Đề thi về bài Chùa Hương Nguyễn Nhược Pháp

 ĐỀ VỀ THƠ LỚP 10

ĐỌC – HIỂU (6,0 điểm)

Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu: (Tự luận)

CHÙA HƯƠNG

Thiên ký sự của một cô bé ngày xưa

 

 

Hôm nay đi Chùa Hương,

Hoa cỏ mờ hơi sương.

Cùng thầy me em dậy,

Em vấn đầu soi gương.

 

Khăn nhỏ, đuôi gà cao,

Em đeo dải yếm đào;

Quần lĩnh, áo the mới,

Tay cầm nón quai thao.

 

Me cười: “Thầy nó trông!

Chân đi đôi dép cong,

Con tôi xinh xinh quá!

Bao giờ cô lấy chồng?”

 

– Em tuy mới mười lăm

Mà đã lắm người thăm

Nhờ mối mai đưa tiếng,

Khen tươi như trăng rằm.

 

Nhưng em chưa lấy ai,

Vì thầy bảo người mai

Rằng em còn bé lắm,

(Ý đợi người tài trai).

 

Em đi cùng với me.

Me em ngồi cáng tre,

Thầy theo sau cưỡi ngựa,

Thắt lưng dài đỏ hoe.

 

Thầy me ra đi đò,

Thuyền mấp mênh bên bờ.

 

Em nhìn sông nước chảy…

Đưa cánh buồm lô nhô

 

Mơ xa lại nghĩ gần,

Đời mấy kẻ tri âm?

Thuyền nan vừa lẹ bước,

Em thấy một văn nhân.

 

Người đâu thanh lạ thường!

Tướng mạo trông phi thường.

Lưng cao dài, trán rộng.

Hỏi ai nhìn không thương?

 

Chàng ngồi bên me em,

Me hỏi chuyện làm quen:

“Thưa thầy đi chùa ạ?

Thuyền đông, giời ôi chen!”

 

Chàng thưa: “Vâng, thuyền đông!”

Rồi ngắm giời mênh mông,

Xa xa mờ núi biếc,

Phơn phớt áng mây hồng.

 

Dòng sông nước đục lờ.

Ngâm nga chàng đọc thơ.

Thầy khen: “Hay! Hay quá!”

Em nghe rồi ngẩn ngơ.

 

Thuyền đi. Bến Đục qua.

Mỗi lúc gặp người ra,

Thẹn thùng em không nói:

“Nam vô A-di-đà!”…..

 

 

( Nguyễn Nhược Pháp)

Cước chú

Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938) là nhà thơ trữ tình của Việt Nam, con trai của nhà báo, dịch giả, học giả Nguyễn Văn Vĩnh.

Nguyễn Nhược Pháp Ông làm thơ từ năm 18 tuổi

Ngày xưa là thi phẩm đầu tay của Nguyễn Nhược Pháp. Bản sách in lần đầu do Nguyễn Dương xuất bản tại Hà Nội năm 1935. Về sau in lại nhiều lần, nhưng bản in của Nhà sách Cảo Thơm (Sài Gòn, 1966), do họa sĩ Thái Tuấn vẽ minh họa, được

Ngoài thi phẩm “Chùa Hương”, Nguyễn Nhược Pháp còn có những bài thơ khá nổi tiếng khác như “Tay Ngà” và “Sơn Tinh Thủy Tinh

Bài thơ: Chùa Hương Viết 8-1934

Theo nhà văn Nguyễn Giang, Nguyễn Nhược Pháp “thầm yêu trộm nhớ” một tiểu thơ khuê các, lúc ấy được coi là “mỹ nhân đất Hà Thành” (bây giờ là hoa hậu) tên Đỗ Thị Bính, ở số nhà 67 Nguyễn Thái Học, Hà Nội, và sáng tác bài thơ này trong hoàn cảnh đó. Hôm nào Nguyễn Nhược Pháp cũng lặng lẽ đi qua số nhà 67 Nguyễn Thái Học. Tiếc rằng, số phận nghiệt ngã đã khiến ông sớm qua đời khi còn rất trẻ, tài năng đang ở độ chín. Nên đến khi ông mất cũng chưa được gặp tiểu thư Đỗ Thị Bính dù chỉ một lần.

Câu 1:  Xác định nhân vật trữ tình trong văn bản.

Câu 2: Nêu tâm trạng của cô gái khi mới đi lễ chùa cùng thầy, me.

Câu 3: Dưới điểm nhìn của cô gái, chàng trai được miêu tả như thế nào?

Câu 4: Nét đẹp truyền thống nào của dân tộc được thể hiện trong các câu thơ

Khăn nhỏ, đuôi gà cao,

Em đeo dải yếm đào;

Quần lĩnh, áo the mới,

Tay cầm nón quai thao.

Câu 5: Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ trong câu thơ:

Em tuy mới mười lăm

Mà đã lắm người thăm

Nhờ mối mai đưa tiếng,

Khen tươi như trăng rằm.

Câu 6: Vì sao tác giả lại sử dụng dấu ngoặc đơn trong câu thơ

Nhưng em chưa lấy ai,

Vì thầy bảo người mai

Rằng em còn bé lắm,

(Ý đợi người tài trai).

Câu 7: Không gian trong bài thơ góp phần thể hiện sự thay đổi trong tâm trạng của nhân vật trữ tình như thế nào?

Câu 8 : Anh/chị hãy nhận xét nét độc đáo trong giọng điệu của văn bản.

LÀM VĂN (4,0 điểm)

Anh/chị hãy viết bài văn (khoảng 500 chữ) giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của văn bản trên.

Hướng dẫn chi tiết  

ĐỌC – HIỂU

Câu 1🙁 0.5 điểm)  Nhân vật trữ tình trong văn bản là cô gái đi hội chùa Hương

Câu 2: (0.5 điểm)Tâm trạng của cô gái;

Tâm trạng háo hức mong chờ, niềm vui sướng được cùng thầy me đi chùa

Câu 3(0.5 điểm): Dưới điểm nhìn của cô gái chàng trai được miêu tả qua những hình ảnh

Người thanh lạ thường, Tướng mạo phi thường, Lưng cao dài, trán rộng. đọc thơ hay

-> Chàng trai khiến cô gái ngẩn ngơ, xao xuyến với những rung động đầu đời.

Câu 4 (1,0 điểm): cô gái được miêu tả qua các hình ảnh

Khăn nhỏ, tóc đuôi gà

đeo dải yếm đào; Quần lĩnh, áo the mới, Chân đi đôi dép cong

Tay cầm nón quai thao.

=> Đây là vẻ đẹp truyền thống trong phong tục tập quán, trang phục xưa của người phụ nữ Việt Nam thể hiện sự e ấp, kín đáo, duyên dáng và thể hiện phẩm hạnh đoan trang của người con gái

Câu 5 (1,0 điểm):

Biện pháp nghệ thuật: so sánh tươi như trăng rằm

Tác dụng

+ Tạo ra tính liên kết cho văn bản, tăng nhịp điệu cho câu thơ

+ Tạo ấn tượng về vẻ đẹp trẻ trung và sức sống, dung mạo tươi tắn, thanh thoát của cô gái tuổi trăng tròn đang bắt đầu có những rung động đầu đời. Làm tăng màu sắc lãng mạn cho tác phẩm

Câu 6 (1,0 điểm):

Khi sử dụng dấu ngoặc đơn trong câu thơ, tác giả đã thể hiện dụng ý nghệ thuật của mình trong tác phẩm. Sử dụng biện pháp đó vì

– Tạo điểm nhấn trong văn bản, làm thay đổi mạch cảm xúc thơ

– Làm cụ thể hóa suy nghĩ thầm kín của cô gái ở độ tuổi trăng rằm, nhiều người ướm hỏi muốn kết nhân duyên

Câu 7 (1.0 điểm)

Không gian được tác giả miêu tả trong văn bản qua những hình ảnh như:

Trước khi gặp chàng trai

Hoa cỏ mờ hơi sương.

Thuyền mấp mênh bên bờ.

sông nước chảy…cánh buồm lô nhô

 

Khi gặp chàng trai

Thuyền nan lẹ bước,

 giời mênh mông,

 mờ núi biế,

 áng mây hồng phơn phớt

Dòng sông nước đục lờ.

=> Không gian góp phần thể hiện tâm trạng và sự chuyển biến cảm xúc của nhân vật trữ tình. Cô gái buổi đầu đi chùa cũng thầy me, thấy vui sướng, hân hoan ngỡ ngàng, ngắm nhịn vạn vật xung quanh bằng sự tò mò thích thú, cảnh vật bồng bềnh hư ảo, nên thơ, mộng mơ

Khi chàng trai xuất hiện không gian trở nên tươi sáng hơn, mênh mông rộng lớn hơn, khiến tâm trạng cô gái cũng có những xuyến xao khó tả.

-> thiên nhiên hòa điệu và góp phần thể hiện cảm xúc của con người

Câu 8; (0.5 điểm): Nét độc đáo trong giọng điệu của bài thơ

– Tác giả mượn lời kể của cô gái đi lễ chùa

– Trong lời thơ có tính tự thuật và tự sự cao

– Ngoài yếu tố biểu cảm, giọng điệu thơ mang tính tự sự hấp dẫn người đọc người nghe, vừa tả cảnh vừa kể sự việc vừa đi sâu thể hiện sinh động tâm trạng con người.

LÀM VĂN

(Đảm bảo các luận điểm cơ bản dưới đây)

Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác giả Nguyễn Nhược Pháp, tác phẩm Chùa Hương

Giới thiệu vấn đề cần bàn luận: phân tích nét độc đáo đặc sắc trong nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

Thân bài: Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ:

* Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình:

(Chủ đề, mạch cảm xúc, hình ảnh, điểm nhìn…)

– Bài thơ được viết theo chủ đề quen thuộc thường gặp trong thơ mới: Tình yêu

Tuy nhiên cách thể hiện tác phẩm khá đặc biệt: mạch ý tưởng là một câu chuyện về cô gái tuổi 15 lần đầu đi lễ chùa, gặp gỡ và vấn vương với một chàng trai nho nhã

– Nhân vật trữ tình trong bài thơ là cô gái tuổi vừa trăng rằm, mang nét đẹp truyền thống của những gia đình gia giáo

– Từ điểm nhìn của nhân vật, không gian chùa Hương được khám phá, miêu tả rất tỉ mỉ, đẹp đẽ. Đồng thời nhân vật trong bài thơ hiện lên cụ thể, sinh động, tạo tính hấp dẫn và nét thơ mộng cho cuộc gặp gỡ của đôi trai gái.

– Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ mang đậm âm hưởng văn học dân gian, những hình ảnh thơ bình dị gần gũi.

* Phân tích đánh giá sự phát triển của hình tượng chính và tính độc đáo của các phương diện ngôn từ.

– Sự phát triển của hình tượng chính cụ thể là tâm trạng nhân vật trữ tình

Tác giả thông qua hành trình đi lễ hội chùa Hương của gia đình cô gái, song song thể hiện sự thay đổi cảm xúc của nhân vật trữ tình

+Ban đầu là cách miêu tả không gian của trời đất khi mới tinh mơ nhằm nhấn mạnh tâm trạng háo hức của người con gái.

+ Hình ảnh cô gái sửa soạn đi lễ chùa cho thấy sự háo hức, niềm vui sướng say mê của tuổi trẻ

+ Tác giả miêu tả lời nói của mẹ, hành động của cha phần nào cho thấy sự quan tâm lo lắng của thầy – me, đồng thời phần nào khắc họa tình yêu thương sự gắn bó của cô con gái nhỏ đang ở những bậc thang đầu tiên của cuộc đời còn tràn đầy sức sống, niềm say mê khám phá.

+ Tác giả mượn sự thay đổi của không gian, gửi gắm chuyển biến tình cảm của nhân vật khi gặp chàng trai nho nhã, thanh lịch, giỏi giang

– Tính độc đáo của các phương diện ngôn từ:

Thể thơ ngũ ngôn

+ Nhịp điệu câu thơ chậm, hình ảnh thơ tươi sáng, gợi những xúc cảm vấn vương ban đầu, hé nở tình cảm lứa đôi trong sáng.

* Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác cùng đề tài, chủ đề, thể loại

So sánh với Hồ Xuân Hương, Phan Châu Chinh khi viết về đề tài chùa Hương , thể hiện tình yêu sự ngưỡng mộ dành cho vẻ đẹp đất trời

Còn Nguyễn Nhược Pháp mượn câu chuyện gặp gỡ, quen biết, vấn vương cảm mến để bầy tỏ  tình yêu đôi lứa với khát vọng tự do và mong muốn hạnh phúc bền lâu.

Kết bài: Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ.

Bài thơ lưu giữ lại nét truyền thống của dân tộc trong hình ảnh cô gái e ấp, duyên dáng đi lễ chùa

Đồng thời cho thấy nét cách tân táo bạo , thể hiện khao khát của con người hướng đến những tình cảm cá nhân chân thành, trong sáng, đáng được trân trọng

Bài viết tham khảo

 

Nhà nghiên cứu Phương Lựu khẳng định: “Thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần”. Thơ ca là tiếng nói của tâm hồn, tình cảm của người nghệ sĩ. Mỗi một nhà thơ khi nhìn ngắm cuộc sống sẽ có cách thức riêng để soi chiếu cuộc đời của mình vào trang viết. Có lẽ chính vì thế mà Nguyễn Nhược Pháp đã đưa người đọc vào một chuyến du xuân bằng cách thức rất riêng biệt trong tác phẩm “Chùa Hương”. Đọc bài thơ chúng ta thấy được nét đẹp rất riêng trong nội dung và hình thức nghệ thuật.

 

“Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm” (Voltaire). Thơ ca chỉ bật ra khi trong tim người nghệ sĩ đang rung lên những nhịp đập thổn thức, những điệu ngân sâu lắng của tâm hồn. Chính bởi vậy, mỗi vần thơ dù ngắn gọn nhưng lại có sức truyền tải lớn tới người đọc. Và có những bài thơ đã ra đời cách chúng ta nhiều năm tháng nhưng vẫn đủ sức ngân rung trong lòng mỗi con người. “Chùa Hương” viết vào tháng 8 năm 1934 khi phong trào thơ Mới đã có những bước đầu khởi sắc đặt nền móng cho một thời đại mới của thi ca. Tác phẩm với thể năm chữ ngắn gọn hàm súc, đậm chất trữ tình, tự sự, tác giả mượn lời của người con gái trẻ trung xinh đẹp đang tuổi yêu đời kể về những rung động đầu tiên của lứa đôi

Tình yêu là đề tài quen thuộc của thi ca. Xuân Diệu từng nói:

Làm sao sống được mà không yêu

Không nhớ không thương một kẻ nào

Bên cạnh những tiếng yêu nồng nàn cháy bỏng của Huy Cần, Hàn Mặc Tử, chúng ta thấy một Nguyễn Nhược Pháp nhẹ nhàng sâu lắng, kín đáo và ý nhị.  Ngay câu thơ mở đầu ta đã bắt gặp một cách viết rất chân tình

Hôm nay đi Chùa Hương,

Tất cả ở đây đều được nhìn qua đôi mắt của người kể chuyện: đấy là một cô gái “ngày xưa”, con nhà gia giáo và đang ở tuổi mới lớn. Nhân vật trữ tình xưng em ở đây là một cô thiếu nữ mười lăm tuổi, đang độ tuổi trăng rằm đẹp đẽ nhiều mơ ước, nhiều khát vọng. Nét đặc thù trước hết của bài thơ Chùa Hương chính là ở chỗ đây là một bài thơ kể chuyện, hay có thể gọi đây là một truyện thơ nho nhỏ. Bài thơ theo mạch cảm xúc của nhân vật từ buổi sáng sớm cùng thầy, me chuẩn bị đi trẩy hội chùa Hương, đến cuộc gặp gỡ với chàng văn nhân trên chuyến đò qua bến Đục. Câu chuyện nhẹ nhàng nhưng hàm ý bên trong lại là tình cảm của đôi trai gái mới chớm nở trong sáng, đẹp đẽ. Cô gái mang vẻ đẹp truyền thống, có sự giáo dục của mẹ cha, rất kín đáo, e ấp tình tứ. Từ sự quan sát của nhân vật, không gian thời gian của hành trình được mở ra. Mỗi cảnh tượng mỗi ngọn núi, dòng sông trong thơ chính là nền cho thay đổi trong tâm tư của con người. Có thể nói giọng điệu trữ tình ngọt ngào cùng cách kể chuyện nhẹ nhàng hấp dẫn, những chất liệu mang đậm màu sắc văn hóa dân tộc đã đưa người đọc vào một miền không gian cổ tích xa xưa với lễ hội, đình đám của ông cha. Nhà thơ cho chúng ta cái nhìn nhân văn về tình cảm lứa đôi kín đáo ý nhị nhưng cũng rất mới mẻ, táo bạo

Ở những dùng đầu tiên nhân vật trữ tình trực tiếp xuất hiện  trên nền không gian của sớm mai khi mặt trời chưa ló dạng, cây cối còn đang chìm trong màn sương mờ huyền ảo

Hoa cỏ mờ hơi sương.

Cùng thầy me em dậy,

Em vấn đầu soi gương.

Mượn lời của người con gái trẻ trung, nhẹ nhàng, tình tứ để vừa nêu hoàn cảnh vừa khắc họa tâm trạng , tác giả đã giúp người đọc hình dung về hành trình đi chùa của cô gái với mẹ cha.

Dường như chuyến đi ấy không chỉ về nguồn , còn là thời điểm để cô gái được ngắm nhìn cuộc sống xung quanh. Sự háo hức vui tươi được thể hiện qua một loạt hành động được liệt kê: em dậy, em vấn đầu, soi gương. Đó là tâm trạng hồi hộp chờ mong là sự náo nức của tuổi xuân thì ngày đầu xuân đi hội.

Tác giả sử dụng nhịp thơ thay đổi linh hoạt 2/3; 3/2 nhằm khắc sâu ấn tượng về tâm trạng vui tươi của người con gái. Không chỉ có vậy, hình ảnh “ hoa cỏ mờ hơi sương”  còn gợi ra một bức tranh  bồng bềnh huyền ảo như vào cõi mơ.

Đến khổ thơ thứ 2 hàng loạt những hình ảnh xuất hiện:

Khăn nhỏ, đuôi gà cao,

Em đeo dải yếm đào;

Quần lĩnh, áo the mới,

Tay cầm nón quai thao.

Trang phục của cô gái được miêu tả chi tiết mang theo hơi thở của tuổi trẻ, nét đẹp của truyền thống dân tộc: khăn nhỏ, tóc đuôi gà, giải yếm đào, quần lĩnh, áo the ( mới) nón quai thao, đôi dép cong… Người đọc nhớ đến vẻ đẹp đoan trang thùy mị của người phụ nữ xưa trong những câu ca dao:

Một thương tóc bỏ đuôi gà

Hai thương ăn nói mặn mà có duyên.

Hay trong thơ của Nguyễn Bính chúng ta từng bắt gặp nét đẹp rất “chân quê”

Nào đâu cái yếm lụa sồi

Cái dây lưng dũi nhuộm hồi sang xuân

Nào đâu cái áo tứ thân

Cái khăn mỏ quạ cái quần nái đen”

Trang phục của người phụ nữ xưa kín đáo giản gị mà vẫn đẹp đẽ đầy duyên dáng. Nguyễn Nhược Pháp với nghệ thuật hiệp vần “ao” ấm tiết mở, hình ảnh gọi nhau dồn dập đâu chỉ miêu tả vẻ đẹp sức sống của cô gái đang xuân thì, còn phần nào cho thấy sự rạng rỡ tươi vui khi cô sửa soạn đi lễ chùa!

Me cười: “Thầy nó trông!

Chân đi đôi dép cong,

Con tôi xinh xinh quá!

Bao giờ cô lấy chồng?”

Điểm gặp gỡ giữa văn chương với những loại hình nghệ thuật khác đó là đều xây dựng lên những hình tượng nghệ thuật bởi chất liệu ngôn từ. Nhà thơ có sự đổi thay giọng điều và điểm nhìn để làm nổi bật vẻ đẹp nhân vật. Khổ thơ với những câu cảm thán xen lẫn câu hỏi của người mẹ. Mượn lời khen của người mẹ: con tôi xinh xinh quá tác giả tái hiện cô gái trẻ trung, yêu kiều. Lời ướm hỏi của mẹ cũng là lời khen ngợi, tự hào là tình yêu thương của đấng sinh thành dành cho người con ngoan ngoãn, xinh tươi.

Ở phần đầu của bài thơ, bằng âm điệu thơ nhẹ nhàng, hình ảnh trong sáng, tác giả nêu bật nét dịu dàng mềm mại trong lời nói của nhân vật trữ tình

– Em tuy mới mười lăm

Mà đã lắm người thăm

Nhờ mối mai đưa tiếng,

Khen tươi như trăng rằm.

 

Nhưng em chưa lấy ai,

Vì thầy bảo người mai

Rằng em còn bé lắm,

(Ý đợi người tài trai)

Nhịp điệu thơ đã có sự thay đổi từ 1/4 ; 2/3 , cô gái ngập ngừng , e thẹn khi mẹ cha nhắc đến chuyện cưới hỏi lấy chồng. Có thể thấy đây là người con gái được mẹ cha giữ gìn trong nếp gia đạo truyền thống, nên tình cảm của cô cũng rất ý tứ, tế nhị. Chúng ta nhớ đến câu thơ của Nguyễn Du khi miêu tả nàng Kiều

Phong lưu rất mực hồng quần

Xuân xanh sấp sỉ tới tuần cập kê

Êm đềm trướng phủ màn che

Tường đông ong bướm đi về mặc ai

Nguyễn Nhược Pháp khéo léo ví vẻ đẹp của cô gái với trăng rằm, đâu chỉ cho thấy tuổi mười lăm trẻ trung, đầy sức sống mà còn nhấn mạnh vẻ đẹp trong sáng của cô gái. Có lẽ cả mẹ cha và cô cũng đều mong mỏi có người tài hoa, xứng đáng đến hỏi cưới. Câu thơ với những dấu ngoặc đơn được sử dụng như một nốt nhấn cho tác phẩm, thể hiện một cách ý nhị suy nghĩ, mong mỏi và khát vọng về ý chung nhân của người con gái:

Thơ mới là sản phẩm của “khát vọng thành thật” (Hoài Thanh), đưa cái tôi cá nhân vào trung tâm của thơ ca, cho phép biểu đạt mọi cung bậc của cảm xúc và suy tưởng. Có lẽ chính vì thơ ca mang dấu ấn sáng tạo của người cầm bút, thể hiện bản ngã, cái tôi nên thơ Nguyễn Nhược Pháp cũng có lớp ngôn từ tươi mới, thoát khỏi những khuôn mẫu ước lệ trước đây. Cô gái bên cạnh vẻ đẹp truyền thống đạo lý của dân tộc cũng táo bạo thể hiện cá tính cá nhân, bầy tỏ khát vọng, mong muốn về một tình yêu viên mãn, hạnh phúc.

Em đi cùng với me.

Me em ngồi cáng tre,

Thầy theo sau cưỡi ngựa,

Thắt lưng dài đỏ hoe.

 

Thầy me ra đi đò,

Thuyền mấp mênh bên bờ.

 

Em nhìn sông nước chảy…

Đưa cánh buồm lô nhô

Thiên ký sự cảu cô gái là những ấn tượng đẹp đẽ về không gian cảnh sắc chùa Hương. Cảnh tượng được miêu tả như một cõi yên bình, nên thơ. Hình ảnh của mẹ cha, bến đò, con thuyền, dòng nước được liệt kê trong đoạn thơ đều như phảng phất nét đẹp thoát tục, tĩnh tại của những con người thành tâm hướng phật. Đoạn thơ với những nhịp chậm, đặc biệt cách kết hợp chủ yếu là vần bằng của câu thơ:

Đưa cánh buồm lô nhô  giúp những tiếng thơ trở nêm êm ái nhịp nhàng như nhịp phù hợp với tâm trạng của người đang nhìn ngắm thiên nhiên và suy tư trăn trở

Mơ xa lại nghĩ gần,

Đời mấy kẻ tri âm?

Thơ mới không chỉ là sự nở rộ cái tôi cá nhân, cá thể mà còn đánh dấu sự bùng nổ ngôn từ trên con đường hiện đại hóa thơ ca. Đọc thơ Nguyễn Nhược Pháp ta thấy chất cổ điển kết hợp tinh tế với nét hiện đại. Người con gái liệu đã thoát khỏi cảnh :

Thân em như hạt mưa sa

Hay sống cam chịu tình duyên như

Một duyên hai nợ âu đành phận

Nhưng xã hội xưa truyền thống khuôn phép đã quá lâu đời vẫn là điều khiến cô gái trở nên e dè lo lắng. Tuổi 15 đẹp đẽ , trẻ trung nhưng tương lai của cô vẫn phụ thuộc vào thầy me, vào những thành kiến bấy lâu của xã hội đương thời. Có lẽ chính vì thế cảnh vật như nói hộ lòng người:

Thuyền nan vừa lẹ bước,

Em thấy một văn nhân.

 

Người đâu thanh lạ thường!

Tướng mạo trông phi thường.

Lưng cao dài, trán rộng.

Hỏi ai nhìn không thương?

Nhịp điệu thơ nhanh và dồn dập hơn thoát khỏi nhưng suy tư của cô gái về tương lai, đưa cô về với cuộc gặp gỡ thực tại. Chúng ta ai là không liên tưởng đến cuộc hạnh ngộ của nàng Kiều và chàng Kim ngày đầu tiên trong tiết thanh minh?

Người quốc sắc kẻ thiên tài

Tình trong như đã mặt ngoài còn e.

“Chùa Hương” cũng xấy dựng một tình huống gặp gỡ đẹp như vậy. Chàng trai được miêu tả qua đôi mắt long lanh đầy yêu thương của người con gái. Đoạn thơ với những câu cảm , câu hỏi đâu chỉ dành để miêu tả vẻ đẹp nho nhã văn nhân của người khách chung đò, còn cho thấy lòng ngưỡng mộ của cô gái với vẻ ngoài và tài năng của người quân tử. Câu hỏi tu từ nhấn mạnh vào ấn tượng ban đầu và tình cảm dường như đang hé nở trong lòng người con gái. Cũng giống như Thế Lữ từng nói

Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy.

 Ngàn năm chưa dễ đã ai quên

Từ sự gặp gỡ tình cờ này trong đáy mắt cô gái chỉ còn hình ảnh của chàng trai

Chàng ngồi bên me em,

Me hỏi chuyện làm quen:

“Thưa thầy đi chùa ạ?

Thuyền đông, giời ôi chen!”

 

Chàng thưa: “Vâng, thuyền đông!”

Rồi ngắm giời mênh mông,

Xa xa mờ núi biếc,

Phơn phớt áng mây hồng.

Hình thức khổ thơ như những lời thủ thỉ tâm tình mang tính tự sự cao. Chỉ có cô gái quan sát , lời thoại thuộc về me và người con trai. Dường như sự huyên náo nơi cảnh hội, sự đua chen trên chuyến đò cũng không khiến cô để tâm. Nguyễn Nhược Pháp dùng đại từ : chàng  để nói về người con trai, đó là cách gọi rất lãng mạn trữ tình, là những xao xuyến, e ấp đầu tiên người con gái hướng đến bóng hình cô cảm mến. Cuộc trò chuyện vu vơ, và hàng loạt những hình ảnh về thiên nhiên đồng loạt xuất hiện đủ để chúng ta hiểu sự xuất hiện của chàng trai khiến tâm trạng người con gái xốn xang, yêu đời và thích thú hơn với cảnh trời nước. Hàng loạt các tính từ, từ láy được liệt kê miêu tả cảnh thiên nhiên giàu chất thơ chất họa.

Dòng sông nước đục lờ.

Ngâm nga chàng đọc thơ.

Thầy khen: “Hay! Hay quá!”

Em nghe rồi ngẩn ngơ.

Những khổ thơ trên tình cảm của nhân vật trữ tình được thể hiện gián tiếp qua cảnh vật bên đường, chỉ đến đây tác giả sử dụng từ láy: ngẩn nhơ để trực tiếp thể hiện sự say mê, yêu thích của người con gái. Cũng cảnh vật đẹp đẽ của mùa xuân, cũng thiên nhiên bồng bềnh, thơ mộng nhưng dường như cô gái chỉ còn biết đến chàng trai vừa gặp gỡ. Sự ngẩn ngơ là giây phút tâm trí cô gái dường như bị che mờ, không còn chú tâm đến cảnh sắc ngoài kia nữa. Phải chăng có lần Xuân Diệu cũng đã nói đến cảm xúc của con người khi chớm yêu:

Xuân của đất trời nay mới đến;

Trong tôi, xuân đến đã lâu rồi:

Từ lúc yêu nhau, hoa nở mãi

Trong vườn thơm ngát của hồn tôi.

Đoạn trích nhỏ nhưng đã đem đến cho người đọc những dư vị ngọt ngào về một tình yêu đầu đời ý vị, thiết tha. Trước đó chúng ta đã gặp trong thơ Hồ Xuân Hương những vần thơ cá tính của người con gái tài trí thông minh

Người quen cõi Phật xen chân xoạc

Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm

Giọt nước hữu tình rơi thánh thót

Con thuyền vô trạo cúi lom khom

Hay những câu thơ tả cảnh động HƯơng tích của Phan Châu Chinh

Bầu trời, cảnh bụt,

Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay.

Kìa non non, nước nước, mây mây,

Đệ nhất động hỏi là đây có phải?

Còn Nguyễn Nhược Pháp mượn câu chuyện gặp gỡ, quen biết, vấn vương cảm mến để bầy tỏ  tình yêu đôi lứa với khát vọng tự do và mong muốn hạnh phúc bền lâu. Đặt điểm nhìn vào người con gái chỉ vừa trăng rằm, mỗi dòng thơ đều có cách cảm, cách nghĩ và lời ăn tiếng nói mang rõ dấu ấn và bộc lộ tính cách của nhân vật này. Đó là cái nhìn hồn nhiên, ngỡ ngàng của người lần đầu đi chơi xa mà lại ngắm nhìn một lễ hội rất lớn– hội chùa Hương. Người đọc, nhất là những thế hệ sau này, có cái thú là được sống lại, nói đúng hơn là được khám phá lại một cuộc sống đã lùi vào dĩ vãng, không chỉ về cảnh sắc, phong tục mà đến cả tâm lý, tâm hồn của lớp người xưa.

Những năm 32-45 Thơ Mới xuất hiện trở thành một thời đại trong thi ca. Thơ được giải phóng triệt để khỏi các phép tắc, thanh vận chặt chẽ của các thể loại thơ truyền thống, thơ tự do bắt đầu xuất hiện với số lượng các câu thơ không còn bị giới hạn. Đặc biệt, ngôn ngữ bình thường trong đời sống hàng ngày đã được nâng lên thành ngôn từ nghệ thuật trong thơ, không còn bị câu thúc bởi việc sử dụng các điển cố văn học. Khi đọc “Chùa Hương” với ngôn ngữ thơ phong phú, những hình ảnh bình dị, lời ăn tiếng nói thường ngày đưa vào trang viết đầy năng lượng và biến hóa trong từng khổ. Sau bao năm thơ ca trung đại sử dụng ngôn từ “như những viên gạch để lắp vào bộ khung cố định của luật thơ” (Trần Đình Sử) thì với Thơ mới, ngôn từ bùng nổ và trở nên phong phú, mới lạ hơn bao giờ hết. Vì vậy : Chùa Hương với những nét đẹp truyền thống hiện đại là minh chứng cho thấy sự chuyển mình của văn học dân tộc trong thời đại mới.

Ta đã từng bắt gặp trong thơ nhiều những trang viết về tình yêu nhưng để đẹp, tinh thế và lay động nhiều đến thế, “chùa Hương” đã đưa lại cho chúng ta ấn tượng riêng. Bài thơ với những lời tâm tình của cô gái trong  “thiên ký sự” là điểm nhấn đặc biệt mãi đọng lại trong tâm trí bạn đọc. Bài thơ lưu giữ lại nét truyền thống của dân tộc trong hình ảnh cô gái e ấp, duyên dáng đi lễ chùa. Đồng thời cho thấy nét cách tân táo bạo , thể hiện khao khát của con người hướng đến những tình cảm cá nhân chân thành, trong sáng, đáng được trân trọng. Tác phẩm là khúc ca đầy vương vấn, dư ba, ý thơ còn lan tỏa mãi trong lòng người đọc đặc biệt với lứa tuổi thanh xuân sắp có những rung động đầu đời thiết tha, rạo rực!

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *