ĐỌC – HIỂU (6,0 điểm) THEO ĐÚNG MA TRẬN CỦA BỘ
Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu: (Tự luận)
Cuốc kêu cảm hứng
Nguyễn Khuyến
Khắc khoải đưa sầu giọng lửng lơ,
Ấy hồn Thục đế* thác bao giờ?
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ,
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.
(Trích Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Văn học, 1971)
Chú thích:
(1) Bài thơ được viết vào thời gian Nguyễn Khuyến cáo quan về ở ẩn nơi “Vườn Bùi chốn cũ”
(2) Thục đế: vua nước Thục, có tên là Đỗ Vũ. Điển cũ kể rằng vua nước Thục mất nước, lúc chết hồn hóa thành con chim đỗ quyên (còn gọi là chim cuốc), nhớ nước đêm đêm lại kêu ròng rã “Thục quốc! Thục quốc!” tiếng kêu nghe rất ai oán (Thơ Nguyễn Khuyến, NXB Văn học, 2016, tr.28).
(3) Thác: chết
Câu 1: Xác định thể thơ của bài thơ.
Câu 2: Xác định cách gieo vần của bài thơ.
Câu 3: Chỉ ra ba từ ngữ diễn tả tâm trạng, cảm xúc của chủ thể trữ tình.
Câu 4: Giải thích nghĩa của từ khắc khoải trong câu thơ Khắc khoải đưa sầu giọng lửng lơ.
Câu 5: Nêu hiệu quả của phép đối được sử dụng trong hai câu thơ:
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Câu 6: Qua bài thơ, anh/chị hình dung thế nào về con người tinh thần Nguyễn Khuyến?
Câu 7: Tâm sự của tác giả trong hai câu thơ: Có phải tiếc xuân mà đứng gọi/ Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ gợi cho anh/chị suy nghĩ gì?
Câu 8: Từ nội dung bài thơ, em có suy nghĩ gì về trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với đất nước.
LÀM VĂN (4,0 điểm)
Anh/chị hãy viết bài văn (khoảng 500 chữ) giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của văn bản trên.
Hướng dẫn chi tiết
ĐỌC – HIỂU
Phần | Câu | Nội dung | Điểm |
I | ĐỌC HIỂU | 6.0 | |
1 | Thể thơ của bài thơ trên là: thất ngôn bát cú. | 0.5 | |
2 | Cách gieo vần của bài thơ trên: vần bằng (đứng cuối câu 1, 2, 4, 6, 8), vần “ơ” | 0.5 | |
3 | HS chỉ ra ba từ ngữ diễn tả tâm trạng, cảm xúc của chủ thể trữ tình trong các từ ngữ sau: khắc khoải, tiếc, nhớ, ngẩn ngơ. | 0.5 | |
4 | Nghĩa của từ khắc khoải trong câu thơ Khắc khoải đưa sầu giọng lửng lơ là: miêu tả âm thanh tiếng cuốc lặp đi lặp lại triền mien buồn bã, biểu đạt nỗi nhớ thương đất nước triền miên của tác giả. | 1.0 | |
5 | – Phép đối: năm canh – sáu khắc; máu chảy – hồn tan, đêm hè vắng – bóng nguyệt mờ.
– Hiệu quả: + Tạo sự cân xứng, hài hòa, lời thơ nhịp nhàng, câu thơ hay hơn, sinh động hơn, có giá trị biểu cảm hơn. + Nhấn mạnh làm nổi bật âm thanh da diết, triền miên, khắc khoắc của tiếng cuốc kêu: tiếng cuốc kêu dòng dã đêm ngày, đau đớn đến mức máu chảy hồn tan. + Qua đó làm nổi bật nỗi đau đớn, xót xa vì mất nước của tác giả. |
1.0 | |
6 | Qua bài thơ, hình dung về con người tinh thần Nguyễn Khuyến:
– Là con người yêu nước, nặng lòng thủy chung với đất nước. – Tâm trạng bất lực của tác giả trước thực trạng nước mất nhà tan. |
1.0 | |
7 | – Tâm sự của tác giả trong 2 câu thơ là: tiếc nhớ, đau đớn, xót xa khi mất nước.
– Tâm sự đó giúp người đọc thấu hiểu, đồng cảm, trân trọng nỗi niềm tâm sự cảm xúc của tác giả dành cho đất nước. – Qua đó giúp người đọc ý thức được trách nhiệm của bản thân đối với đất nước. |
1.0 | |
8 | – Nội dung bài thơ là: thể hiện nỗi đau đớn, xót xa day dứt của nhà thơ trước hiện thực nước mất nhà tan mà bản thân bất lực.
– Nôi dung bài thơ gợi cho em suy nghĩ gì về trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với đất nước: + Phải có ý thức gìn giữ, bảo vệ những thành quả mà những thế hệ trước đã đổ mồ hôi, xương máu để gây dựng. + Học tập, rèn luyện, tu dưỡng để xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp. + Đấu tranh chống lại những âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch. …. |
0.5 |
LÀM VĂN (Đảm bảo các luận điểm cơ bản dưới đây)
Dàn ý
Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm.
Thân bài: Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ:
* Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình:
(Chủ đề, mạch cảm xúc, hình ảnh, điểm nhìn…)
– Chủ đề bài thơ: Bài thơ là lời giãi này của một tấm lòng yêu nước, một tâm trạng đầy bi kịch xót xa đau buồn vì nước mất nhà tan.
– Đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình: Nhân vật trữ tình trong bài thơ là hình ảnh của chính nhà thơ Nguyễn Khuyến. Dù không xuất hiện trực tiếp nhưng người đọc vẫn nhận ra đằng sau mỗi lời thơ là tấm lòng yêu nước, nỗi đau đớn xót xa của nhà thơ trước cảnh nước mất.
* Phân tích đánh giá sự phát triển của hình tượng chính và tính độc đáo của các phương diện ngôn từ.
– Sự phát triển của hình tượng chính
+ Hai câu thơ mở đầu: tiếng cuốc kêu “khắc khoải” nghe buồn buồn, lặp đi lặp lại triền miên, thê thiết; giọng cuốc “lửng lơ” chơi vơi trong không trung. Càng nghe càng buồn không kể xiết. Nghe tiếng cuốc kêu mà xúc động nhớ đến chuyện Thục Đế xa xưa vì để mất nước mà xót xa tủi hận biến thành con chim cuốc. Một liên tưởng thấm thía, gợi tả tiếng cuốc kêu như một tiếng gọi đau thương của một oan hồn. Ba chữ “thác bao giờ” diễn tả tâm trạng buồn đau cực độ đến ngơ ngác, ngẩn ngơ. Nghe tiếng cuốc kêu trong hiện tại mà cảm hứng, man mác buồn đau nghĩ về một chuyện xưa đau buồn.
+ Hai câu thơ thực: Tiếng cuốc gọi hè vô cùng ám ảnh. Nỗi đau như “máu chảy”, nỗi buồn như nát ruột “hồn tan”. Tiếng cuốc kêu mãi, kêu hoài, kêu khắc khoải triền miên suốt năm canh đến sáu khắc, từ ngày này qua đêm khác. “Đêm hè vắng” và “bóng nguyệt mờ” hô ứng, đối xứng diễn tả nỗi đau, nỗi buồn như thấm vào thời gian, toả rộng trong không gian. Đêm hè trở nên “vắng” để nghe rõ tiếng cuốc “khắc khoải đưa sầu…”. Bóng trăng như “mờ” đi trong tiếng cuốc “lửng lơ” đau đớn và tê tái. Đúng là “lời văn thanh thoát, tình nghĩa rất ứng đọng lại”, như Xuân Diệu đã cảm nhận “Chúng ta tưởng nghe da diết, ám ảnh, chì chiết một tiếng chim kêu, có sắc đỏ, khóc nức nở, gào thảm thiết, tiếng kêu có máu, tiếng huyết kêu mất nước! nhớ nước!”.
+ Hai câu luận: Hai câu thơ càng khắc sâu vào tâm trạng của nhân vật trữ tình. “Có phải” và “hay là” câu hỏi mơ hồ, giả định ấy diễn tả những băn khoăn, những day dứt đè nặng trong lòng. Tiếng cuốc gọi hay vì “tiếc xuân” mà cuốc cất tiếng gọi? Hay là oan hồn Thục Đế “nhớ nước vẫn nằm mơ”. Câu luận rất tinh tế trong biểu cảm, Nguyễn Khuyến mượn tiếng cuốc để giãi bày niềm thao thức của mình. Cuốc thì tiếc xuân mà đứng gọi, kêu khắc khoải suốt đêm. Còn Tam Nguyên Yên Đổ thì đêm đêm vẫn nằm mơ mà nhớ nước. Hồn nước đi đâu về đâu? Nỗi buồn bơ vơ nhớ nước như thấm vào câu chữ. Các cặp hô ứng nhau rất chỉnh: Có phải – hay là/tiếc xuân – nhớ nước/mà đứng gọi – nằm mơ, làm cho nỗi buồn thương nhà nhớ nước trở nên thấm thía. Tiếc rồi nhớ, đứng rồi nằm, gọi và mơ, trạng thái nào, tâm trạng nào cũng bồn chồn, xót xa đau đớn.
+ Hai câu kết: Hai câu thơ là lời tự hỏi, một tâm trạng bồi hồi không yên. Kêu ai, giục ai, hay lời kêu gọi, thúc giục của ai đó đối với mình. Ngẩn ngơ nghĩa là đờ đẫn như mất hết tinh thần, đau đớn bồn chồn không yên dạ. Chính tiếng cuốc kêu ròng rã thâu canh kiến cho khách giang hồ bồn chồn ngẩn ngơ cả dạ. Yêu nước nhưng bất lực nên mới ngẩn ngơ như thế! Nhà thơ thao thức suốt năm canh, suốt những đêm hò đau xót, tủi buồn, bơ vơ vì nước mất. Tình yêu nước son sắt thuỷ chung nên tâm trạng đầy bi kịch, rối bời, ngẩn ngơ. Một thế kỷ sau, trong vận hội mới đất nước, độc giả ngày nay vẫn còn cảm thấy ngẩn ngơ, bồi hồi nghe tiếng cuốc kêu rỉ máu, tiếng thương tiếng đau, tiếng thở dài và giọt khóc… của Tam Nguyên Yên Đổ, của ông cha thuở ấy…
– Tính độc đáo của các phương diện ngôn từ: Bài thơ thể hiện bút pháp nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Khuyến: điêu luyện, hàm súc, giọng điệu ám ảnh, ngôn ngữ hình ảnh đối xứng hài hoà tạo nên một bài thơ toàn bích, cổ điển, vần thơ chơi vơi lửng lơ man mác: lửng lơ – bao giờ – bóng nguyệt mờ – nằm mơ – dạ ngẩn ngơ. Các từ láy tượng thanh, biểu cảm rất tinh luyện cực tả tiếng cuốc và tâm trạng nhà thơ: khắc khoải, lửng lơ, ròng rã, ngẩn ngơ…
* Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác cùng đề tài, chủ đề, thể loại
– Qua Cuốc kêu cảm hứng, Nguyễn Khuyến đã giãi bày một tấm lòng yêu nước không nguôi, một tâm trạng đầy bi kịch: xót xa đau buồn, tủi nhục vì nước mất nhà tan. Tâm trạng ấy của nhà thơ cũng là tâm trạng của một thế hệ nhà nho yêu nước mà bất lực trước thời cuộc. Cuốc kêu cảm hứng là tiếng đồng vọng bi thương, để con cháu cảm thông với nỗi lòng ông cha, trân trọng và tự hào về cái giá của độc lập tự do với bao nhiêu máu, nước mắt mà cả dân tộc phải trả. Cuốc kêu cảm hứng tiêu biểu nhất cho hồn thơ Nguyễn Khuyến sau khi đã cáo quan lui về sống giữa xóm làng quê hương: man mác bâng khuâng buồn, cô đơn…
– Giữa thế kỷ XIX, Bà Huyện Thanh Quan đứng trên đỉnh đèo Ngang lúc hoàng hôn, trong nỗi buồn của người lữ khách mà thổn thức:
Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
(Qua Đèo Ngang)
Có điều là Bà Huyện Thanh Quan lúc bấy giờ tuy mang tâm trạng cô đơn, nhưng còn có nước để mà “nhớ nước”, còn có nhà để mà “thương nhà” còn Nguyễn Khuyến, nửa thế kỷ sau sống trong cảnh ngộ, nước mất nhà tan nên ra đi “nhớ nước vẫn nằm mơ”, thao thức, đắng cay, đau buồn…
Nỗi đau buồn nằm mơ… nhớ nước ấy được Yên Đổ gửi gắm trong nhiều bài chữ Hán giàu ý tưởng thâm trầm, kín đáo. Đây là nỗi niềm lưu lạc tha hương “Giang sơn y cựu phong quang cải – Thiếu vọng đê mê dục đoạn hồn” (Túc Phú Xuyên đồn) – (Sông núi vẫn như xưa nhưng quang cảnh đã đổi thay – Ngắm thấy cảnh lờ mờ mà tâm hồn những muốn nát tan). Trong bài thơ Hung niên 1 – Năm mất mùa), giọng thơ lại càng thêm đau đớn:
Cố quốc sơn hà chân thảm đạm
Thu hương hồng nhạn tối bi ai
(Núi sông nước cũ âm thầm,
Lạc loài cánh nhạn không cầm nỗi đau)
(Bùi Văn Cường dịch)
Kết bài: Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ.
Bài viết tham khảo
Nhà thơ Tố Hữu từng nói: “Thơ là tiếng nói của trái tim”. Thật vậy, thơ là tiếng nói của tình cảm xuất phát từ những rung cảm của trái tim với cuộc đời của người nghệ sĩ. Và có lẽ tiếng nói tri âm đầy xúc cảm ấy đã được nhà thơ Nguyễn Khuyến neo đậu, kí thác qua thi phẩm Cuốc kêu cảm hứng. Bài thơ là những đau đớn, xót xa của nhà thơ Nguyễn Khuyến trước cảnh nước mất nhà tan.
Nguyễn Khuyến là nhà thơ xuất sắc trong nền văn học trung đại Việt Nam. Không chỉ là “nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam” (Xuân Diệu), Nguyễn Khuyến còn để lại ấn tượng sâu đậm bởi những vần thơ thấm đượm nỗi niềm với đất nước, về thời cuộc. Bài thơ Cuốc kêu cảm hứng là lời giãi này của một tấm lòng yêu nước, một tâm trạng đầy bi kịch xót xa đau buồn vì nước mất nhà tan. Nhân vật trữ tình trong bài thơ là hình ảnh của chính nhà thơ Nguyễn Khuyến. Dù không xuất hiện trực tiếp nhưng người đọc vẫn nhận ra đằng sau mỗi lời thơ là tấm lòng yêu nước, nỗi đau đớn xót xa của nhà thơ trước cảnh nước mất.
“Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đường thành bất tử” – Shelly. Chính những vần thơ thất ngôn sâu lắng đã bất tử hóa tấm lòng yêu nước sâu sắc của thi nhân. Giọng thơ thê thiết, réo rắt, thấm một nỗi buồn mênh mông. Tiếng cuốc như gợi lên trong lòng nhà thơ nỗi đau mất nước, nỗi buồn bơ vơ, nỗi xót xa tủi nhục trước cảnh lầm than của dân tộc. Mỗi câu thơ là một tiếng lòng, là một nỗi buồn tê tái.
Khắc khoải đưa sầu giọng lửng lơ,
Ấy hồn Thục đế* thác bao giờ?
Hai câu thơ tập trung miêu tả âm thanh tiếng cuốc. Tiếng cuốc kêu “khắc khoải” nghe buồn buồn, lặp đi lặp lại triền miên, thê thiết; giọng cuốc “lửng lơ” chơi vơi trong không trung. Càng nghe càng buồn không kể xiết. Nghe tiếng cuốc kêu mà xúc động nhớ đến chuyện Thục Đế xa xưa vì để mất nước mà xót xa tủi hận biến thành con chim cuốc. Một liên tưởng thấm thía, gợi tả tiếng cuốc kêu như một tiếng gọi đau thương của một oan hồn. Ba chữ “thác bao giờ” diễn tả tâm trạng buồn đau cực độ đến ngơ ngác, ngẩn ngơ. Nghe tiếng cuốc kêu trong hiện tại mà cảm hứng, man mác buồn đau nghĩ về một chuyện xưa đau buồn.
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ,
Tiếng cuốc gọi hè vô cùng ám ảnh. Nỗi đau như “máu chảy”, nỗi buồn như nát ruột “hồn tan”. Tiếng cuốc kêu mãi, kêu hoài, kêu khắc khoải triền miên suốt năm canh đến sáu khắc, từ ngày này qua đêm khác. “Đêm hè vắng” và “bóng nguyệt mờ” hô ứng, đối xứng diễn tả nỗi đau, nỗi buồn như thấm vào thời gian, toả rộng trong không gian. Đêm hè trở nên “vắng” để nghe rõ tiếng cuốc “khắc khoải đưa sầu…”. Bóng trăng như “mờ” đi trong tiếng cuốc “lửng lơ” đau đớn và tê tái. Đúng là “lời văn thanh thoát, tình nghĩa rất ứng đọng lại”, như Xuân Diệu đã cảm nhận “Chúng ta tưởng nghe da diết, ám ảnh, chì chiết một tiếng chim kêu, có sắc đỏ, khóc nức nở, gào thảm thiết, tiếng kêu có máu, tiếng huyết kêu mất nước! nhớ nước!”.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Hai câu thơ càng khắc sâu vào tâm trạng của nhân vật trữ tình. “Có phải” và “hay là” câu hỏi mơ hồ, giả định ấy diễn tả những băn khoăn, những day dứt đè nặng trong lòng. Tiếng cuốc gọi hay vì “tiếc xuân” mà cuốc cất tiếng gọi? Hay là oan hồn Thục Đế “nhớ nước vẫn nằm mơ”. Câu luận rất tinh tế trong biểu cảm, Nguyễn Khuyến mượn tiếng cuốc để giãi bày niềm thao thức của mình. Cuốc thì tiếc xuân mà đứng gọi, kêu khắc khoải suốt đêm. Còn Tam Nguyên Yên Đổ thì đêm đêm vẫn nằm mơ mà nhớ nước. Hồn nước đi đâu về đâu? Nỗi buồn bơ vơ nhớ nước như thấm vào câu chữ. Các cặp hô ứng nhau rất chỉnh: Có phải – hay là/tiếc xuân – nhớ nước/mà đứng gọi – nằm mơ, làm cho nỗi buồn thương nhà nhớ nước trở nên thấm thía. Tiếc rồi nhớ, đứng rồi nằm, gọi và mơ, trạng thái nào, tâm trạng nào cũng bồn chồn, xót xa đau đớn.
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.
Hai câu thơ là lời tự hỏi, một tâm trạng bồi hồi không yên. Kêu ai, giục ai, hay lời kêu gọi, thúc giục của ai đó đối với mình. Ngẩn ngơ nghĩa là đờ đẫn như mất hết tinh thần, đau đớn bồn chồn không yên dạ. Chính tiếng cuốc kêu ròng rã thâu canh kiến cho khách giang hồ bồn chồn ngẩn ngơ cả dạ. Yêu nước nhưng bất lực nên mới ngẩn ngơ như thế! Nhà thơ thao thức suốt năm canh, suốt những đêm hò đau xót, tủi buồn, bơ vơ vì nước mất. Tình yêu nước son sắt thuỷ chung nên tâm trạng đầy bi kịch, rối bời, ngẩn ngơ. Một thế kỷ sau, trong vận hội mới đất nước, độc giả ngày nay vẫn còn cảm thấy ngẩn ngơ, bồi hồi nghe tiếng cuốc kêu rỉ máu, tiếng thương tiếng đau, tiếng thở dài và giọt khóc… của Tam Nguyên Yên Đổ, của ông cha thuở ấy…
Bài thơ thể hiện bút pháp nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Khuyến: điêu luyện, hàm súc, giọng điệu ám ảnh, ngôn ngữ hình ảnh đối xứng hài hoà tạo nên một bài thơ toàn bích, cổ điển, vần thơ chơi vơi lửng lơ man mác: lửng lơ – bao giờ – bóng nguyệt mờ – nằm mơ – dạ ngẩn ngơ. Các từ láy tượng thanh, biểu cảm rất tinh luyện cực tả tiếng cuốc và tâm trạng nhà thơ: khắc khoải, lửng lơ, ròng rã, ngẩn ngơ…
Qua Cuốc kêu cảm hứng, Nguyễn Khuyến đã giãi bày một tấm lòng yêu nước không nguôi, một tâm trạng đầy bi kịch: xót xa đau buồn, tủi nhục vì nước mất nhà tan. Tâm trạng ấy của nhà thơ cũng là tâm trạng của một thế hệ nhà nho yêu nước mà bất lực trước thời cuộc. Cuốc kêu cảm hứng là tiếng đồng vọng bi thương, để con cháu cảm thông với nỗi lòng ông cha, trân trọng và tự hào về cái giá của độc lập tự do với bao nhiêu máu, nước mắt mà cả dân tộc phải trả. Cuốc kêu cảm hứng tiêu biểu nhất cho hồn thơ Nguyễn Khuyến sau khi đã cáo quan lui về sống giữa xóm làng quê hương: man mác bâng khuâng buồn, cô đơn…
Giữa thế kỷ XIX, Bà Huyện Thanh Quan đứng trên đỉnh đèo Ngang lúc hoàng hôn, trong nỗi buồn của người lữ khách mà thổn thức:
Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
(Qua Đèo Ngang)
Có điều là Bà Huyện Thanh Quan lúc bấy giờ tuy mang tâm trạng cô đơn, nhưng còn có nước để mà “nhớ nước”, còn có nhà để mà “thương nhà” còn Nguyễn Khuyến, nửa thế kỷ sau sống trong cảnh ngộ, nước mất nhà tan nên ra đi “nhớ nước vẫn nằm mơ”, thao thức, đắng cay, đau buồn…
Nỗi đau buồn nằm mơ… nhớ nước ấy được Yên Đổ gửi gắm trong nhiều bài chữ Hán giàu ý tưởng thâm trầm, kín đáo. Đây là nỗi niềm lưu lạc tha hương “Giang sơn y cựu phong quang cải – Thiếu vọng đê mê dục đoạn hồn” (Túc Phú Xuyên đồn) – (Sông núi vẫn như xưa nhưng quang cảnh đã đổi thay – Ngắm thấy cảnh lờ mờ mà tâm hồn những muốn nát tan). Trong bài thơ Hung niên 1 – Năm mất mùa), giọng thơ lại càng thêm đau đớn:
Cố quốc sơn hà chân thảm đạm
Thu hương hồng nhạn tối bi ai
(Núi sông nước cũ âm thầm,
Lạc loài cánh nhạn không cầm nỗi đau)
Homeros – cha đẻ của thi ca Hy Lạp cổ đại sau khi tạo ra hai thiên sử thi vĩ đại “lliatvà “Odise” đã nói: “Một mũi tên và một ngòi bút đều có thể đâm xuyên qua trái tim của con người”. Mũi tên làm tim ta rỉ máu, còn ngùi bút làm tim ta rộng mở. Tin rằng, trái tim chúng ta hôm nay rộng lớn hơn khi thấm vào trong đó là câu chữ của Nguyễn Khuyến. Từng lời thơ Cuốc kêu cảm hứng, từng âm thanh tha thiết của tiếng cuốc khơi gợi trong mỗi chúng ta tình yêu nước, tấm lòng tha thiết và trách nhiệm với đất nước.