Đề minh hoạ môn văn theo cấu trúc thi tốt nghiệp 2025, đề số 91

ĐỀ THAM KHẢO THEO CẤU TRÚC CỦA BỘ GD&ĐT

 PHẦN ĐỌC HIỂU (4.0 điểm)

    Đọc đoạn trích sau:

Miền cỏ thơm

(1) Có lần vào cuối đông, tôi ngồi trong trại viết của Hội Nhà văn ở Quảng Bá và nhìn ra con đê sông Hồng xanh ngun ngút những cỏ kéo dài xuống những cánh đồng vùng “Yên Phụ” mịt mùng trong màu mưa bụi xám, tôi chợt nhớ đến một câu thơ của Nguyễn Trãi nói về nỗi tâm đắc với cỏ ở Hà Nội: “Hoa thường hay héo cỏ thường tươi”. Tôi nghiệm ra rằng cái thế thích chí nhất của cỏ chính là những triền đê. Ở đó, cỏ nghiễm nhiên thay thế vai trò của mọi loài hoa trên trái đất. Có lẽ ngày xưa trong một chức quan rỗi việc, Nguyễn Trãi đã có nhiều lần buông lỏng cương ngựa đi dọc triền đê này để ngắm vẻ đẹp của cỏ. Nhưng đã có mấy ai được ngắm thỏa thích màu xanh tươi của cỏ dọc thân đê giống như tôi trong buổi sáng mùa xuân ngày ấy. Vả Hà Nội vẫn là mái phố dài trải ra dưới những cây cao (như cây sấu) với những khách bộ hành đi trên vỉa hè. Nghĩa là còn lại Huế là một cố đô mang linh hồn của cỏ.

(2) Mùa xuân có thể định nghĩa là mùa mà toàn bộ cây nở thành hoa. Những ngọn đồi phía tây nam Huế bừng lên trong hương hoa cỏ, khiến người ta không thể ngồi yên cúi mặt lên trang sách. Hương cỏ tràn vào thành phố, như gần như xa, khiến tôi nghĩ rằng ở đâu đấy trên những sườn đồi, cánh cửa của vườn Địa Đàng đang mở ra, hoặc những nàng tiên đang múa hát dưới những gốc đào nở hoa, với mùi hương bát ngát như thể mùi tóc bay trong những chiều gió. Cỏ mọc ven những con đường trong thành phố, trên đó lưa thưa những chòm cây dại, như cây hoa ngũ sắc cười sặc sỡ dọc đường thơ ấu của tôi. […] Ôi! tôi muốn làm Liệt Tử cưỡi gió mà đi khắp nơi trên thành phố kinh xưa của tôi, thành phố nằm phơi mình giữa non xanh nước biếc, tỏa rộng linh hồn vô ưu thênh thênh trong hương cỏ.

(3) Mùa xuân về, mặt đất công viên sáng bừng lên bởi ngàn vạn bông cỏ tím, mỗi bông cỏ lại ngậm trong lòng một hạt sương mai khiến vào buổi sáng sớm, cỏ ở ven sông Hương lấp lánh như những hạt ngọc. Những cô sinh nữ từng rủ nhau ra đấy ngồi chơi trên vạt cỏ; lâu ngày tâm hồn họ nhiễm phải căn bệnh trầm uất, sinh ra bởi những bụi phấn tím của bông cỏ mùa xuân. Một chút u hoài đã kết tinh trong đôi mắt khiến từ đó họ trở nên dè chừng với những cuộc vui trong đời, và dưới mắt họ, những trò quyến rũ đối với thế nhân tự nhiên nhuốm chút màu ảm đạm của cái mà bà Huyện Thanh Quan khi xưa gọi là “hý trường”.1

(4) Mùa xuân, tự nhiên tôi muốn gác hết mọi việc bận rộn để lên rong chơi trên những đồi cỏ gần vùng mộ Vua. Ở đó tôi có thể nằm ngửa mặt trên cỏ, ngước mắt nhìn chùm hoa lê nở trắng muốt trên cao. Tôi đã tìm đến định sống ở nhiều đô thị bắc nam; ở đó tôi có thể tìm thấy mọi cái cần cho cuộc sống của tôi, chỉ thiếu một cái mà tôi không chịu nổi, là thiên nhiên.

(5) Mùa hạ, trong những khu vườn Huế, khí đất xông lên hùng mạnh, cỏ mọc xanh lạ thường. Trái cây sắp chín nằm chờ trên cành, và khắp đây đó trong vùng Kim Long, khói đốt cỏ tỏa ra mịt mùng xanh mờ một vùng ven sông. Trên một chiếc bình phong cổ khuất trong cây lá của một khu sân vắng vẻ còn dấu chạm lỗ chỗ của một câu đối nói đến những bầy chim nhạn thường về đậu kêu om sòm trên bãi sông Hương trước mặt nhà. Tôi lớn lên không hề thấy bóng chim nhạn ven sông này. Chắc cũng giống như lũ côn trùng kia, chúng đã di trú về một vùng đất nào yên tĩnh hơn. Nhưng liệu có nơi nào gọi là “yên tĩnh hơn” trên hành tinh này. Hình như càng ngày nó càng trở nên ồn ào hơn xưa; và đó cũng là lỗi của chúng ta đã tước đoạt “quyền yên tĩnh” của thế hệ trẻ ngày mai. Mùa thu trời trở gió heo may lành lạnh làm người ta tự nhiên thấy nhớ nhung một quê hương nào không biết. Vào mùa này, các văn nhân thường mở hội leo núi, mang theo túi thơ bầu rượu lên các đỉnh núi cao mừng tiết “Trùng Cửu”. Núi đó có thể là núi Ngự Bình, núi Kim Phụng hoặc những rừng thông vùng đồi Thiên An, và văn nhân có thể là Bà Huyện Thanh Quan, Tuy Lý Vương, Hàn Mặc Tử. Những văn nhân ngồi uống rượu trên đầu núi, nghe tiếng chuông chùa thánh thót trên thành phố dầm mình trong sương khói; đi thăm núi trở về, băng qua sườn đồi, vó ngựa còn thơm nồng hương cỏ, gọi lũ bướm bay theo. Thơ Tuy Lý Vương nói: “Minh triêu sất mã sơn đầu quá – Ngọa thính tùng thanh ức ngã sầu”2

 […]

Huế 4.8.200

H.P.N.T

(Trích Miền cỏ thơm, Hoàng Phủ Ngọc Tường,

                                               Tạp chí sông Hương số 179-180/01&02-04, 07/07/2009)

—————-

1: Nơi biểu diễn các loại hát nghệ thuật sân khấu, rạp hát.

2: Sáng mai ruỗi ngựa lên đầu núi – nghe thông reo chợt nhớ ta buồn

Thực hiện yêu cầu:

Câu 1. (0.5 điểm) Xác định đề tài của đoạn trích trên.

Câu 2. (0.5 điểm) Trong đoạn (2), nhân vật tôi đã bày tỏ ước muốn gì?

Câu 3. (1.0 điểm) Việc tác giả huy động kiến thức văn hóa tổng hợp khi viết bài kí Miền cỏ thơm có tác dụng gì?

Câu 4. (1.0 điểm) Cảm xúc của nhân vật tôi thể hiện như thế nào trong đoạn trích?

Câu 5. (1.0 điểm) Từ tâm sự: Tôi đã tìm đến định sống ở nhiều đô thị bắc nam; ở đó tôi có thể tìm thấy mọi cái cần cho cuộc sống của tôi, chỉ thiếu một cái mà tôi không chịu nổi, là thiên nhiên, anh/chị có suy nghĩ gì về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên?

PHẦN VIẾT (6.0 điểm)

Câu 1. (2.0 điểm)

Viết một đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế qua miền kí ức của tác giả trong văn bản trên.

Câu 2.(4.0 điểm)

Em hãy viết một bài văn nghị luận(khoảng 600 chữ) bàn về ý nghĩa của sự đồng cảm đối với mỗi người trong cuộc sống hiện nay.

 

 

ĐÁP ÁN

Phần Câu Nội dung Điểm
I   ĐỌC HIỂU 4.0
 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

1 Đề tài của đoạn trích:

Thiên nhiên và con người xứ Huế

– Hướng dẫn chấm:

+ Học sinh trả lời đầy đủ như đáp án: 0.5 điểm

+Học sinh trả lời sai: 0.0 điểm

0.5
2 Trong đoạn (2), nhân vật tôi bày tỏ ước muốn: làm Liệt Tử cưỡi gió mà đi khắp nơi trên thành phố kinh xưa của tôi.

– Hướng dẫn chấm:

+ Học sinh trả lời đầy đủ như đáp án: 0.5 điểm.

+ Học sinh trả lời sai: 0.0 điểm.

0.5
3 Việc tác giả huy động kiến thức văn hóa tổng hợp khi viết bài kí có tác dụng:

– Cung cấp những thông tin xác thực về thiên nhiên xứ Huế.

– Thể hiện cái nhìn tinh tế của tác giả khi khám phá vẻ đẹp của hoa cỏ xung quanh mình.

– Là yếu tố làm nên sức hấp dẫn của bút kí.

– Hướng dẫn chấm:

+ Học sinh trả lời đầy đủ như đáp án: 1.0 điểm

+ Học sinh trả lời đúng 02 ý: 0.75 điểm

+ Học sinh trả lời đúng 01 ý: 0.5 điểm

+ Học sinh trả lời sai: 0.0 điểm

1.0
4 Cảm xúc của nhân vật tôi được thể hiện:

– Tình yêu, sự nâng niu với vẻ đẹp của thiên nhiên, của quê hương xứ sở.

– Gắn bó sâu nặng, tự hào với mảnh đất và văn hóa Huế.

– Hướng dẫn chấm:

+ Học sinh trả lời đầy đủ như đáp án: 1.0 điểm

+ Học sinh trả lời đúng 01 trong 02 ý: 0.5 điểm

+ Học sinh trả lời sai: 0.0 điểm

1.0
5 – Học sinh nêu được mối quan hệ giữa thiên nhiên với con người.

– Nội dung trình bày đảm bảo tính logic, thuyết phục, hợp tình, hợp lí.

– Học sinh có thể trình bày theo một số ý sau:

+ Con người không thể tách rời khỏi thiên nhiên, thiên nhiên là một phần của cuộc sống.

+ Thiên nhiên, con người cần có mối quan hệ hài hòa, gắn bó.

– Hướng dẫn chấm:

+ Học sinh trả lời hợp lí, thuyết phục: 1.0 điểm

+ Học sinh trả lời không hợp lí, không thuyết phục: 0.0 điểm

1.0
II   VIẾT 6.0
1 Viết một đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế qua miền kí ức của tác giả trong văn bản trên.  
a. Xác định được đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng đoạn văn 0.25
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế qua miền kí ức của tác giả 0.25
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận:

* Giới thiệu tác giả, tác phẩm và đoạn trích.

* Phân tích:

– Vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế qua miền kí ức của tác giả: mộc mạc, bình dị, tràn đầy hương sắc, sức sống; mang đặc trưng xứ Huế – “mang linh hồn của cỏ”.

– Cái tôi trữ tình của tác giả: cái tôi giàu cảm xúc, giàu tình yêu gắn bó với thiên nhiên, xứ Huế.

– Những suy tư về cuộc sống, về thiên nhiên, về chiều sâu của văn hóa Huế.

1,25
d. Chính tả, ngữ pháp

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.

* Hướng dẫn chấm: Không cho điểm nếu bài làm có quá nhiều lỗi chính tả, ngữ pháp.

0.25
  2 Em hãy viết một bài văn nghị luận(khoảng 600 chữ) bàn về ý nghĩa của sự đồng cảm đối với mỗi người trong cuộc sống hiện nay.  
    a. Xác định được yêu cầu  của kiểu bài: Nghị luận xã hội 0.25
    b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: Ý nghĩa của sự đồng cảm đối với mỗi người trong cuộc sống hiện nay. 0.25
    c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận:

– Xác định được ý chính của bài viết.

– Sắp xếp các ý theo bố cục hợp lí:

* Ý nghĩa

– Đồng cảm: Là biết rung cảm trước những vui buồn, nỗi khó khăn, bất hạnh……. của người khác, đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để hiểu và cảm thông với họ.

Với bản thân:

+ Đem lại cảm giác vui vẻ lạc quan, yêu thương, quan tâm mọi người; thúc đẩy hành động cụ thể giúp đỡ, chia sẻ người gặp khó khăn bất hạnh bằng vật chất, tinh thần.

+ Hình thành lối sống nhân ái, vị tha, bồi dưỡng tâm hồn, làm nên giá trị sống, nhân cách con người. Khiến mọi người yêu quý trân trọng

– Với mọi người

+ Đem lại niềm vui, động lực vượt khó cho người nhận

+ Phát huy truyền thống đạo lý của dân tộc: tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách…

+ Lan tỏa năng lượng sống tích cực, nhân rộng tấm gương người tốt việc tốt, góp phần xây dựng xã hội nhân ái văn minh….

* Liên hệ bản thân

2,75
    d. Diễn đạt

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt.

0.25
    e. Sáng tạo: Bài viết có giọng điệu riêng; cách diễn đạt sáng tạo, văn phong trôi chảy, cách dùng từ độc đáo. 0.5

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *