Đề thi HSG : sáng tạo trong thơ ca là một sự giải tỏa những cảm xúc tràn đầy trong tâm hồn nhà thơ

Đề tham khảo số 18:

  KỲ THI  H ỌC SINH GI ỎI CẤP  THPT

NĂM HỌC 2023 – 2024

ĐỀ THI THAM KHẢO

(Đề thi có 01 trang)

MÔN THI: NGỮ VĂN

Thời gian làm bài: 150 phút, không kể thời gian phát đề

Ngày thi:   /     /

Câu 1. (4,0 điểm)

R.Ta-go, nhà thơ Ấn Độ cho rằng: Thà làm một bông hoa sen nở khi thấy
mặt trời rồi mất hết tinh nhụy, còn hơn giữ nguyên hình nụ búp trong sương lạnh
vĩnh cửu của mùa đông.

Suy nghĩ của anh (chị) về nhận định trên.

Câu 2. (6,0 điểm)

Bàn về thơ, có ý kiến cho rằng: Hành động sáng tạo trong thơ ca là một sự
giải tỏa những cảm xúc tràn đầy trong tâm hồn nhà thơ.

Anh (chị) hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên.

———————– Hết ————————

Thí sinh không được sử dụng tài liệu, giám thị không giải thích gì thêm.

HƯỚNG DẪN CHẤM THI

MÔN: NGỮ VĂN

(gồm có 05 trang)

  1. HƯỚNG DẪN CHUNG

– Nắm bắt kỹ nội dung trình bày của thí sinh, để đánh giá được một cách tổng quát và chính xác bài làm của thí sinh, tránh đếm ý cho điểm.

– Vận dụng linh hoạt hướng dẫn chấm, cân nhắc trường hợp cụ thể để xác định mức điểm phù hợp.

– Điểm bài thi cho điểm lẻ đến 0,25 và không làm tròn; khuyến khích những bài viết có cảm xúc và sáng tạo.

  1. ĐÁP ÁN – BIỂU ĐIỂM
Câu Ý Nội dung Điểm
Câu 1

(4 điểm)

 

  R.Ta-go, nhà thơ Ấn Độ cho rằng: Thà làm một bông hoa sen nở khi thấy mặt trời rồi mất hết tinh nhụy, còn hơn giữ nguyên hình nụ búp trong sương lạnh vĩnh cửu của mùa đông. 4,0
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận: Bài văn có bố cục rõ ràng: Mở bài, thân bài, kết bài. Trong thân bài các ý được tổ chức sắp xếp hợp lí, tách đoạn rõ ràng phù hợp. 0,25
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Bài văn tập trung vào bàn luận về triết lí sống mạnh mẽ, tích cực và tiến bộ. 0,25
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm: Học sinh lựa chọn và kết hợp các thao tác phù hợp để tập trung làm sáng tỏ vấn đề. Có thể triển khai theo hướng sau:

1. Mở bài

– Dẫn dắt giới thiệu vào vấn đề cần nghị luận

– Trích dẫn ý kiến

– Khái quát luận đề

2. Thân bài

2.1. Giải thích vấn đề:

– Hoa sen: ủ mầm trong bùn đất, tối khuất, nhơ bẩn nhưng mạnh mẽ vươn lên. Hoa sen là biểu tượng cho phẩm cách thanh sạch, biết vươn lên trong cuộc sống của con người.
– Mặt trời: Đó là ánh sáng vĩnh cửu đem lại sự sống cho vạn vật. Mặt trời tượng trưng cho sức sống mạnh mẽ, sự huy hoàng.

– Nụ búp: ẩn dụ cho cái non nớt, nhút nhát, e sợ của con người.
– Sương lạnh vĩnh cửu: là môi trường lạnh giá, khắc nghiệt, ở đó vạn vật phải ẩn mình, thu mình, không thể sinh sôi phát triển. Vì thế nó tượng trưng cho những khó khăn, thử thách trong cuộc sống.
=> Ý nghĩa câu nói: Ý kiến của Ta- go là một triết lí sống mạnh mẽ, tích cực và tiến bộ. Trong cuộc sống có rất nhiều khó khăn thử thách, nhưng nếu biết sống và cống hiến hết
mình ta sẽ nhận được thành quả xứng đáng. Nếu sống nhút nhát, thụ động thì cuộc đời thật nhạt nhẽo, vô nghĩa.
2.2. Bình luận:

a. Tại sao nên chọn cách sống như “bông hoa sen”?
– Cuộc sống rất quý giá nhưng lại ngắn ngủi, và chỉ đến duy nhất một lần. Ta phải sống thế nào cho xứng đáng, phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những tháng năm đã sống hoài, sống phí. Ta cần có một trái tim đầy nhiệt huyết để sống hết mình, để cảm nhận từng hơi thở trong khoảnh khắc của đời mình.

– Đã là con người thì cần phải có ước mơ, lý tưởng và khát khao thực hiện những điều đó. Tuy nhiên, cuộc sống luôn ẩn chứa những khó khăn, thử thách và những điều tốt
đẹp không bỗng dưng mà có. Thay vì để khó khăn đánh bại, ta hãy đón nhận chúng như một cơ hội để rèn luyện bản lĩnh của chính mình, để ta thêm trưởng thành.

– Khi ta chọn làm “bông hoa sen nở trong ánh mặt trời” đó là lúc ta sống hết mình và cống hiến hết mình. Ta sẽ có cơ hội được toả sáng, được khẳng định, lưu lại dấu chân trên
con đường đã đi và tận hưởng những điều tuyệt diệu mà cuộc sống mang lại. Đó cũng chính là cách khiến cuộc sống của ta thêm ý nghĩa và trở nên có ích. Đó mới là cuộc sống đích
thực của con người.

b. Tại sao không nên chọn cách sống như “nụ búp”?
– Nếu ta không dám đối mặt trước những khó khăn, thử thách của cuộc sống vì ta sợ sai lầm, sợ sẽ thất bại, sợ bị cười chê… để rồi mãi mãi ta sống trong vỏ bọc hèn nhát của
mình. Đó là lối sống mòn, sống thừa, sống vô ích mà không được ai biết đến. Một “cuộc sống đang mòn ra, đang rỉ đi, đang nổi váng.”

– Cuộc sống không mục tiêu, ước mơ, hoài bão thật vô vị. Sống như thế thực chất chỉ là tồn sự tại mà thôi, là chết ngay cả khi đang sống.

c. Nâng cao

– Liệu có phải lúc nào ta cũng sống hết mình? Nếu cứ hết mình như thế sẽ có lúc ta kiệt sức. Vậy ta cần phải biết lượng sức mình, không phải lúc nào cũng nên lao về phía trước. Để đối mặt với mọi thử thách trên đường đời trước tiên ta phải trân trọng chính bản thân ta. Đừng nôn nóng theo đuổi mục đích mà quên mất bản thân mình.

– Có những phút giây ta nên thu mình lại khi đã cảm thấy mỏi mệt. Khi ấy không phải ta đang hèn nhát, chỉ là ta đang tìm kiếm chút bình yên cho tâm hồn, tìm được lại ý chí, lòng quyết tâm để tiếp tục tiến lên phía trước.

2.3. Bài học nhận thức, hành động

– Phê phán lối sống yếu mền, thụ động, chỉ biết ngồi chờ vận may và sự thuận lợi.

– Cuộc sống của mỗi người được quyết định bởi sự tự nhận thức, bản lĩnh và nghị lực vươn lên không ngừng. Cuộc sống quá ngắn ngủi, hãy cứ cháy hết mình đến tận cùng của khát vọng, ước mơ.
3. Kết bài: Đánh giá chung.

 

 

 

 

0,25

 

 

 

 

 

 

 

 

 

0.5

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

0,5

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

0,5

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

0,5

 

 

 

 

 

 

 

 

 

0.5

d. Chữ viết, chính tả, dùng từ, đặt câu: Viết chữ rõ ràng, đúng chính tả, dùng từ chính xác, đặt câu đúng ngữ pháp. 0,25
e. Sáng tạo: Có cách diễn đạt sáng tạo, độc đáo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận. 0,5
Câu 2

(6 điểm)

  Bàn về thơ, có ý kiến cho rằng: Hành động sáng tạo trong thơ ca là một sự giải tỏa những cảm xúc tràn đầy trong tâm hồn nhà thơ.

Anh (chị) hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên.

6,0

 

 

a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận: Bài văn có bố cục rõ ràng. Mở bài dẫn dắt, giới thiệu vấn đề. Thân bài triển khai các luận điểm rõ ràng, tách đoạn hợp lí; Kết bài nhận xét, đánh giá được vấn đề nghị luận. 0,5
b. Xác định vấn đề cần nghị luận: đề bài bàn về vai trò của tình cảm,cảm xúc trong thơ. Đó là một trong những đặc trưng của thơ, nhất là thơ trữ tình. 0,25
c. Triển khai vấn đề nghị luận: Vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng.

1. Mở bài

– Giới thiệu, dẫn dắt.

– Trích dẫn nhận định.

– Xác định vấn đề nghị luận; phạm vi giới hạn.

2. Thân bài

2.1. Giải thích

– Thơ là một hình thức sáng tác văn học nghiêng về thể hiện cảm xúc thông qua tổ chức ngôn từ đặc biệt, giàu nhạc tính, giàu hình ảnh và gợi cảm.

– Hành động sáng tạo thi ca: là qúa trình làm thơ của người nghệ sĩ trước tác động của đời sống hiện thực.
– Sự giải phóng những cảm xúc tràn đầy được hiểu là: mỗi khi có điều gì chất chứa trong lòng, không nói ra, không chịu được, đó là lúc thi sĩ tìm đến thơ để giãi bày.

=> Ý kiến trên đã chỉ ra đặc trưng của thơ trữ tình và đề cao vai trò của tình cảm, cảm xúc trong thơ.

2.2. Bình luận và chứng minh

– Khẳng định ý kiến trên là hoàn toàn đúng, ý kiến đó đã xuất phát từ đặc trưng của thể loại thơ trữ tình và từ quy luật chung của sáng tạo nghệ thuật. Đã có nhiều ý kiến của
các nhà thơ, nhà phê bình văn học xưa nay có những quan điểm tương đồng. Thơ chỉ bật ra khi tim ta cuộc sống đã tràn đầy (Tố Hữu), Hãy xúc động hồn thơ cho ngòi bút có thần
(Ngô Thì Nhậm)… Xuân Diệu từng phát biểu: Một bài thơ hay là thơ chín đỏ trong cảm xúc.Thiếu tình cảm, cảm xúc chỉ có thể trở thành người thợ làm những câu chữ có vần chứ
không làm được nhà thơ.

– Thơ là tiếng nói của đời sống tình cảm con người trước cuộc sống. Thơ trữ tình lấy cảm xúc bên trong của đời sống tinh thần nhà thơ để biểu hiện. Khi rung động sâu sắc với cuộc sống, trong những trạng thái vui, buồn ở mức thăng hoa, con người có nhu cầu bộc lộ tình cảm, khi đó, người ta cần đến thơ. (dẫn chứng )
– Thơ ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại. Người ta làm thơ như một nhu cầu cần thiết trong cuộc sống. Con người dùng thơ để bộc lộ tâm tư tình cảm, nỗi niềm. Thơ là tiếng nói tha thiết của tâm hồn. Đó có thể là những cảm xúc, suy tư về nhân tình thế thái, về số phận con người, thăng trầm của xã hội, những cảm xúc về đất nước, nhân dân, nhân loại. Có khi đó chỉ là những tâm tư của cá nhân trong cuộc đời… ( dẫn chứng)

– Tình cảm trong thơ phải là thứ tình cảm chân thật của nhà thơ. Tình cảm ấy là những trạng thái vui, buồn, sung sướng, đau khổ… mà người nghệ sĩ từng trải qua, từng sống trong những cung bậc ấy. Thơ không chấp nhận thứ tình cảm giả tạo, mờ nhạt. Nếu nhà thơ không viết thơ bằng nước mắt, bằng máu của chính mình, không sống sâu sắc với những tình cảm của con người thì thơ sẽ thiếu sức sống, chỉ có thể làm được những bài thơ vô hồn, chỉ là những câu chữ hoa mĩ được ép khô trên trang giấy. ( dẫn chứng)

– Tình cảm, cảm xúc trong thơ phải có sức lay động lòng người. Thơ là kết quả của sự nhập tâm với đời sống. Chế Lan Viên có lí khi cho rằng: Chẳng có thơ đâu giữa lòng
đóng khép. Như vậy, nhà thơ cần có tấm lòng với cuộc đời, mở lòng với cuộc sống để đón nhận những tình cảm, những rung động từ hiện thực cuộc đời. Đó cũng là cách để nâng tâm
hồn mình lên, biết yêu thương, đồng cảm vui buồn với mọi người xung quanh. Nhà thơ phải biết sống đẹp, có trái tim mãnh liệt, phong phú, sâu sắc. Tình cảm là yếu tố ngọn nguồn của cái đẹp trong thơ, khi đó thơ sẽ có sức mạnh thanh lọc tâm hồn con người. (dẫn chứng)

– Tình cảm, cảm xúc trong thơ phải phải được truyền tải bằng một hình thức nghệ thuật độc đáo, mang tính thẩm mỹ thể hiện trên các phương diện: Thể loại, ngôn ngữ thơ, hình ảnh, tứ thơ, tính nhạc, chất họa…. Điều đó đem lại cho thơ vẻ đẹp hoàn mĩ. (dẫn chứng)

2.3. Đánh giá chung

– Thơ gắn kết những tâm hồn đồng điệu. Nhà thơ cần nắm bắt cái riêng biệt để biểu hiện được cái phổ quát, qua cảm xúc, nỗi lòng của nhà thơ, người đọc thấy được mình ở
trong đó.

– Thơ không chỉ cần cảm xúc mà cần cả lí trí. Đó là chiều sâu của nhận thức. Nếu thơ chỉ thiên về cảm xúc, bài thơ sẽ thiếu chất trí tuệ, thiếu sự suy tưởng triết lí mang tính khái quát về cuộc sống.

– Sự tiếp nhận ở người đọc thơ: cần sự tri âm, sự đồng cảm với tác phẩm, với nhà thơ để có thể sẻ chia những tình cảm đồng điệu. Khi ấy, thơ sẽ có sức sống lâu bền trong lòng
người đọc nhiều thế hệ.

– Bài học cho người nghệ sĩ: phải biết đề cao yếu tố tình cảm, cảm xúc trong việc sáng tác thơ.

3. Kết bài: Khẳng định lại vấn đề.

 

 

 

 

0,5

 

 

 

 

0,5

 

 

 

 

 

 

 

 

 

2.0

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

1.0

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

0,5

d. Chữ viết, chính tả, dùng từ, đặt câu: Viết chữ rõ ràng, đúng chính tả, dùng từ chuẩn xác, diễn đạt đúng ngữ pháp 0,25
e. Sáng tạo: Có cách diễn đạt sáng tạo, độc đáo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận. 0,5
* Lưu ý:

– Trên đây là những ý cơ bản, cán bộ chấm thi cần căn cứ cụ thể vào bài thi để chấm một cách linh hoạt, hợp lí, phù hợp với đặc trưng bộ môn.

– Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, để làm rõ vấn đề được yêu cầu, vận dụng tốt các kĩ năng viết văn, nội dung bài logic, chặt chẽ.

– Khuyến khích những bài làm có nhiều phát hiện, sáng tạo trong nội dung và hình thức thể hiện. Chấp nhận bài viết không giống đáp án, có những ý ngoài đáp án nhưng phải có căn cứ xác đáng và lí lẽ thuyết phục.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *