Đề đọc hiểu và nghị luận về truyện Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư

ĐỌC – HIỂU (6,0 điểm)

Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu:

(1) Con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng rộng. Và khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hung hãn dường như cũng gom hết nắng đổ xuống nơi này. Những cây lúa chết non trên đồng, thân đã khô cong như tàn nhang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn. Cha tôi tháo cái khung tre chắn dưới sàn ghe, bầy vịt lúc nhúc chen ra, cuống quýt, nháo nhào quẫy ngụp xuống mặt nước váng phèn. Một lớp phèn mới, vàng sẫm quánh lại trên bộ lông của những con vịt đói, nhớp nháp bám trên vai Điền khi nó trầm mình bơi đi cặm cọc, giăng lưới rào bầy vịt lại. Tôi bưng cái cà ràng lên bờ, nhóm củi.

(2) Rồi ngọn lửa hoi hót thở dưới nồi cơm đã lên tim, người đàn bà vẫn còn nằm trên ghe. Ngay cả ý định ngồi dậy cũng xao xác tan mau dưới những tiếng rên dài. Môi chị sưng vểu ra, xanh dờn. Và tay, và chân, và dưới cái áo mà tôi đã đắp cho là một cái áo khác đã bị xé tả tơi phơi những mảng thịt người ta cấu nhéo tím ngắt.

(3) Và những chân tóc trên đầu chị cũng đang tụ máu. Người ta đã lòn tay, ngoay chúng để kéo chị lê lết hết một quãng đường xóm, trước khi dừng chân một chút ở nhà máy chà gạo. Họ giằng ném, họ quăng quật chị trên cái nền vương vãi trấu. Vai nữ chính, một người đàn bà xốc xếch đã lạc giọng, đôi lúc lả đi vì ghen tuông và kiệt sức. Nhưng đám đông rạo rực chung quanh đã vực tinh thần chị ta dậy, họ dùng chân đá vi vào cái thân xác tả tơi kia bằng vẻ hằn học, hả hê, quên phứt vụ lúa thất bát cháy khô trên đồng, quên nỗi lo đói no giữa mùa giáp hạt. Cuộc vui hẳn sẽ dài, nếu như không có một ý tưởng mới nảy ra trong cơn phấn khích. Họ dùng dao phay chạt mái tóc dày kia, dục dặc, hì hục như phạt một nắm cỏ cứng và khô. Khi đuôi tóc dứt lìa, được tự do, chị vùng dậy, lao nhanh xuống ghe chúng tôi như một tiếng thét, lăn qua chân tôi, đến chỗ cha, làm đổ những bao trấu cha vừa mới xếp.

(4) Đám người ngơ ngác mấy giây để chấp nhận việc con mồi bỏ chạy. Tôi mất mấy giây để háo hức thấy mình nghĩa hiệp như Lục Vân Tiên, tôi lồm cồm xô ghe dạt khỏi bờ, sợ hãi và sung sướng, tôi cầm sào chống thục mạng ra giữa sông, mắt không rời đám người đang tràn ra mé bờ chực lao xuống, nhảy nhót điên cuồng. Rồi tiếng chửi rủa chói lói chìm đi, tiếng bầy vịt tao tác kêu dưới sạp chìm đi, trong tôi chỉ có âm thanh của chiếc máy Koler4 nổ khan, rung bần bật dưới tay Điền, khạc ra những đám khói khét lẹt, đen ngòm. Khói trôi về phía sau chúng tôi, mờ nhoè những bóng người đang tuyệt vọng ngó theo, bàn tay nào đó cầm nắm tóc của chị vẫy lên phơ phất phơ phất …

(5) Cha tôi không đóng vai trò gì trong cuộc tháo chạy ấy, ông im lặng, khi đã đi khá xa, cha ra đằng mũi cầm sào. Tôi bò vào trong ghe, lấy áo đắp lên người chị, sao cho che được đôi vú rách bươm và khoảng đùi rướm máu. Chị cười mếu máo, nói cảm ơn bằng mắt và thiếp đi.

(6) Suốt một quãng đường, chị không hề thay đổi thế nằm, im lìm, lạnh ngắt như người chết. Trong ghe chỉ trôi mênh mang những tiếng rên khi dài, khi ngắn, khi thiu thỉu buồn xo, lúc nghe như tiếng nấc nghẹn ngào…

(7) Nhờ vậy mà chúng tôi biết chị còn sống, để đi với chúng tôi gần hết con sông Bìm Bịp, đến cánh đồng hoang vắng này. Điền hơi lo lắng khi nghe chị vẫn còn rên rỉ, nghĩ là chị đã đói, nó hối tôi nấu cơm mau. Nó thấy tiếc vì trên ghe chỉ còn mấy con khô sặt mặn chát, “tui nuốt còn không vô, nói chi…”

 

(Nguyễn Ngọc Tư, Cánh đồng bất tận, trang 1, NXB Trẻ, 2014)

Chú thích

  1. Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976 tại Đầm Dơi, Cà Mau. Là nữ nhà văn trẻ của Hội nhà văn Việt Nam. Với niềm đam mê viết lách, chị miệt mài viết như một cách giải tỏa và thể nghiệm, chị biết rằng chị muốn viết về những điều gần gũi nhất xung quanh cuộc sống của mình. Giọng văn chị đậm chất Nam bộ, là giọng kể mềm mại mà sâu cay về những cuộc đời éo le, những số phận chìm nổi. Cái chất miền quê sông nước ngấm vào các tác phẩm, thấm đẫm cái tình của làng, của đất, của những con người chân chất hồn hậu nhưng ít nhiều gặp những bất hạnh.
  2. Tập truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” được xuất bản năm 2005. Trong đó, truyện vừa “Cánh đồng bất tận”được đứng đầu trong một cuộc bình chọn truyện ngắn đặc sắc trên báo Văn nghệ. Vào năm 2006, tập truyện đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Namdành cho tác phẩm xuất sắc. Năm 2007, tác phẩm được dịch ra tiếng Hàn và được nhà xuất bản Asia tại Seoul phát hành

 

Đề 1: Trắc nghiệm + Tự luận

Lựa chọn đáp án đúng ( Mỗi câu 0.5 điểm):

Câu 1. Câu chuyện trong đoạn trích được kể qua điểm nhìn của người kể chuyện ở ngôi thứ mấy?

  1. Ngôi thứ nhất
  2. Ngôi thứ hai
  3. Ngôi thứ 3.
  4. Cả ngôi thứ nhất và ngôi thứ 3

Câu 2. Chỉ ra đặc điểm của ngôn ngữ nói trong câu văn sau: Nó thấy tiếc vì trên ghe chỉ còn mấy con khô sặt mặn chát, “tui nuốt còn không vô, nói chi…”

  1. Sử dụng từ ngữ mang tính khấu ngữ
  2. Sử dụng câu tỉnh lược
  3. Sử dụng cách phát âm địa phương
  4. Sử dụng biệt ngữ

Câu 3. Trong đoạn trích, tác giả đã miêu tả không gian, thời gian nào?

  1. Mùa hè bỏng rát như đổ lửa bên một xóm nghèo nhỏ nơi có con kinh nhỏ chạy qua một cánh đồng rộng
  2. Mùa hạn hung hãn dường như cũng gom hết nắng đổ xuống xóm nghèo nơi con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng rộng
  3. Mùa hè rực lửa, nắng như thiêu như đốt trên cánh động rộng mênh mông những thân lúa khô cong
  4. Mùa hạn hung hãn dường như cũng gom hết nắng đổ xuống cánh động rộng mênh mông những thân lúa khô cong

Câu 4. Sự việc chính nào được kể lại trong đoạn văn dưới đây?

Và những chân tóc trên đầu chị cũng đang tụ máu. Người ta đã lòn tay, ngoay chúng để kéo chị lê lết hết một quãng đường xóm, trước khi dừng chân một chút ở nhà máy chà gạo. Họ giằng ném, họ quăng quật chị trên cái nền vương vãi trấu. Vai nữ chính, một người đàn bà xốc xếch đã lạc giọng, đôi lúc lả đi vì ghen tuông và kiệt sức. Nhưng đám đông rạo rực chung quanh đã vực tinh thần chị ta dậy, họ dùng chân đá vi vào cái thân xác tả tơi kia bằng vẻ hằn học, hả hê, quên phứt vụ lúa thất bát cháy khô trên đồng, quên nỗi lo đói no giữa mùa giáp hạt. Cuộc vui hẳn sẽ dài, nếu như không có một ý tưởng mới nảy ra trong cơn phấn khích. Họ dùng dao phay chạt mái tóc dày kia, dục dặc, hì hục như phạt một nắm cỏ cứng và khô. Khi đuôi tóc dứt lìa, được tự do, chị vùng dậy, lao nhanh xuống ghe chúng tôi như một tiếng thét, lăn qua chân tôi, đến chỗ cha, làm đổ những bao trấu cha vừa mới xếp.

  1. Người đàn bà bị đánh đập, tra tấn dã man bởi một người đàn bà khác vì ghen tuông
  2. Người đàn bà bị một nhóm người đán đập, tra tấn dã man
  3. Người đàn bà bị hành hạ bằng một trận đòn ghê rợn
  4. Nỗi đau của người đàn bà phải chịu đựng do bị tra tấn dã man

Câu 4. Chỉ rõ sự thay đổi nhìn của người kể chuyện ở đoạn (2) với đoạn (3), (4)

  1. Từ điểm nhìn của nhà văn chuyển sang điểm nhìn của nhân vật
  2. Từ điểm hiện của hiện tại, người kể chuyện hồi cố về quá khứ
  3. Từ quá khứ, người kể chuyện quay về với thực tại rồi lại quay trở về quá khứ
  4. Từ điểm nhìn của nhân vật tôi chuyển sang điểm nhìn của người đàn bà

Câu 5. Thái độ của người kể chuyện đối với nhân vật người đàn bà bị đánh đập, tra tấn

  1. Người kể chuyện tỏ tạo khoảng cách, tỏ thái độ lạnh lùng, nghiêm khắc đối với nhân vật người đàn bà
  2. Người kể chuyện bày tỏ thái dộ vồn vã, lo lắng đối với người đàn bà
  3. Người kể chuyện bày tỏ thái độ đồng cảm, xót xa đối với người đàn bà
  4. Người kể chuyện bày tỏ thái độ yêu thương, quan tâm đối với người đàn bà

Câu 6. Việc lựa chọn điểm nhìn trần thuật trong văn bản có ý nghĩa gì?

  1. Giúp nhà văn có cái nhìn chân thực, đầy đủ, cụ thể về số phận của con người.
  2. Giúp nhà văn có cái nhìn khách quan, toàn diện về số phận con người.
  3. Giúp nhà văn có điều kiện để trò chuyện với nhân vật của mình.
  4. Giúp câu chuyện trở nên hấp dẫn, sinh động.

Câu 7. Cách tổ chức truyện kể có hiệu quả gì?

  1. Miêu tả cụ thể hình ảnh người đàn bà bị tra tấn và sự giúp đỡ của cha con nhân vật tôi với người đàn bà
  2. Cho thấy rõ niềm đồng cảm, xót xa của nhân vật tôi trước hình ảnh người đà bà bị tra tấn, đánh đập
  3. Giúp tác giả thể hiện rõ tình cảm yêu thương, quan tâm với người đàn bà
  4. Diễn tả chân thực nỗi đớn đau của người đàn bà bị tra tấn, hành hạ, gây xúc động cho bạn đọc bởi sự đồng cảm, xót xa của nhân vật tôi.

Trả lời câu hỏi:

Câu 8 (0.5 điểm). Nhận xét về cái nhìn hiện thực của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư qua đoạn trích.

Câu 9 (1.0 điểm). Anh/chị có suy nghĩ gì về số phận con người trong trang văn của Nguyễn Ngọc Tư qua đoạn trích trên.

Câu 10 (1.0 điểm). Từ nội dung được gợi ra từ đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/ chị có cho rằng cuộc sống sẽ có những con đường cùng, điều quan trọng là chúng ta phải biết vượt qua nó không? Vì sao?

Đề 2: Tự luận

Câu 1. Xác định ngôi kể của người kể chuyện trong đoạn trích trên.

Câu 2. Trong đoạn trích truyện, tác giả đã mở ra là không gian như thế nào? Tìm 02 hình ảnh/ chi tiết miêu tả không gian đó.

Câu 3. Anh/ Chị hãy chỉ rõ sự thay đổi nhìn của người kể chuyện ở đoạn (2) với đoạn (3), (4).

 

Câu 4. Anh/ Chị hãy chỉ ra đặc điểm của ngôn ngữ nói trong câu văn sau: Nó thấy tiếc vì trên ghe chỉ còn mấy con khô sặt mặn chát, “tui nuốt còn không vô, nói chi…”

Câu 5. Anh/chị có suy nghĩ gì về số phận con người trong trang văn của Nguyễn Ngọc Tư qua đoạn trích trên.

Câu 6. Từ nội dung được gợi ra từ đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/ chị có cho rằng cuộc sống sẽ có những con đường cùng, điều quan trọng là chúng ta phải biết vượt qua nó không? Vì sao?

  1. LÀM VĂN (4,0 điểm)

Anh/chị hãy viết bài văn (khoảng 500 chữ) phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm trên.

ĐÁP ÁN

  1. ĐỌC – HIỂU

Đề 1: Trắc nghiệm + Tự luận

Phần Câu Đáp án Điểm
I 1 A 0.5
2 C 0.5
3 B 0.5
4 B 0.5
5 C 0.5
6 A 0.5
7 D 0.5
8 Cái nhìn hiện thực của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư qua đoạn trích:

– Là cái nhìn thẳng về số phận bất hạnh, đau thương, bi kịch của những người dân quê lam lũ, nghèo khổ vùng đồng bằng sông Cửu Long

– Cái nhìn ấy chứa đựng nỗi trăn trở, ưu tư, thể hiện nỗi âu lo và tình thương của nhà văn với con người.

0.5
9 Suy nghĩ gì về số phận con người trong trang văn của Nguyễn Ngọc Tư qua đoạn trích trên:

– Số phận con người qua đoạn trích là những con người nghèo khổ, khốn khó, lam lũ, thiếu thốn, sống lang bạt; những kiếp người bất hạnh, mòn mỏi, sống tù túng, không yêu thương, không hy vọng

– Số phận con người là kết tinh tình yêu thương, nỗi âu lo của tác giả song đồng thời thể hiện niềm tin vào cuộc sống không có những thù hận, thương đau.

– Qua những thân phận bất hạnh, người đọc càng thấu hiểu, cảm thương và tin tưởng vào tương lai của những người dân nghèo.

1.0
10 Từ nội dung được gợi ra từ đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/ chị có cho rằng cuộc sống sẽ có những con đường cùng, điều quan trọng là chúng ta phải biết vượt qua nó không?

– HS đưa ra quan điểm của mình

– HS lí giải bằng những lí lẽ thuyết phục

– Rút ra bài học cho bản thân

1.0

Đề 2: Tự luận

Câu 1. Ngôi kể của người kể chuyện trong đoạn trích trên: ngôi thứ nhất

Câu 2.

– Trong đoạn trích truyện, tác giả đã mở ra là không gian cánh đồng mùa nắng hạn.

– 02 hình ảnh/ chi tiết miêu tả không gian đó:

+ Con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng rộng. Và khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hung hãn dường như cũng gom hết nắng đổ xuống nơi này.

+Những cây lúa chết non trên đồng, thân đã khô cong như tàn nhang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn.

Câu 3. Sự thay đổi nhìn của người kể chuyện ở đoạn (2) với đoạn (3), (4).

Từ điểm hiện của hiện tại, người kể chuyện hồi cố về quá khứ

Câu 4. Đặc điểm của ngôn ngữ nói trong câu văn: Nó thấy tiếc vì trên ghe chỉ còn mấy con khô sặt mặn chát, “tui nuốt còn không vô, nói chi…”: Sử dụng cách phát âm, từ ngữ địa phương: “tui”, “chi”.

Câu 5. Suy nghĩ gì về số phận con người trong trang văn của Nguyễn Ngọc Tư qua đoạn trích trên:

– Số phận con người qua đoạn trích là những con người nghèo khổ, khốn khó, lam lũ, thiếu thốn, sống lang bạt; những kiếp người bất hạnh, mòn mỏi, sống tù túng, không yêu thương, không hy vọng

– Số phận con người là kết tinh tình yêu thương, nỗi âu lo của tác giả song đồng thời thể hiện niềm tin vào cuộc sống không có những thù hận, thương đau.

– Qua những thân phận bất hạnh, người đọc càng thấu hiểu, cảm thương và tin tưởng vào tương lai của những người dân nghèo.

Câu 6.

– HS đưa ra quan điểm của mình

– HS lí giải bằng những lí lẽ thuyết phục

– Rút ra bài học cho bản thân

  1. LÀM VĂN
  2. Mở bài

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích

– Giới thiệu phương diện nghệ thuật của tác phẩm mà bài viết sẽ tập trung làm rõ.

  1. Thân bài

2.1. Mô tả và đánh giá cách nhà văn kiến tạo truyện (câu chuyện, cách tổ chức mạch truyện)

– Sự kiện chính là người đà bà bị đánh đập bằng những hình thức man rợ bởi một nhóm người. Tưởng chừng như chị không thể vượt lên được những đớn đau về thể xác ấy nhưng may mắn được cha con nhân vật tôi cứu vớt.

– Câu chuyện không được thuật lại theo trình tự thời gian. Truyện mở đầu bằng hình ảnh “con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng rộng” giữa mùa hạn, nắng đổ xuống khiến những thân lúa non trên cánh đồng khô cong. Nhân vật cha tôi, Điền lo đi “cặm cọc rào bầy vịt”, tôi lo nhóm lửa nấu cơm và người đàn bà đau đớn không thể trở dậy “môi chị sưng vểu ra, xanh dờn. Và tay, và chân, và dưới cái áo mà tôi đã đắp cho là một cái áo khác đã bị xé tả tơi phơi những mảng thịt người ta cấu nhéo tím ngắt”. Từ đó mạch truyện hồi cố lại sự việc trước đó cha con nhân vật tôi đã chứng kiến tận mát cảnh tượng người đà bà đã bị người ta đánh đập, hành hạ dã man như thế nào.

2.2. Chỉ ra đặc điểm của người kể chuyện trong truyện ngắn (ngôi kể, điểm nhìn)

– Đoạn trích lựa chọn ngôi kể thứ nhất, điểm nhìn từ nhân vật tôi – người trực tiếp chứng kiến toàn bộ diễn biến của câu chuyện. Chính điều này đã khiến câu chuyện được trần thuật từ điểm nhìn chủ yếu của nhân vật tôi, mọi diễn biến của câu chuyện cũng được nhìn từ điểm nhìn của tôi.

2.3. Phân tích vai trò của ngôi kể, điểm nhìn và lời trần thuật trong việc khắc họa nhân vật

– Người đàn bà:

+ Ngoại hình “môi sưng vểu ra, xanh rờn” áo bị xé “tả tơi, những mảng tím ngắt”. “Tay, và chân, và dưới cái áo mà tôi đã đắp cho là một cái áo khác đã bị xé tả tơi phơi những mảng thịt người ta cấu nhéo tím ngắt. Chân tóc trên đầu chị cũng đang tụ máu.

+ Bị đánh đập, tra tấn dã man, bị kéo “lê lết một quãng đường xóm”, bị “giằng ném” như một món đồ, bị đánh, “quăng quật” không khác gì bao trấu.

+ Bị chặt phăng mái tóc bằng một nhát dao phay

+ Đau đớn không thể trở mình nằm, im lìm, lạnh ngắt như người chết

số phận bất hạnh, nạn nhân của trận bạo hành

– Đám người nọ – là người đàn bà trong cơn ghen và nhóm người đi cùng chị

+ Họ quên cả nỗi lo toan bởi cánh đồng khô hạn ngày nắng cháy khiến những thân lúa non “khô cong như tàn nhang”.

+ “dùng chân đá vi vào cái thân xác tả tơi kia bằng vẻ hằn học, hả hê, quên phứt vụ lúa thất bát cháy khô trên đồng, quên nỗi lo đói no giữa mùa giáp hạt.

+ Dùng dao phay chặt phăng mái tóc của người đàn bà không hề thương tiếc.

Hành động tàn nhẫn, có tính chất côn đồ

– Nhân vật tôi, nhân vật người cha, nhân vật Điền, tuy xuất hiện không nhiều qua điểm nhìn của người kể chuyện nhưng có thể thấy họ đều có những mối quan tâm riêng với người đàn bà bị đánh đập ấy.

+ “Tôi” “lồm cồm xô ghe dạt khỏi bờ, sợ hãi và sung sướng, tôi cầm sào chống thục mạng ra giữa sông, mắt không rời đám người đang tràn ra mé bờ chực lao xuống, nhảy nhót điên cuồng” hao hức với hi vọng sẽ giúp đỡ được người đàn bà;

+ Người cha im lặng nhưng không hề tỏ thái độ phản đối khi tôi giúp đỡ người đàn bà;

+ Điền lo lắng, đau đớn cho những vết thương trên co thể chị.

Cảm thông, sự sẻ chia, quan tâm với người đàn bà

2.4. Đánh giá hiệu quả của nó (Chỉ ra mối liên hệ giữa người kể chuyện trong tác phẩm và nhà văn)

– Người kể chuyện có những đồng cảm, sẻ chia sâu sắc với những sự việc diễn ra xung quanh và cả người những nhân vật trong truyện.

– Đó cũng là cái nhìn lo lắng, thương xót, đớn đau của Nguyễn Ngọc Tư với những mảnh đời bất hạnh khó nghèo bị đẩy đến đường cùng. Đằng sau nỗi thương, niềm đau là sự tin tưởng vào tình người.

  1. Kết bài

Khẳng định giá trị nghệ thuật của tác phẩm truyện

 BÀI VIẾT THAM KHẢO

Nguyễn Ngọc Tư là gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam thời kì hiện đại. Với niềm đam mê viết lách, chị miệt mài viết như một cách giải tỏa và thể nghiệm. Sáng tác của chị hấp dân người đọc bởi giọng văn chị đậm chất Nam bộ, là giọng kể mềm mại mà sâu cay về những cuộc đời éo le, những số phận chìm nổi. “Cánh đồng bất tận” là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của chị. Truyện thành công ở nhiều phương diện nghệ thuật, đặc biệt là những đặc sắc trong cách kể của nhà văn, tiêu biểu qua đoạn trích: “Con kinh nhỏ … nói chi”.

Câu chuyện trong đoạn trích ngắn gọn, như một khoảnh khắc diễn ra trong cuộc sống với sự kiện chính là người đà bà bị đánh đập bằng những hình thức man rợ bởi một nhóm người. Tưởng chừng như chị không thể vượt lên được những đớn đau về thể xác ấy nhưng may mắn được cha con nhân vật tôi cứu vớt.

Câu chuyện không được thuật lại theo trình tự thời gian. Truyện mở đầu bằng hình ảnh “con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng rộng” giữa mùa hạn, nắng đổ xuống khiến những thân lúa non trên cánh đồng khô cong. Nhân vật cha tôi, Điền lo đi “cặm cọc rào bầy vịt”, tôi lo nhóm lửa nấu cơm và người đàn bà đau đớn không thể trở dậy “môi chị sưng vểu ra, xanh dờn. Và tay, và chân, và dưới cái áo mà tôi đã đắp cho là một cái áo khác đã bị xé tả tơi phơi những mảng thịt người ta cấu nhéo tím ngắt”. Từ đó mạch truyện hồi cố lại sự việc trước đó cha con nhân vật tôi đã chứng kiến tận mát cảnh tượng người đà bà đã bị người ta đánh đập, hành hạ dã man như thế nào. Người kể chuyện vì vậy mà đã giúp người đọc có thể có cái nhìn đầy đủ hơn, hiều hơn về số phận của người đàn bà và cả những đồng cảm của tôi với nhân vật người đàn bà.

Đoạn trích lựa chọn ngôi kể thứ nhất, điểm nhìn từ nhân vật tôi – người trực tiếp chứng kiến toàn bộ diễn biến của câu chuyện. Chính điều này đã khiến câu chuyện được trần thuật từ điểm nhìn chủ yếu của nhân vật tôi, mọi diễn biến của câu chuyện cũng được nhìn từ điểm nhìn của tôi. Và tôi là một nhân vật trong truyện có thể hiểu chi tiết mọi biến cố gắn liền với nhân vật người đàn bà, nhân vật người cha, nhân vật Điền trong từng hoàn cảnh cụ thể.

Người đàn bà hiện lên với ngoại hình “môi sưng vểu ra, xanh rờn” áo bị xé “tả tơi, những mảng tím ngắt”. Đấy là hậu quả đớn đau sau khi chị vừa phải trải qua một trận đòn khủng khiếp. “Người ta lòn tay, ngoay chúng tôi” và sau đó chị bị kéo “lê lết một quãng đường xóm”. Chị bị “giằng ném” như một món đồ, bị đánh, “quăng quật” không khác gì bao trấu bởi một người đàn bà khác và một nhóm người vì ghen tuông. Dưới cái nhìn của người kể chuyện, khi bị đánh, tuyệt nhiên người đàn bà này không có một hành động phản kháng, không một câu kêu gào, van xin, cũng không một hành động lạy lục xin tha thứ. Chị để yên cho người ta đánh mình không ghê tay, chị im lặng chịu đựng lời rủa mắng kinh hãi. Là bởi chị nghĩ, chị xứng đáng bị như vậy? Hay bởi chị đã quá đau đớn mà không đủ sức để van xin, lạy lục người khác tha mạng? Có lẽ chị đã bị đẩy đến đường cùng, không lối thoát, trong đâu đớn, lựa chọn im lặng là một giải pháp!

Đám người nọ – là người đàn bà trong cơn ghen và nhóm người đi cùng chị, dưới cái nhìn của người kể chuyện họ hiện lên tàn nhẫn, độc ác, thú tính. Họ quên cả nỗi lo toan bởi cánh đồng khô hạn ngày nắng cháy khiến những thân lúa non “khô cong như tàn nhang”, họ “dùng chân đá vi vào cái thân xác tả tơi kia bằng vẻ hằn học, hả hê, quên phứt vụ lúa thất bát cháy khô trên đồng, quên nỗi lo đói no giữa mùa giáp hạt. Họ quên đi cả cơn đói ngày giáp hạt sắp bủa vây lấy mình để thỏa mãn cơn ghen, thỏa mãn phần quỷ dữ trong mình và trút hết lên cơn giận lên người đàn bà nọ. Họ quên cả mình cũng là đàn bà, quên cả người đàn bà kia đơn độc, đau đớn và đã nhục nhã nhường nào khi một mình chống chọi với những lời lẽ cay nghiệt, những đòn đánh đập, tra tấn dã man từ họ. Tạo một khoảng cách nhất định với nhân vật, lựa chọn hình thức câu văn trần thuật, người kể chuyện đã tái hiện một cách chân thực, chi tiết hàng hoàng những hành động của nhóm người lạ và cả những đau đớn mà người đàn bà phải chịu đựng. Đỉnh điểm cho điều đó phải kể đến tình huống nhát dao phay cất lên, cơn phấn khích man rợ của họ được thỏa mãn “đuôi tóc dứt lìa”, “dục dặc, hì hục như phạt một nắm cỏ cứng và khô”. Tình huống kinh hãi ấy, tưởng chị cận kề với cái chết hóa ra lại là cơ hội chị được tự do. Mái tóc đứt lìa khỏi đầu chị dưới nhát dao phay lạnh lùng là cơ hội để chị giải thoát cho chính mình, chị “vùng dậy, lao nhanh xuống ghe chúng tôi như một tiếng thét, lăn qua chân tôi, đến chỗ cha, làm đổ những bao trấu cha vừa mới xếp”.

Cùng với nhân vật người đà bà là nhân vật tôi, nhân vật người cha, nhân vật Điền. Tuy xuất hiện không nhiều qua điểm nhìn của người kể chuyện nhưng có thể thấy họ đều có những mối quan tâm riêng với người đàn bà bị đánh đập ấy. “Tôi” “lồm cồm xô ghe dạt khỏi bờ, sợ hãi và sung sướng, tôi cầm sào chống thục mạng ra giữa sông, mắt không rời đám người đang tràn ra mé bờ chực lao xuống, nhảy nhót điên cuồng” hao hức với hi vọng sẽ giúp đỡ được người đàn bà; người cha im lặng nhưng không hề tỏ thái độ phản đối khi tôi giúp đỡ người đàn bà; Điền lo lắng, đau đớn cho những vết thương trên co thể chị. Mỗi người một cách, song đằng sau đó là niềm cảm thông, sự sẻ chia, quan tâm và đều mong người đàn bà ấy sẽ thoát khỏi bàn tay của nhóm người đã đánh đập.

Đặt điểm nhìn của người kể chuyện ở ngôi thứ nhất, chúng ta có thể thấy người kể chuyện có những đồng cảm, sẻ chia sâu sắc với những sự việc diễn ra xung quanh và cả người những nhân vật trong truyện. Đó cũng là cái nhìn của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Chị lo lắng cho cuộc sống của những người nông dân nghèo trên con kinh nhỏ giữa mùa hạn. Chị thương xót, đớn đau cho những mảnh đời bất hạnh khó nghèo bị đẩy đến đường cùng. Đằng sau nỗi thương, niềm đau là sự tin tưởng vào tình người. Trong sự bủa vây bới khó khăn, nghèo đói, họ vẫn cưu mang, giúp đỡ lẫn nhau, vẫn đối đãi với nhau bằng sự quan tâm mộc mạc, chân thành như chất người Nam bộ vậy.

Đoạn trích thể hiện cái nhìn chân thực của tác giả về những người nông dân nghèo khó trên những “cánh đồng bất tận” của dải đất Nam bộ. Bằng giọng kể mềm mại, có chiều sâu về những cuộc đời éo le, những số phận chìm nổi. Cái chất miền quê sông nước ngấm vào mỗi con chữ, thấm đẫm cái tình của làng, của đất, của những con người chân chất hồn hậu nhưng ít nhiều gặp những bất hạnh. Bởi vậy, đằng sau cái nhìn hiện thực còn là tấm lòng nhân đạo cao cả, niềm cảm thông, xót thương sâu sắc với số phận bất hạnh của những người dân quê lam lũ, khó nghèo.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *