25

1.0

0.25

II   PHẦN VIẾT 4,0
  a.Đảm bảo yêu cầu về hình thức bài văn

Bài văn phải đảm bảo đủ 3 phần: Mở bài – Giới thiệu vấn đề nghị luận; Thân bài – bàn luận về vấn đề; Kết bài – khẳng định lại vấn đề.

0,25
  b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Bàn luận về chủ đề: ý nghĩa của lối sống trung thực.

0,25
  c. Triển khai vấn đề cần nghị luận

I. MỞ BÀI

– Dẫn dắt vấn đề

– Nêu tác giả Nguyễn Quang Sáng và tác phẩm “Bài học tuổi thơ”

– Nêu nội dung được gợi ra từ văn bản: ý nghĩa của lối sống trung thực.

II. THÂN BÀI

1.Giải thích khái niệm:

Giải thích ngắn gọn lối sống trung thực là gì? Lối sống ấy có ý nghĩa như thế nào?

2. Bàn luận vấn đề

Trình bày được hệ thống luận điểm thể hiện quan điểm của người viết.

+ Học sinh trình bày ít nhất 02 luận điểm; các luận điểm tạo thành một hệ thống, triển khai các phương diện của vấn đề.

+ Học sinh triển khai luận điểm chặt chẽ, có lí lẽ phù hợp, thuyết phục. Lí lẽ bàn được nhiều khía cạnh của vấn đề.

Nêu được bằng chứng đầy đủ, phù hợp, xác đáng để làm sáng tỏ lí lẽ:

+ Học sinh có nêu được bằng chứng cụ thể, xác thực, tiêu biểu với lí lẽ;

+ Học sinh có phân tích bằng chứng để làm sáng tỏ lí lẽ;

3. Bình luận về ý nghĩa của vấn đề xã hội được gợi ra từ tác phẩm

+ Học sinh bình luận về ý nghĩa của vấn đề xã hội được gợi ra từ tác phẩm

III. KẾT BÀI:

Khẳng định vấn đề

Đánh giá đóng góp của tác phẩm về vấn đề nghị luận

 

 

 

0.25

0.25

 

 

0.25

 

 

1.5

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

0.25

 

 

 

 

0.25

0.25

  d. Chính tả, ngữ pháp

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt.

0,25
  e. Sáng tạo: Bài viết có giọng điệu riêng; cách diễn đạt sáng tạo, văn phong trôi chảy. 0,25
Tổng điểm 10.0

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *