ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới:
Đời tôi, đi đây đó đã nhiều, nhưng lại rất hiếm dịp được thấy Hà Nội. Chỉ một lần thuở bé, rồi một lần hồi chiến tranh, và mấy năm sau này thêm đôi lần nữa. Thành thử, ở Hà Nội, ngoài hồ Hoàn Kiếm với cầu Long Biên, tôi chỉ đại khái biết một ngôi nhà là nhà ga Hàng Cỏ và một con đường là đường xe điện. Nhưng, mặc dù như vậy, mỗi khi nhắm mắt lại nhìn sâu vào những nẻo đường của ký ức, bao giờ tôi cũng thấy hiện lên, tuy rất đỗi mơ hồ, bóng dáng của Hà Nội phố xá. Cái thành phố sâu thẳm, xa lạ, chẳng chút thân thuộc ấy, từ lâu lắm rồi đã lẳng lặng ăn vào đời tôi như là một trong những miền đất thân yêu nhất, dẫu rằng đấy là một tình thân yêu tưởng như không đâu, một duyên nợ hầu như vô cớ. Không hẳn là một nỗi niềm mà chỉ là bâng quơ một cảm giác, không thành một câu chuyện mà chỉ như là một nốt sầu còn vương lại của thời trai trẻ chiến tranh, một thời tuổi trẻ đã hoàn toàn mai một nhưng dư âm vọng suốt đời. Như tiếng mưa rơi. Như tiếng gió lùa. Như tiếng lá rụng. Mà không bao giờ quên.
Từ bấy tới nay, thời gian mất đi đã hai chục năm tròn. Hà Nội thuở đó với Hà Nội bây giờ có lẽ đã như là một trời một vực.
Ngày ấy, từ mặt trận Quảng Trị, tôi lái xe đưa chỉ huy sư đoàn ra họp Bộ tư lệnh đang đóng ở rìa thủ đô. Khi chúng tôi ra tới nơi, thành phố đang ngất trời bom đạn. Đây thực sự là cuộc đụng đầu sống mái, một trận quyết chiến vì lẽ mất còn. Giữa huống cảnh chung nước sôi lửa bỏng như thế, chẳng dám màng gì một chuyến về quê, tôi chỉ xin được rảo vào phố để rải non chục lá thư của anh em đồng đội người Hà Nội đã gửi gắm. Tôi muốn trao thư tận tay các gia đình, để có thể nhận được ngay hồi âm mang ngược vào đơn vị cho lính ta sướng. Lựa ngày Nô-en, cấp trên thuận cho tranh thủ. Hạn đến 0 giờ phải trở về trình diện.
Tôi vào thành phố, dưới mưa chiều. Mưa phùn mùa đông buồn bã. Mái nhà, lòng đường, vòm cây một mầu thẫm ướt. Xe cộ phóng rất nhanh, người đi bộ gấp bước.
Mặc dù không biết phố nào vào với phố nào, lại ôm trong mình những chín lá thư, nhưng thoạt đầu tôi nghĩ không việc gì phải lo. Chỉ cần hỏi tới một địa chỉ, rồi từ đấy lần lượt nhờ người ở địa chỉ trước đưa mình đến địa chỉ sau. Không dè, rốt cuộc, cả chín lá thư tôi đều phải lùa vào phòng qua khe cửa. Ngày hôm ấy, dường như cả Hà Nội đã khoá trái cửa, bỏ nhà đấy mà đi.
Xong được lá thư chót, trời đã tối sầm. Phố dài vắng ngắt ngâm mình trong mưa, tù mù những vùng đèn đường. Tôi hỏi được về Vọng. Một anh dân phòng diện ủng, vận áo tơi bạt, tận tình dẫn tôi đi một đoạn khá xa đường. Đến ngã ba nọ, trước khi chia tay, anh chỉ xuống cặp ray đường tầu điện chạy sát vỉa hè và bảo tôi cứ bám theo đó mà đi là đến.
Sụp mũ cối xuống, dựng cổ áo lên, tôi lần sâu vào trong màn mưa phùn mờ mỏng dưới trời đêm lạnh buốt. Hai vệt ray loáng ướt, chẳng khác nào một lối mòn độc đạo xuyên qua rừng rậm nhà cửa tối đen. Thành phố chiến tranh như bên bờ vực, hun hút hoang vắng. Tôi cắm cúi bước, thui thủi, tê dại. Thăm thẳm nối nhau những chặng đường khuya không ánh sáng đèn, không một bóng bộ hành, không bóng một hàng quán. Hơi thở lạnh ngắt của đêm mưa ngấm vào tận cái dạ dày tôi trống rỗng. Các khớp xương cóng nhức cứng đơ như đang rời cả ra và rơi rụng. Cơn sốt âm ỉ từ chiến trường dâng lên dọc sống lưng, tôi sởn gai ốc, và không ngớt rùng mình. Đầu óc chậm chạp chung chiêng, đầu gối những muốn khuỵu xuống. Đi chưa được mấy đường, tôi đã bắt đầu đếm bước. Màn đêm ướt át như đông lại. Không nhìn thấy gì trước mắt, suýt nữa thì tôi đã xô người tới va mặt vào một cái đầu tầu điện đen ngòm đậu chết cứng giữa lòng đường.
Chuệnh choạng, tôi rẽ lên vỉa hè, rồi lảo đảo tấp vào dưới mái hiên một ngôi nhà. Răng va lập cập trong miệng, tôi tựa lưng vào cánh cửa đóng chặt, rồi từ từ trượt người xuống, ngồi phệt lên cái bậc tam cấp ướt đẫm hơi mưa và lạnh như một cây nước đá. Rét mướt buốt tim, tôi rên hừ hừ và rồi cũng không rên nổi nữa. Cũng không sao ghìm lại được cơn run, cứ run bắn lên, run cầm cập. Thân nhiệt của mình lúc này có lẽ chỉ còn bằng với người đang ngắc ngoải, cái đầu đã tê cóng của tôi lờ đờ nghĩ, không khéo mà khốn đến nơi rồi, không khéo mà là một cơn ác tính. Những người bị sốt rét ác tính nằm chết trên võng giữa rừng sâu, còn mình thì chết ngồi, chắc thế, và sẽ hoá thành tảng đá co ro trước cửa nhà người ta.
Trên đầu tôi, mái tôn rách nát run bần bật. Dưới vẫn mưa gió. Gió phả mưa vào tận thềm. Đã ướt lại ướt thêm một lượt nữa, tôi thở hắt, mặt mày xây xầm. Biết là cần phải dốc toàn lực bình sinh mà đứng dậy và bước đi, song hết rồi, nghị lực đã tê bại. Sinh lực xuống nhanh như mực nước trong một cái bình bị đập vỡ đáy, sự sống trong tôi xoay tròn một vòng và từ từ, lặng lẽ lật nghiêng. Đúng khi đó, sau lưng tôi, cửa kẹt mở. Tôi nghe thấy nhưng mà không ý thức được tiếng động ấy. Cơn choáng ngất gần như là một nỗi yếu mềm, một sự buông lơi, như thể một tiếng thở phào, nhẹ nhàng ru tôi ra khỏi tôi…
(Lược đoạn cuối: Nhân vật tôi sau khi ngã khuỵu được cô gái trong ngôi nhà có bậc tam cấp, cạnh đường ray xe điện có cái đầu tàu điện đang đứng, chăm sóc. Anh tỉnh dậy, chưa kịp hàn huyên bao nhiêu thì máy bay B52 Mỹ đánh Hà Nội, cả hai chạy đến hầm trú ẩn công cộng tránh bom trong đêm. Chưa đến được hầm trú ẩn, họ bị kẹt giữa đường, máy bay gầm rú trên bầu trời cắt bom rải thảm, cả hai nằm sát vào nhau giữa làn mưa bom, nhân vật tôi quay mình che chở cho cô gái. Bom đánh trúng hầm trú ẩn công cộng, nhân vật tôi giục cô gái về nhà còn anh đến hầm trú bom công cộng cùng giúp cứu người. Sáng hôm sau, anh trở về tìm lại ngôi nhà, nơi có cô gái từng cứu anh, nhưng không tìm ra nhà có bậc tam cấp đều giống nhau còn dấu hiệu duy nhất để nhận biết vị trí là đầu tàu điện đã di chuyển. Trở về sau chiến tranh, có dịp ghé Hà Nội nhân vật tôi cũng chỉ một lối mòn xe điện ấy để đi.)
(Trích Khắc dấu mạn thuyền, Bảo Ninh, Nguồn https:// kilopad.com/Tieu-thuyet-truyen-ngan-c197/doc-sach-truc-tuyen-khac-dau-man-thuyen-b9317)
Câu 1: Xác định ngôi kể của người kể chuyện.
Câu 2. Lí do nhân vật tôi ghé vào thành phố Hà Nội là gì?
Câu 3: Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ liệt kê trong các câu văn sau: Thành phố chiến tranh như bên bờ vực, hun hút hoang vắng. Tôi cắm cúi bước, thui thủi, tê dại. Thăm thẳm nối nhau những chặng đường khuya không ánh sáng đèn, không một bóng bộ hành, không bóng một hàng quán. Hơi thở lạnh ngắt của đêm mưa ngấm vào tận cái dạ dày tôi trống rỗng.
Câu 4. Vẻ đẹp của người lính lái xe trong đoạn trích trên?
Câu 5. Thông điệp nào trong đoạn trích có ý nghĩa đối với anh/chị? Vì sao?
- VIẾT. ( 6.0 điểm)
Câu 1. ( 2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận ( Khoảng 200 chữ) làm rõ đặc điểm về cảm xúc của nhân vật trữ tình trong đoạn văn bản sau:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tỉnh trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
Câu 2. ( 4 điểm) Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ của anh(chị) về việc cần phải làm gì để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
……………Hết!……………
HƯỚNG DẪN CHẤM.
MÔN NGỮ VĂN, LỚP 11
Phần | Câu | Nội dung | Điểm |
I | ĐỌC HIỂU | 4.0 | |
|
1 | – Ngôi kể của người kể chuyện: Ngôi thứ nhất | 0.5 |
2 | Để gửi thư cho đồng đội
Hướng dẫn chấm: – Trả lời tương đương như đáp án đảm bảo : 0,5 điểm. – Trả lời được nửa số ý: 0,25 điểm – Trả lời không đúng hoặc không trả lời: 0,0 điểm. |
0.5 | |
3 | – Biện pháp tu từ liệt kê: không ánh sáng đèn, không một bóng bộ hành, không bóng một hàng quán
– Tác dụng: + Nhấn mạnh sự hoang tàn của thành phố trong chiến tranh + Làm tăng tính liên kết chặt chẽ giữa các câu trong đoạn
|
1.0 | |
4 | Vẻ đẹp của người lính lái xe trong đoạn trích trên:
-Anh là người biết trân trọng quá khứ. -Anh là người lính nhiệt tình, biết hy sinh lợi ích cá nhân vì đồng đội: + Có cơ hội về Hà Nội nhưng anh không về thăm quê, chỉ xin được “rảo vào phố để rải non chục lá thư của anh em đồng đội người Hà Nội đã gửi gắm”. Hướng dẫn chấm: – Trả lời tương đương như đáp án hoặc đảm bảo 2 ý : 1,0 điểm. – Trả lời đảm bảo được một nửa số ý: 0,5 điểm. – Trả lời không đúng hoặc không trả lời: 0,0 điểm. * Lưu ý: Học sinh có thể trả lời khác đáp án nhưng thuyết phục, diễn đạt nhiều cách miễn hợp lý là chấp nhận được. |
1.0 | |
5 | Học sinh rút ra thông điệp và giải thích hợp lí
-Gợi ý: +Trân trọng quá khứ +Biết hy sinh vì người khác +Biết ơn những người đã hy sinh cho đất nước Hướng dẫn chấm: -Trả lời tương đương như đáp án: 1,0 điểm. – Trả lời không thuyết phục hoặc không trả lời: 0,0 điểm. * Lưu ý: Học sinh có thể trả lời khác đáp án nhưng thuyết phục, hợp lý là chấp nhận được.
|
1.0 | |
II | VIẾT | 6,0 | |
|
1 | Viết đoạn văn nghị luận ( Khoảng 200 chữ) làm rõ đặc điểm về cảm xúc của nhân vật trữ tình trong đoạn trích Từ ấy – Tố Hữu | 2.0 |
a. Xác định được về hình thức, dung lượng của đoạn văn ( khoảng 200 chữ). Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng- phân- hợp; song hành hoặc móc xích. | 0.25 | ||
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: đặc điểm về cảm xúc của nhân vật trữ tình | 0.25 | ||
c.Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề cần nghị luận.
Xác định được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề cần nghị luận, sau đây là một số gợi ý: cảm xúc vui sướng, sự nhiệt huyết, yêu đời, cảm thông và quyết tâm lan tỏa tình yêu, chân lý đến với mọi người và cùng nhau vượt qua khó khăn trong cuộc sống…. |
0.5 | ||
d. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu sau:
– Lựa chọn được thao tác lập luận, phương thức biểu đạt hợp lý để triển khai vấn đề. – Trình bày rõ quan điểm và hệ thống ý. – Lập luận chặt chẽ, thuyết phục, lí lẽ xác đáng, bằng chứng hợp lý. |
0.5 | ||
e. Chính tả, ngữ pháp
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt. |
0.25 | ||
g. Sáng tạo: Bài viết có giọng điệu riêng; cách diễn đạt sáng tạo, văn phong trôi chảy. | 0.25 | ||
2
|
Trình bày suy nghĩ của anh(chị) về việc cần phải làm gì để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. | 4.0 | |
a. Đảm bảo đúng kiểu bài văn nghị luận xã hội | 0.25 | ||
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. | 0.5 | ||
– Giải thích: Bản sắc văn hóa dân tộc là tập hợp các giá trị văn hóa, thứ tự xã hội, quan niệm, tập quán, truyền thống, ngôn ngữ và đặc điểm nghệ thuật đặc trưng cho một nhóm người cụ thể hoặc một cộng đồng dân tộc. Bản sắc văn hoá dân tộc mang là biểu hiện của tính cách, tâm hồn, tư tưởng và lối sống của dân tộc.
– Vì sao phải việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc: + Trong thời đại hiện nay, khi mà thế giới đang hội nhập về kinh tế, văn hóa và nhiều lĩnh vực khác, việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trở nên vô cùng quan trọng. + Việt Nam là một đất nước với nhiều dân tộc, với các giá trị văn hóa đặc trưng riêng của từng dân tộc, tạo nên nét đẹp và sức hấp dẫn riêng của văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, với sự phát triển của xã hội, nhiều giá trị văn hóa đang dần bị lãng quên hoặc bị xóa bỏ để thích nghi với những môi trường mới. – Giải pháp để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc: + Chúng ta cần hiểu rõ những giá trị cốt lõi, đặc trưng của từng dân tộc và quyết tâm bảo vệ và phát huy những giá trị này. + Chúng ta cần phải thực hiện đúng các chính sách và biện pháp của Nhà nước trong việc bảo vệ và phát triển văn hóa dân tộc. Các cơ quan quản lý văn hóa cần có trách nhiệm đưa ra các giải pháp cụ thể và hiệu quả; người dân cũng cần tham gia và đóng góp công sức vào việc tuyên truyền nhằm gìn giữ và phổ biến những giá trị văn hoá của dân tộc Việt Nam đến bạn bè quốc tế. + Giáo dục những giá trị văn hóa đặc trưng của dân tộc, giúp các thế hệ trẻ hiểu biết và yêu thương văn hóa của mình; cần củng cố và phát triển các hoạt động văn hóa, giao lưu văn nghệ để những nét đẹp ấy không bị mai một theo thời gian. – Phản bác quan điểm trái chiều về việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc: + Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc không đồng nghĩa với việc quay lưng với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, cần tiếp thu có chọn lọc trên tinh thần hòa nhập nhưng không hòa tan. + Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cần chú trọng vào những giá trị cốt lõi làm nên linh hồn dân tộc và thực hiện bằng những chương trình kế hoạch cụ thể mang tầm vóc của quốc gia. + Giữ gìn giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa địa phương qua các thời kì góp phần tạo nên bức tranh tổng thể của bản sắc văn hóa dân tộc. – Ý nghĩa của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc: + Bản sắc văn hoá dân tộc còn giúp chúng ta gắn kết với cộng đồng, tạo sự đồng nhất và nhận thức được văn hóa của mình. Việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc cũng đòi hỏi sự chấp nhận và tôn trọng của toàn xã hội. Đây là một quá trình phát triển và bảo tồn liên tục, yêu cầu sự đồng hành của cả xã hội. + Việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc để bảo tồn di sản văn hóa, đóng góp vào sự đa dạng văn hóa toàn cầu, và giúp con người xác định danh tính cá nhân; thúc đẩy sự hiểu biết và tôn trọng đa dạng văn hóa trong xã hội toàn cầu ngày nay. – Bài học nhận thức và hành động: + Chúng ta cần phát huy những giá trị văn hóa đặc trưng của dân tộc, tôn trọng và bảo vệ những di sản văn hóa cổ truyền, phát huy những giá trị văn hóa đặc trưng của từng dân tộc. + Hành động tích cực hiện thực hóa khát vọng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. |
|||
d. Viết bài văn đảm bảo các yêu cầu sau:
– Học sinh lựa chọn được 2 luận điểm để bày tỏ được quan điểm của cá nhân. – Lựa chọn được thao tác lập luận, phương thức biểu đạt hợp lý để triển khai vấn đề. – Trình bày rõ quan điểm và hệ thống ý. – Lập luận chặt chẽ, thuyết phục, lí lẽ xác đáng, bằng chứng hợp lý. Lưu ý: Học sinh có thể bày tỏ quan điểm của cá nhân nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật. |
1.5 | ||
e. Chính tả, ngữ pháp
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt, liên kết bài văn |
0.25
|
||
g Sáng tạo: Bài viết có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận, có cách diễn đạt mới mẻ. | 0.5
|
||
Tổng điểm | 10.0 |