Các dạng đề văn về chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự

CHUYÊN ĐỀ HỘI THẢO MÔN NGỮ VĂN:
CHI TIẾT NGHỆ THUẬT
TRONG TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG TỰ SỰ                                                                            
 

  1. Phần mở đầu

Thực tế, trong những năm gần đây, các kì thi học sinh giỏi cũng như thi đại học bộ môn Ngữ văn thường xuất hiện những dạng câu hỏi “nhỏ” đề cập đến một hoặc một vài chi tiết nghệ thuật đặc sắc trong tác phẩm văn chương tự sự. Chỉ là một tiểu tiết của tác phẩm song nhiều chi tiết nghệ thuật luôn có khả năng hàm chứa trong nó những nội dung tư tưởng và cả giá trị nghệ thuật lớn lao. Mỗi chi tiết nghệ thuật như một viên gạch nhỏ góp xây nên tòa thành vĩ đại, lộng lẫy của ngôn từ – những tác phẩm văn học. Phân tích, cảm nhận về chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự, vì thế, đã trở thành một việc làm cần thiết, thậm chí là một thử thách với nhiều giáo viên và học sinh. Chính ở đây người viết, người nói có thể chứng minh khả năng phát hiện, cảm thụ văn chương, bộc lộ tư duy sáng tạo. Khi con đường dạy, học văn đang có nguy cơ đứng trước lối mòn, sự khuôn sáo thì việc đào sâu vào những chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự là một hướng đi mới mẻ, ở đó mỗi khám phá lại giúp ta mở thêm ra thế giới văn chương đa hình muôn sắc.
 

  1. Phần nội dung
  2. Những vấn đề lí thuyết
  3. Khái niệm chi tiết nghệ thuật.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên), chi tiết nghệ thuật là “các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng”. Nhà văn Nguyễn Công Hoan, bằng kinh nghiệm nhiều năm trong nghề viết đã cho rằng: “Chi tiết là từng hòn gạch xây nên bức tường. Nếu bản thân câu chuyện không có nội dung, thì những chi tiết cũng có thể kết hợp để tạo cho chuyện một nội dung” (Đời viết văn của tôi, NXB Văn học, H.1971). Một tác phẩm tự sự có thể bao gồm một đến một chuỗi các sự việc và mỗi sự việc như thế lại được xây dựng bởi nhiều chi tiết. “Chi tiết có thể là một lời nói, một cử chỉ, một hành động của nhân vật, hoặc một sự vật, một hình ảnh thiên nhiên, một nét chân dung… Những chi tiết đặc sắc tập trung thể hiện rõ nét sự việc tiêu biểu”. (SGK Ngữ Văn 10, tập 1, NXB Giáo dục 2012).

  1. Phân loại chi tiết nghệ thuật

Theo Từ điển thuật ngữ văn học (tlđd), nếu căn cứ vào vị trí, vai trò của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm, có thể phân loại chi tiết thành hai nhóm:
– Nhóm chi tiết thuộc về nghệ thuật (những chi tiết chỉ đóng vai trò vật liệu xây dựng làm tiền đề cho cốt truyện phát triển thuận lợi và hợp lí)
– Nhóm chi tiết có tính nghệ thuật (những chi tiết tập trung thể hiện cho cấu tứ của tác giả, có giá trị thẩm mĩ đa dạng, thường được tô đậm, nhấn mạnh trong tác phẩm).
Trong đó, nhóm chi tiết thứ hai thường được quan tâm bởi giá trị nghệ thuật độc đáo. Trong khuôn khổ chuyên đề, chúng tôi chỉ hướng tới nhóm đối tượng thứ hai – những chi tiết có tính nghệ thuật (gọi chung là chi tiết nghệ thuật).
Ngoài ra, nếu căn cứ vào mối liên hệ giữa chi tiết với các yếu tố khác của tác phẩm, có thể tạm chia chi tiết nghệ thuật thành các nhóm:
– Nhóm chi tiết thuộc về hoàn cảnh
– Nhóm chi tiết thuộc về nhân vật
– Nhóm chi tiết thuộc về cốt truyện

  1. Đặc điểm, vai trò của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự

Gắn với đặc điểm sự kiện và nhân vật, hệ thống chi tiết nghệ thuật của tác phẩm tự sự cũng phong phú, đa dạng hơn hai loại kịch và trữ tình. Chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự thường mang tính trần thuật, thể hiện rõ chất văn xuôi của đời sống. Có ý kiến cho rằng đó là các yếu tố phi sự kiện nhưng có giá trị thông tin và chuẩn bị cho sự kiện. Đó có thể là các chi tiết về chân dung, ngoại hình, tâm lí, sinh lí, phong cảnh, phong tục… Ngay từ định nghĩa, có thể thấy những đặc trưng của chi tiết nghệ thuật: dung lượng nhỏ nhưng sức chứa lớn. Chi tiết nghệ thuật có khả năng nói nhiều hơn bản thân nó.
Chi tiết nghệ thuật trước hết mang giá trị tạo hình và phản ánh. Nó là chất liệu xây dựng hình tượng nghệ thuật. Theo đó, “hình tượng nghệ thuật cụ thể, gợi cảm và sống động là nhờ các chi tiết về phong cảnh, môi trường, chân dung, nội thất, về cử chỉ, phản ứng nội tâm, hành vi lời nói” (Từ điển thuật ngữ văn học, tlđd). Còn theo Nguyễn Công Hoan: “xây dựng truyện, mà không có chi tiết thì không có chuyện sinh động, gây cảm xúc” (Tlđd). Chi tiết nghệ thuật vừa làm cho sự vật, hiện tượng hiện lên rõ nét, vừa soi tỏ ý nghĩa của chúng, tạo chiều sâu tính đa nghĩa cho tác phẩm. Sức nén mạnh mẽ tạo khả năng bùng nổ cho chi tiết, gây bất ngờ cho bạn đọc bởi những phát hiện, vỡ lẽ.
Cao hơn, chi tiết nghệ thuật có khả năng “thể hiện, giải thích, làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm” (Từ điển thuật ngữ văn học – tlđd). Theo TS. Chu Văn Sơn, những chi tiết giàu tính tượng trưng, đa nghĩa còn có thể nâng lên thành biểu tượng hay ẩn tượng trong tác phẩm (Ví dụ chi tiết những chiếc xe tăng hỏng và xe rà mìn sét gỉ trên bãi biển – nơi người chồng đánh vợ trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” biểu tượng cho bạo lực tàn khốc một thời chiến tranh đã qua). Chi tiết nghệ thuật gắn bó, chịu ảnh hưởng trực tiếp từ quan niệm nghệ thuật của nhà văn, nên đồng thời người đọc có thể đi từ chi tiết nghệ thuật để tìm hiểu quan niệm của nhà văn về thế giới, con người… “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn” (M. Gor-ki), từ chi tiết nghệ thuật có thể đánh giá tài năng, bản lĩnh của người cầm bút mà cụ thể chính là khả năng phát hiện, lựa chọn, sử dụng chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm. Mỗi chi tiết nghệ thuật là một sáng tạo riêng của nhà văn nhưng đồng thời cũng kết tinh từ những gì thu lượm được trong đời sống sâu và rộng của người viết. Như giọt nước kết tinh cái mặn mòi của biển, chi tiết đồng thời cho thấy vốn sống của người cầm bút: liệu anh đã thực sự sống hết mình, sống sâu sắc “mở hồn ra đón lấy những vang động của đời”?

  1. Các dạng đề văn về chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự.
  2. a) Dạng đề yêu cầu phân tích, cảm nhận về chi tiết nghệ thuật.

Đây là dạng đề thường gặp ở những câu hỏi “nhỏ” (2 điểm) trong bài thi đại học. Riêng với những chi tiết quan trọng, được tác giả nhấn mạnh, lặp đi lặp lại nhiều lần trong tác phẩm thì có thể được đưa vào những câu 5 điểm. Lúc này sự phân tích cần mở ra ở cả chiều rộng và bề sâu kiến thức.
Ví dụ 1: Về nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông” trong bút kí cùng tên của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Ví dụ 2: Phân tích ngắn gọn ý nghĩa hình ảnh “tờ giấy bạc năm đồng gấp tư” trong phần cuối đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (trích tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng).

  1. b) Dạng đề yêu cầu phân tích, cảm nhận về các chi tiết nghệ thuật trong thế đối sánh.

Dạng bài phân tích, cảm thụ văn học trong thế đối sánh có thể được đặt ra ở nhiều cấp độ trong đó có đối sánh chi tiết nghệ thuật. Những chi tiết nghệ thuật được đưa ra so sánh thường có sự gặp gỡ nhất định về hoàn cảnh, ý nghĩa tác động với các nhân vật hay vai trò với cốt truyện…
Ví dụ: Cảm nhận của anh chị về chi tiết “bát cháo hành” mà nhân vật Thị Nở mang cho Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao) và chi tiết “ấm nước đầy và nước hãy còn ấm” mà nhân vật Từ dành sẵn cho Hộ (Đời thừa – Nam Cao).
(Trích Đề thi tuyển sinh Đại học khối D năm 2010, câu III.b)

  1. Hướng dẫn học sinh khai thác chi tiết trong tác phẩm tự sự
  2. Những điểm cần chú ý khi khai thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương tự sự.

Khi tiến hành khai thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương tự sự, người viết cần chú ý đến một số vấn đề sau nhằm đảm bảo sự khai thác triệt để, có những phát hiện đúng đắn, sâu sắc:
– Trước hết, cần phân biệt hai loại chi tiết trong tác phẩm (chi tiết thuộc về nghệ thuậtchi tiết có tính nghệ thuật), nên chọn lọc, hướng tới phân tích nhóm chi tiết có tính nghệ thuật phục vụ nội dung đang phân tích, tìm hiểu, tránh suy diễn, áp đặt hay phân tích ôm đồm, thiếu tập trung.
– Khi tiến hành phân tích cần chú ý đến các phương diện như: vị trí, tần suất xuất hiện chi tiết, tác động của chi tiết tới nhân vật, cốt truyện… Chi tiết nghệ thuật tự bản thân nó có tính độc lập tương đối nhưng nếu không đặt nó trong tương quan với toàn thể tác phẩm, trong mối qua hệ qua lại mật thiết với những chi tiết khác thì sự phân tích sẽ dễ rơi vào suy diễn tùy tiện. Ví dụ, ở phần cuối tác phẩm Chí Phèo, khi Chí xách dao đến nhà Bá Kiến để “đòi lương thiện” cũng là lúc Bá Kiến đang trong cơn ghen (vì bà Tư trẻ, đẹp đi đâu mãi chưa về). Nhìn bề ngoài, chi tiết này là minh chứng cho bản chất dâm đãng của Bá Kiến, nhưng sâu xa hơn, khi liên hệ với nhiều chi tiết xuất hiện trước, có thể thấy ý nghĩa của chi tiết này không dừng lại ở đó. Vì ghen tuông vu vơ, Bá Kiến đẩy Chí vào tù, tạo bước ngoặt đầu tiên trong quá trình tha hóa của nhân vật. Và chính khi cái ý nghĩ thâm độc của Bá Kiến lại trở về “muốn cho tất cả những thằng trai trẻ đi ở tù” thì Chí Phèo xuất hiện, đòi công lý. Không trả lời được những câu hỏi dồn dập của Chí Phèo, “Bá Kiến phải chết, chết giữa cơn ghen đích đáng như một sự quả báo” (TS. Đặng Lưu – Một số đặc điểm trong tư duy tự sự của Nam Cao qua Chí Phèo).
– Nếu sử dụng thao tác so sánh thì việc phát hiện, lựa chọn chi tiết so sánh là hết sức quan trọng, tránh đặt những chi tiết thiếu cân xứng gây cảm giác khiên cưỡng. Ví dụ, từng có đề bài yêu cầu so sánh hai chi tiết: tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá (trong Chí Phèo – Nam Cao) và tiếng sáo gọi bạn tình (trong Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài). Có thể nhận thấy sự chênh lệch rất rõ ràng ở đây. Âm thanh tiếng chim hót được miêu tả như thứ âm thanh thường nhật, kết hợp cùng nhiều chi tiết khác làm nổi bật lên sự sống thường ngày giản dị xung quanh Chí Phèo (sự tác động đến nhân vật, nếu có, cũng chủ yếu nằm ở đây) và nó chỉ xuất hiện duy nhất một lần. Ngược lại, âm thanh tiếng sáo gọi bạn tình lại là thứ âm thanh đặc biệt, giàu sức gợi, có khả năng tác động sâu sắc đến tâm tư của nhân vật và được Tô Hoài dụng công miêu tả: nó xuất hiện nhiều lần, thay đổi linh hoạt, khi thì là âm thanh thực bên ngoài mời gọi, lúc lại nhập sâu trong ý thức của Mị…

  1. Hướng dẫn học sinh phát hiện, bình giá chi tiết nghệ thuật trong giờ giảng văn.

Nếu ví mạch ý là bộ khung xương thì những lời phân tích, bình giá trong đó có phân tích, bình giá các chi tiết nghệ thuật chính là phần da thịt tạo sức hấp dẫn, vẻ đẹp riêng cho bài học.
Trước hết, cần hướng dẫn học sinh phát hiện những chi tiết độc đáo, có giá trị trong tác phẩm. Đó có thể là có thể là một âm thanh, một cái tên, một màu sắc, một đồ vật, một lời nói, một ý nghĩ của nhân vật… Giáo viên có thể khéo léo sử dụng hệ thống câu hỏi gợi ý, không nên trực tiếp nêu ngay tên chi tiết trong lời hỏi (Ví dụ: Em cho biết chi tiết a, b, c … có ý nghĩa/ tác động như thế nào?).
Sau khi học sinh đã phát hiện được chi tiết đặc sắc, giáo viên hướng dẫn phân tích chi tiết đó trên tất cả các phương diện như vị trí, tần suất xuất hiện… Ví dụ: từ gợi ý về vị trí tiếng trống thúc thuế trong tác phẩm Vợ nhặt: xuất hiện giữa bữa ăn thê thảm ngày đói, trong không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi, mùi gây của xác người… học sinh có thể phát hiện chi tiết này góp phần đẩy đẩy căng mâu thuẫn. Trong khi cái đói đã lên đến đỉnh điểm, nhiều nhà phải ăn cám, nhiều nhà không có cám mà ăn thì người dân vẫn phải đóng thuế… Tất cả dồn đẩy người nông dân đến bước đường cùng, họ chỉ còn một cách tự cứu bản thân mình là đi theo Cách mạng. Trên cơ sở đó, hình ảnh lá cờ đỏ thấp thoáng trong óc Tràng xuất hiện hết sức tự nhiên, hợp lí nhằm mở ra hướng giải thoát cho cuộc đời các nhân vật.
Khi phân tích, cũng có thể tìm ra những bất thường (nếu có), hoặc đặt chi tiết trong các mối quan hệ với nhân vật, hoàn cảnh… để tìm hiểu ý nghĩa. Ví dụ, học sinh cần phát hiện được những bất thường xung quanh chi tiết: “Mị đứng lặng trong bóng tối” (Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài) như: Câu văn được đặt thành một dòng, hoàn toàn riêng rẽ với các phần văn bản trước và sau nó. Đây chính là dụng ý nghệ thuật của Tô Hoài nhằm tạo quãng ngắt, là khoảng lặng bề ngoài cho những đấu tranh dữ dội trong nội tâm nhân vật: cuộc đấu tranh giữa thói quen sống nô lệ, những nỗi sợ hãi vô hình với khát vọng sống, khát vọng tự do. “Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ mới chỉ kịp đánh thức lòng đồng cảm, tình thương, sự căm giận bè lũ thống trị độc ác chứ chưa đánh thức sức sống mạnh mẽ trong Mị (Mị vẫn nghĩ: “ta là thân đàn bà, nó bắt ta về trình ma ở nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”). Phải đến khi “A Phủ quật sức vùng lên, chạy” – bên cạnh một sức sống bừng bừng như thế, Mị mới bàng hoàng rồi sực tỉnh. Phút đứng lặng kia của nhân vật quý giá biết bao, chính nó đã tạo ra chuyển biến quan trọng trong tâm hồn người con dâu gạt nợ: cô dũng cảm vùng lên, cắt đứt sợi dây trói của thần quyền, cường quyền, tìm đến với cuộc đời tự do.
Nhằm làm sâu hơn sự phân tích, có thể thực hiện thao tác đối sánh đơn giản ngay trong giờ giảng văn. Để việc làm đúng trọng tâm, giáo viên cần gợi ý cho học sinh những hướng liên hệ đối sánh, học sinh tiếp tục phát hiện những điểm tương đồng và dị biệt, khám phá thêm những tầng ý nghĩa ẩn sâu của chi tiết. Sự đối sánh có thể tiến hành với những chi tiết trong cùng một tác phẩm hoặc với những chi tiết ở các tác phẩm khác nhau. Ví dụ, khi phân tích quang cảnh mới mẻ trước mắt Tràng trong buổi sáng hôm sau (Vợ nhặt – Kim Lân), có thể lựa chọn phân tích một âm thanh khỏe khoắn, vui tươi: “tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất” và liên hệ so sánh với “tiếng cười nói của mấy người đàn bà đi chợ” trong Chí Phèo (Nam Cao). Đó đều là những thanh âm giản dị của sự sống thường ngày, nhưng vì những bất thường (cái đói trong Vợ nhặt, những trận say và sự tha hóa trong Chí Phèo) mà các nhân vật chưa bao giờ được nghe hay để ý tới. Chúng đánh thức khát vọng về cuộc sống với hạnh phúc mộc mạc đơn sơ. Cùng là những âm thanh sự sống thường ngày song ở Chí Phèo, nó (kết hợp với những âm thanh, hình ảnh khác) gợi nhắc về mơ ước xa xôi trong quá khứ, kéo theo nhiều trạng thái phức tạp phía sau còn ở Vợ nhặt, nó gợi lên ở Tràng ý thức vun vén gia đình và khát vọng hướng tới tương lai.
Tổ chức cho học sinh phát hiện, phân tích chi tiết nghệ thuật nói chung, chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương tự sự nói chung trong giờ giảng văn là cần thiết. Tuy vậy, do thời lượng dành cho mỗi bài học là có giới hạn nên việc lựa chọn phân tích luôn luôn phải có định hướng rõ ràng, tránh tham lam, phân tích lan man, làm loãng, rối mạch ý của bài học.

  1. Hướng dẫn học sinh làm các dạng đề văn về chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương tự sự.
  2. a) Dạng đề yêu cầu phân tích, cảm nhận về chi tiết nghệ thuật.

Khi làm bài văn phân tích, cảm nhận về chi tiết nghệ thuật cần đảm bảo các nội dung chính sau:
– Giới thiệu chi tiết nghệ thuật (nêu xuất xứ, vị trí của chi tiết trong tác phẩm, tái hiện chi tiết và có thể nói qua tác động của chi tiết đó đối với diễn biến của truyện.
– Phân tích giá trị nội dung của chi tiết (ý nghĩa tư tưởng, ý nghĩa nhân văn) trong quan hệ với diễn biến của truyện, trong quan hệ giữa các nhân vật, trong quan hệ với chính bản thân nhân vật (số phận và tính cách)
– Phân tích giá trị nghệ thuật của chi tiết (nghệ thuật xây dựng hình tượng, nghệ thuật điển hình hóa, nghệ thuật kết cấu…)
– Cuối cùng, đánh giá chung về chi tiết (góp phần thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm như thế nào, làm bật lên giá trị hiện thực, nhân đạo, tầm tư tưởng của tác giả, thể hiện phong cách nghệ thuật của nhà văn ra sao v.v…)
Khi làm bài, học sinh có thể kết hợp phân tích với giải thích, bình luận làm sáng tỏ, sâu sắc hơn sự phân tích.
Ví dụ:
Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài (Ngữ Văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011), giữa đêm mùa đông, nhân vật Mị đã nhìn thấy “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ.
Hãy phân tích ý nghĩa hình ảnh dòng nước mắt trên của A Phủ.
Hướng dẫn làm bài:
Bài làm của học sinh cần đảm bảo được các nội dung cơ bản sau:
* Giới thiệu tác giả, tác phẩm và chi tiết nghệ thuật “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”.
* Phân tích:
– Hoàn cảnh xuất hiện chi tiết dòng nước mắt của A Phủ:
+ Do sơ ý để hổ bắt mất bò, A Phủ bị thống lí Pá Tra trói đứng, bỏ mặc cho đói rét suốt mấy đêm liền giữa kì sương muối khắc nghiệt ở Hồng Ngài, còn Mị sau bao năm bị đọa đày cùng cực cũng đã trở nên chai lì. Những đêm trước, tuy vẫn trở dậy thổi lửa, hơ tay, nhìn thấy A Phủ bị trói nhưng Mị chỉ dửng dưng, vô cảm.
+ Đêm ấy, trong nỗi bất lực, bế tắc và hoàn toàn tuyệt vọng, A Phủ đã khóc, đúng lúc đó, Mị nhìn sang và bắt gặp dòng nước mắt của A Phủ.
– Về nội dung, chi tiết dòng nước mắt của A Phủ có ý nghĩa:
+ Trực tiếp bộc lộ những cảm xúc: đau đớn, tuyệt vọng… trong hoàn cảnh cùng đường của A Phủ. Đó cũng là một dạng “biểu hiện lộn trái” của lòng yêu đời, sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật. Chàng trai trẻ, khỏe, phơi phới sức xuân lại sắp phải chịu cái chết bi thảm (chết trong tư thế bị trói đứng). Đây cũng là bằng chứng tố cáo sự tàn ác của giai cấp thống trị miền núi.
+ Tạo ra bước ngoặt quan trọng trong tâm lí nhân vật Mị:

  • Mị nhớ lại lần cũng bị hành hạ như thế, mà xót thương mình, từ đó đồng cảm với nỗi đơn độc và tuyệt vọng của A Phủ.
  • Từ mối đồng cảm ấy, Mị càng hiểu sâu sắc hơn sự độc ác của cha con thống lí Pá Tra, thấy rõ sự nguy khốn đang ập xuống A Phủ, lòng trắc ẩn của người phụ nữ bỗng chốc thức dậy đã đem lại sức mạnh cho Mị, khiến Mị dám liều mình cứu A Phủ.
  • Khi tình thương người được giải tỏa thì lòng thương mình trỗi dậy, Mị vụt chạy theo A Phủ, tự cắt những sợi dây trói vô hình để giải phóng chính mình.

– Về nghệ thuật, chi tiết dòng nước mắt của A Phủ đã thúc đẩy xung đột truyện lên đến cao trào, là đầu mối của một loạt những hành động bất ngờ làm thay đổi cuộc đời các nhân vật, vừa tạo sự vận động, phát triển của tính cách nhân vật vừa tạo sự vận động cho cốt truyện.
* Đánh giá chung:
– Chi tiết góp phần thể hiện giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm (phản ánh hiện thực cuộc sống đau khổ của người lao động, phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn các nhân vật như khát vọng sống, tình yêu thương…)
– Chi tiết nghệ thuật độc đáo thể hiện biệt tài phân tích tâm lí nhân vật của Tô Hoài (trực tiếp bộc lộ tâm trạng, cảm xúc nhân vật A Phủ, tạo cơ sở cho chuyển biến tâm lí nhân vật Mị một cách tự nhiên, hợp lí), bộc lộ cảm quan nhân đạo cách mạng của nhà văn.

  1. b) Dạng đề yêu cầu phân tích, cảm nhận về các chi tiết nghệ thuật trong thế đối sánh.

Bài văn phân tích, cảm nhận về các chi tiết nghệ thuật trong thế đối sánh có thể được tiến hành làm theo hai cách: cách thứ nhất là phân tích lần lượt từng đối tượng rồi chỉ ra điểm giống, điểm khác nhau và lí giải nguyên nhân. Cách thứ hai là tiến hành so sánh đồng thời với việc phân tích, phần thân bài của bài viết được chia làm ba luận điểm lớn: Luận điểm thứ nhất là điểm giống nhau; luận điểm thứ hai là điểm khác nhau, (trong mỗi luận điểm lại có những phương diện so sánh phù hợp); luận điểm thứ ba là lí giải nguyên nhân. Dù tiến hành theo cách nào thì bài làm cũng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
– Giới thiệu các chi tiết nghệ thuật cần phân tích, cảm nhận trong thế đối sánh
– Làm rõ các đặc điểm của từng chi tiết như xuất xứ, vị trí, ý nghĩa… (tham khảo mục II.3.a)
– Làm rõ những điểm tương đồng, dị biệt giữa các chi tiết, lí giải được nguyên nhân sự tương đồng, dị biệt đó.
Ví dụ:
Từ thức dậy, Từ hiểu ngay, không cần hỏi một câu nào cũng hiểu. Và Từ cảm động. Mắt Từ giàn giụa nước.
(Đời thừa – Nam Cao)
Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt
(Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu)
Cảm nhận của anh (chị) về “dòng nước mắt” của hai người phụ nữ  trong những câu văn trên.
Đáp án, thang điểm:

  1. Vài nét về tác giả và tác phẩm (0,5 điểm)

– Nam Cao là cây bút hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại; “người kết thúc vẻ vang cho trào lưu văn học hiện thực phê phán”. Một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của ông là Đời thừa. Trong tác phẩm, bên cạnh những giọt nước mắt đau khổ, ân hận của Hộ người đọc còn xúc động trước những giọt nước mắt của Từ – người vợ hiền lành, đáng thương. (0,5 điểm)
– Nguyễn Minh Châu là “người mở đường tinh anh và tài năng nhất” của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Nếu trước thập kỉ tám mươi, ông là ngòi bút sử thi có khuynh hướng trữ tình lãng mạn thì sau thập kỉ tám mươi, nhà văn chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh sâu sắc. Một trong những sáng tác nổi tiếng nhất của Nguyễn Minh Châu ở giai đoạn sáng tác thứ hai này chính là Chiếc thuyền ngoài xa. Và một hình ảnh gây xúc động cho bạn đọc là hình ảnh những giọt nước mắt của người đàn bà hàng chài – những giọt nước mắt soi tỏ nhiều góc khuất trong tâm hồn nhân vật. (0,5 điểm)
 
 

  1. Về chi tiết những giọt nước mắt của Từ (1,5 điểm)

– Ý nghĩa về nội dung:
+ Thể hiện sự cảm thông của người vợ trước nỗi đau tinh thần mà chồng mình phải chịu đựng.
+ Là biểu hiện sự bất lực của Từ trong bi kịch của gia đình họ, khắc sâu nỗi đau của các nhân vật.
+ Những giọt nước mắt cảm thông chân thành cùng những quan tâm, chăm chút dịu dàng của Từ là biểu hiện của tình yêu thương sâu bền, sự bao dung của người vợ; đánh thức lương tâm và lương tri của Hộ, khiến anh càng thấm thía về nghĩa tình, day dứt, ăn năn về những hành vi vũ phu với vợ con khi say.
– Ý nghĩa về nghệ thuật: Giúp khắc hoạ tính cách, tâm lí nhân vật và góp phần thể hiện sinh động tư tưởng của Nam Cao về khả năng cảm hoá của tình người.

  1. Về chi tiết giọt nước mắt của người đàn bà hàng chài (1,5 điểm)

– Ý nghĩa về nội dung:
+ Thể hiện nỗi đau, sự bất lực của người vợ, người mẹ trong hoàn cảnh hết sức éo le: Trước đó, dù hứng chịu trận đòn roi trút xuống như lửa cháy, người đàn bà vẫn “cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy”. Chỉ khi bị đứa con phát hiện, chứng kiến cảnh tượng đau lòng: con đánh cha, cha đánh con, người đàn bà mới đau đớn bật khóc. Giọt nước mắt bật ra từ những xót xa, tủi nhục mà người đàn bà dồn nén, chất chứa bấy lâu trong lòng. Hơn hết, giọt nước mắt bật ra từ trái tim người mẹ: bất lực không thể bảo vệ được tâm hồn non nớt, thơ ngây của đứa trẻ, bất lực nhìn cái gia đình mà mình cố sức giữ gìn có nguy cơ tan vỡ…
– Ý nghĩa về nghệ thuật: Giúp khắc hoạ tính cách, tâm lí nhân vật, thể hiện bi kịch của nhân vật và cho thấy chiều sâu tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Minh Châu.

  1. Về sự tương đồng và khác biệt

– Tương đồng: Cả hai chi tiết đều góp phần biểu hiện tình cảm, tấm lòng của những người vợ, người mẹ trong bi kịch gia đình, đều thể hiện biệt tài sử dụng chi tiết của các nhà văn lớn. (0,5 điểm)
– Khác biệt: Giọt nước mắt của Từ chủ yếu bộc lộ thái độ đồng cảm, xót xa của người vợ, (cùng với những hành động khác của nhân vật) nó có tác dụng cứu chuộc nhân tính, thức tỉnh lương tri của Hộ. Giọt nước mắt của người đàn bà hàng chài chủ yếu thể hiện nỗi đau, sự bất lực của người mẹ không thể bảo vệ được tâm hồn ngây thơ, trong sáng cho đứa trẻ (0,5 điểm)
* Lưu ý chung: Thí sinh có thể làm bài theo những cách khác nhau, nhưng phải đảm bảo những yêu cầu về kiến thức.
III. Giới thiệu một số đề văn tiêu biểu về chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự của các năm gần đây

  1. Thi Quốc gia

Năm 2013:
Câu 2: (12 điểm)
“Trong tác phẩm văn học, sáng tạo nghệ thuật quan trọng, đặc sắc nhất, nhiều khi không phải ở hình tượng con người mà ở hình tượng đồ vật, sự vật: Một thứ thuốc chữa bệnh quái lạ (Thuốc – Lỗ Tấn), một bức thư pháp đẹp và quý (Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân) một công trình kiến trúc kỳ vĩ, tinh xảo (Vũ Như Tô – Nguyễn Huy Tưởng), một cây đàn huyền thoại (Đàn ghi ta của Lor-ca – Thanh Thảo)… Đó là những đồ vật, sự vật mang ý nghĩa biểu trưng cho nhận thức, nhân cách, ý chí, khát vọng, số phận… của con người.
Ý kiến của anh chị về nhận định trên? Hãy phân tích hai trong những hình tượng đồ vật, sự vật đã nêu để làm sáng tỏ ý kiến của mình”.

  1. Thi Đại học

Khối C:
Năm 2008:
Câu IIIa. (3 điểm)
Trong tác phẩm “Chữ người tử tù”, vì sao tác giả Nguyễn Tuân lại ví tấm lòng của nhân vật quản ngục như “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”?
Câu IIIb. (3 điểm)
Trong tác phẩm “Một người Hà Nội”, vì sao tác giả Nguyễn Khải lại gọi nhân vật bà Hiền là “một hạt bụi vàng của Hà Nội”?
 
 
Năm 2012:
Câu I (2 điểm)
Trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011), ở phần nói về thượng nguồn sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ví vẻ đẹp của dòng sông này với hình ảnh hai người phụ nữ, đó là những hình ảnh nào? Ý nghĩa của những hình ảnh ấy?
Năm 2013:
Câu I (2 điểm)
Trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam, ấn tượng của nhân vật Liên về Hà Nội có những nét nổi bật nào? Hình ảnh Hà Nội có ý nghĩa gì đối với đời sống tâm hồn Liên?
Khối D:
Năm 2010:
Câu IIIb. (5 điểm)
Cảm nhận của anh chị về chi tiết “bát cháo hành” mà nhân vật Thị Nở mang cho Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao) và chi tiết “ấm nước đầy và nước hãy còn ấm” mà nhân vật Từ dành sẵn cho Hộ (Đời thừa – Nam Cao).
Năm 2012:
Câu I (2 điểm)
Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài (Ngữ Văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011), việc Mị nhìn thấy “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ diễn ra trong hoàn cảnh nào? Sự việc ấy có ý nghĩa gì đối với tâm lí của nhân vật Mị?
Câu IIIa. Theo chương trình Chuẩn (5 điểm)
Truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao kết thúc bằng hình ảnh:
Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua… (Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.155)
Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân kết thúc bằng hình ảnh:
Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…
(Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.32)
Cảm nhận của anh chị về ý nghĩa của những kết thúc trên.
Năm 2013:
Câu I (2 điểm)
Trong tùy bút Người lái đò sông Đà (Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013), Nguyễn Tuân từng nhìn “Sông Đà như một cố nhân”.
Người “cố nhân” ấy có tính nết như thế nào? Cách ví von này có ý nghĩa gì?

  1. Một số đề luyện tập mở rộng

Đề 1: Cảm nhận của anh (chị) về hình ảnh đôi bàn tay rực lửa của Tnú trong đêm nổi dậy của dân làng Xô Man (Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành):
“Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc”
Gợi ý:
Bài làm của học sinh cần đảm bảo các nội dung sau:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm và hình ảnh đôi bàn tay rực lửa của Tnú.
– Hình ảnh đôi bàn tay rực lửa của Tnú là minh chứng cho tội ác dã man của kẻ thù. Chúng đốt bàn tay Tnú  trước hết là để trả thù, hành hạ kẻ đã dám cầm súng chống lại chúng, sau nữa là để đe dọa dân làng khiến họ run sợ mà không dám nổi dậy (“đứa nào muốn cầm rựa, cầm giáo thì coi bàn tay thằng Tnú đây!”).
– Hình ảnh đôi bàn tay rực lửa còn cho thấy phẩm chất phi thường của người anh hùng Tnú. Nỗi đau lớn đến mức Tnú có cảm giác cả thân thể anh bị thiêu đốt nhưng anh quyết không kêu van. Khi cả nỗi đau và lòng căm thù lên đến đỉnh điểm, Tnú thét lên một tiếng, tiếng thét của anh lập tức vang dội thành nhiều tiếng thét dữ dội hơn. Dân làng Xô Man dưới sự lãnh đạo của cụ Mết đã đồng loạt nổi dậy. Mười đầu ngón tay Tnú trở thành bó đuốc sống không những không làm nao núng tinh thần của người dân như kẻ thù mong muốn, ngược lại, nó cổ vũ, tiếp thêm sức mạnh cho người dân.
– Về nghệ thuật: hình ảnh đôi bàn tay bốc cháy được miêu tả bằng những câu văn ngắn, nhịp văn chậm, nhà văn xoáy sâu miêu tả kĩ từng chi tiết, qua đó làm bật lên sự man rợ của kẻ thù. Đó là chi tiết nghệ thuật đặc sắc, đẩy mâu thuẫn lên cao trào, đồng thời góp phần khắc họa hình tượng nhân vật, tạo màu sắc sử thi cho tác phẩm…
 
Đề 2:
“Câu hò nổi lên giữa ban ngày, bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi kéo dài, từng tiếng một vỡ ra, nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội.”
(Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi)
Cảm nhận của anh (chị) về tiếng hò của nhân vật chú Năm trong câu văn trên.
Gợi ý:
Bài làm của học sinh cần đảm bảo các nội dung sau:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm và chi tiết nghệ thuật: tiếng hò của chú Năm.
– Tiếng hò thể hiện vẻ đẹp tâm hồn nhân vật. Qua tiếng hò ấy, chú Năm gửi gắm tâm sự của một con người yêu nước, căm thù giặc… Nó là lời nhắn nhủ của thế hệ đi trước với thế hệ sau: phải tiếp nối truyền thống cha anh, là nỗi lòng thiết tha của bậc cha chú truyền sức mạnh cho con cháu ngày ra trận (chú ý các từ: hiệu lệnh, lời thề…)
– Về nghệ thuật, chi tiết tiếng hò cho thấy khả năng khám phá tâm lí của Nguyễn Thi. Những cảm xúc tâm lí khó nắm bắt, những diễn biến phức tạp trong tâm hồn người chú (đã lớn tuổi, là người giàu tình cảm nhưng ít và khó bộc lộ tình cảm trực tiếp) đã được bộc lộ qua tiếng hò. Hình tượng nhân vật hiện lên nhờ thế cũng tự nhiên, sinh động hơn, tính cách nhân vật cũng được khám phá dưới nhiều góc độ: vừa anh hùng, vừa chân chất, mộc mạc…
+ Tiếng hò tạo màu sắc Nam Bộ cho tác phẩm: Ai đó đã nói thức ăn tinh thần chính của người Nam Bộ buổi đầu tiên là tiếng hò câu hát. Âm thanh tiếng hò vang lên giữa không gian sông nước, vườn cây trái mênh mông … rất giàu sức gợi về một không gian văn hóa đặc trưng Nam Bộ.
Đề 3: Về những câu hát được Tô Hoài trích dẫn trong Vợ chồng A Phủ.
Gợi ý:
Bài làm của học sinh cần đảm bảo các nội dung cơ bản sau:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề cần phân tích: những câu hát được Tô Hoài trích dẫn trong tác phẩm.
– Những câu hát được chọn lọc kĩ càng theo dụng ý nghệ thuật riêng: Tô Hoài có một khoảng thời gian dài đi thực tế Tây Bắc (hơn tám tháng). Trong khoảng thời gian ấy, ông đã cùng ăn, cùng ở, học tiếng của các đồng bào dân tộc ít người và trong cuốn sổ tay  của mình, nhà văn ghi lại nhiều lời hát của họ. Tư liệu phong phú song khi đưa vào tác phẩm, Tô Hoài chỉ lựa chọn rất ít, có 3 lần nhà văn nhắc tới những lời hát:
-“Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.”
-“Anh ném pao, em không bắt 
Em không yêu, quả pao rơi rồi…”
-“Em không yêu, quả pao rơi rồi
Em yêu người nào, em bắt pao nào…”
– Những câu hát này Mị không nghe trực tiếp, nó là lời Mị tự “nhẩm thầm” khi nghe tiếng sáo. Và một điều không phải ngẫu nhiên: chúng đều là lời ca của những người đang yêu hoặc đang đi tìm tình yêu, thể hiện khát vọng tình yêu – đặc biệt là khát vọng tình yêu tự do (hãy chú ý tư thế chủ động: “ta đi tìm người yêu”, cô gái không yêu có quyền từ chối bắt pao, cô có quyền lựa chọn: “em yêu người nào, em bắt pao nào”…). Trước khi về nhà thống lí, Mị từng có một thời tuổi trẻ say mê theo tiếng sáo, theo lời hát. Và Mị đã từng yêu. Mị về nhà thống lí với thân phận con dâu gạt nợ, bị cầm tù trong một cuộc hôn nhân ép buộc: “A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Chính những lời ca đẹp cùng với tiếng sáo, chứ không phải chỉ bản thân tiếng sáo – đã gọi về quá khứ hạnh phúc gắn với tình yêu, tuổi trẻ, từ đó thổi bùng dậy khao khát yêu và sống trong tâm hồn Mị. Làm phép giả định ngược lại,  nếu đó chỉ là những lời ca buồn, tiếng than não nuột cho thân phận thì có thể nhận được đồng cảm nhưng chưa chắc đã làm bừng lên khát vọng sống trong nhân vật.
– Về nghệ thuật: cùng với tiếng sáo, những câu hát góp phần thúc đẩy, tạo bước ngoặt trong diễn biến tâm lí của Mị. Chúng cũng tạo nên sắc thái trữ tình, chất thơ cho tác phẩm. “Chất Tây Bắc” rất riêng của Vợ chồng A Phủ không chỉ được gợi ra từ cảnh sắc thiên nhiên, phong tục, con người… mà còn từ chính những lời ca như thế.

  1. Giới thiệu bài làm của học sinh

Đề bài: Hình ảnh giọt nước mắt của Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao.
Bài làm
Từng nghe đâu đó có câu ví rằng: sáng tác văn chương cũng giống như việc nấu ăn vậy; người đầu bếp có thể thay đổi hương vị của món ăn chỉ bằng cách thêm vào chút gia vị lạ – người sáng tác cũng chỉ dụng ý khéo léo trong một chi tiết nhỏ nhưng lại đem đến tầng sâu giá trị nội dung và nghệ thuật cho tác phẩm. Dễ dàng nhận thấy, trên trang viết của nhà văn Nam Cao, có một chi tiết nghệ thuật trở đi trở lại, ám ảnh người đọc trong nhiều cung bậc cảm xúc, ấy là hình ảnh giọt nước mắt, tiêu biểu là giọt nước mắt của nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên.
Nam Cao là một trí thức nghèo, sống tại nơi thôn quê xa phủ xa tỉnh, gắn bó hàng ngày với những người nông dân khổ đau chốn ấy. Đề tài sáng tác của ông, bởi thế, cũng tập trung ở hai đối tượng: người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Tuy nhiên, dù viết về đề tài nào, truyện Nam Cao cũng đau đáu một nỗi băn khoăn đến đau đớn trước tình trạng con người bị huỷ hoại về nhân phẩm do cuộc sống đói nghèo đẩy tới. Và như thế, giọt nước mắt chảy ra dưới ngòi bút nghệ thuật như một lẽ tất yếu, khi thì biểu hiện cho uất ức khổ đau, lúc lại là thứ nước rửa trôi bụi bặm quá khứ, thức tỉnh nhân vật…
Chí Phèo được coi là kiệt tác của Nam Cao nói riêng, của văn học thời kì bấy giờ nói chung. Truyện kể về cuộc đời Chí Phèo – một đứa trẻ bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, được người làng chuyền tay nuôi. Năm hai mươi tuổi, Chí trở thành một anh canh điền khoẻ mạnh, làm thuê cho nhà bá Kiến. Vì lòng ghen tuông vô lí của cụ bá, Chí bị đẩy vào tù, bắt đầu những chuỗi ngày dài trên con đường tha hoá. Bảy năm sau, hắn trở về, anh nông dân “hiền như đất” ngày nào bỗng thành tên lưu manh côn đồ, uống rượu say khướt rồi rạch mặt chửi bới, ăn vạ. Và rồi, bằng những thủ đoạn “khôn róc đời”, Bá Kiến tiếp tục đẩy Chí Phèo lấn sâu hơn trên con đường tha hóa, trở thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”, gieo bao tội ác cho dân làng. Cuộc đời Chí cứ triền miên trong một cơn say dài của men rượu và tội lỗi cho tới khi gặp được thị Nở, được ăn cháo hành thị nấu, được thị chăm sóc và yêu thương bằng một thứ tình thương bình thường nhưng không người dân làng Vũ Đại nào có được. Chí tỉnh rượu, và tỉnh cả phần tâm thức từ lâu đã vùi lấp dưới hơi rượu. Chí khao khát trở về “xã hội bằng phẳng của những người lương thiện” rồi cũng đau đớn nhận ra nơi ấy đã không dành cho Chí một lối vào nào nữa cả. Bi kịch lên tới đỉnh điểm, Chí xách dao tới nhà bá Kiến, đâm chết bá Kiến và cũng kết liễu đời mình. Truyện kết thúc bằng hình ảnh “cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua” – cũng là nơi người ta từng nhặt được Chí – tạo những ấn tượng day dứt trong lòng người đọc. Rồi đây, tại những làng Vũ Đại khác, sẽ còn có bao nhiêu Chí Phèo khác, sẽ còn có bao nhiêu kiếp sống bị đoạ đày, bị đẩy vào bi kịch tha hoá, vĩnh viễn không bao giờ được chấp nhận quay lại với cuộc đời “lương thiện”.
Trong truyện ngắn, nhà văn Nam Cao hai lần nhắc đến hình ảnh giọt nước mắt của Chí Phèo: khi đón lấy bát cháo hành của thị Nở (“thằng này rất ngạc nhiên; hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt”) và sau khi bị thị Nở từ chối tình yêu, bị xã hội – mà bà cô thị Nở là người phát ngôn cho cả xã hội ấy – chính thức lên tiếng chối bỏ (“hắn ôm mặt khóc rưng rức”). Tuy nhiên, mỗi lần xuất hiện giọt nước mắt Chí Phèo lại là sự thể hiện khác nhau của tâm lí, cảm xúc nhân vật.
Ở lần xuất hiện đầu tiên, có thể thấy, đó là giọt nước mắt của niềm vui, sự cảm động. Nam Cao viết: “Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt.” Xúc cảm thoạt đầu đến với Chí Phèo là sự ngạc nhiên, bất ngờ, “bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”. Chính sự ngạc nhiên ấy cũng khiến Chí không còn đủ tỉnh táo để nhận ra sự thay đổi tâm trạng của bản thân mình. Hai tiếng “hình như” viết ra thật nhẹ, nó là giây phút xao động khẽ khàng trong tâm hồn nhân vật. Hoá ra, vừa có một người gần lại với hắn, bên cạnh hắn và  đem cho hắn một cách vô tư không tính toán. Sau một cơn say dài mênh mông, Chí tỉnh rượu, tỉnh dậy các giác quan, tỉnh dậy những ý thức, Chí biết mình “già rồi mà vẫn còn cô độc”. Ngộ ra sự đơn độc của bản thân một cách sâu sắc, nên khi nhận ra sự thực vẫn có người gần bên, Chí mới thấy lạ lùng và cảm động đến vậy.
Đọc đến đây, trong số bao nhiêu người đọc chúng ta, có ai không thấy đắng đót, chạnh lòng? “Con quỷ dữ của làng Vũ Đại” cũng từng có những phút giây như thế! Chí nhận ra một sự thật đáng lẽ hắn phải biết từ lâu: hắn đã “già rồi”, “ngoài bốn mươi tuổi đầu”, vậy mà “vẫn còn cô độc”, cho đến tận giờ phút ấy mới “được một người đàn bà cho”. Từ khi lọt lòng, Chí không có cha mẹ chăm lo, không bao giờ biết mặt người đã sinh ra mình, rồi Chí bị bán, bị đem cho, bị trao đổi như một thứ hàng hoá. Suốt bao nhiêu tháng năm, Chí đâu đã một lần được yêu thương, quan tâm săn sóc vô điều kiện như thế! “Xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì. Hắn vẫn phải doạ nạt hay là giật cướp. Hắn phải làm cho người ta sợ.” Những gì trước giờ Chí “có”, thì ra đều là kết quả của đe doạ, đánh đấm, bạo lực, của mắng chửi, quát nạt, của rượu say và cái trò rạch mặt ăn vạ – tuyệt nhiên không xuất hiện tình yêu thương giữa người với người, dù chỉ một chút ít.
Ở lâu trong cô độc, sống lẻ loi giữa xã hội loài người, sự có mặt của thị Nở, đối với Chí, giống như đốm lửa chợt bùng lên giữa đêm tối. Những gì thị mang đến cho Chí, lớn hơn rất nhiều so với bát cháo hành nấu giản đơn – một thứ vật chất quá đỗi bình thường. Nó là tình thương, tình yêu và tấm lòng nhân đạo cao cả! Thị có thể mang hình hài của kẻ “xấu ma chê quỉ hờn”, mả hủi mấy đời, tính tình thì dở hơi, nhưng trái tim thị vẫn đẹp đẽ và nguyên vẹn, lành lặn, đủ đầy thương yêu với kẻ khác. Chính từ lòng yêu đó, thị đã quan tâm tới Chí, từ những suy nghĩ trăn trở (cái thằng liều lĩnh ấy kể ra thì đáng thương, còn gì đáng thương bằng đau ốm mà nằm còng queo một mình) cho tới hành động thiết thực (chạy đi tìm gạo, nấu cháo hành, mang sang cho Chí, ngồi nhìn Chí ăn, giục hắn ăn nóng,…). Ngọn lửa tình người ấm áp trong thị, cháy sáng và lan toả hơi ấm sang Chí, để ngay đến cả một “con quỷ dữ làng Vũ Đại” cũng “thấy mắt hình như ươn ướt”, khao khát hoà nhập với cuộc sống xung quanh. Niềm vui, hạnh phúc, lòng tin yêu kết thành giọt, đọng trên khoé mắt…
Những tưởng, từ đây, cuộc đời Chí sẽ trôi đi trong yên ả, bồng bềnh giữa hai bờ yêu thương – lương thiện. Thế nhưng, định kiến xã hội đã không cho phép điều ấy, nó cắt phăng sợi dây gắn kết Chí với thế giới, để cái ước mong giản dị và chính đáng “chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải…” của Chí mãi mãi tồn tại trong mộng tưởng. Bà cô thị Nở – đại diện cho tư tưởng xã hội bấy giờ – ngăn cấm thị qua lại với Chí, bà la lối, bà nhiếc móc thị: “đàn ông đã chết cả rồi hay sao mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha, chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”. Một lần nữa, Chí khóc, “Chí ôm mặt khóc rưng rức”. Ở đây, nếu hiểu rằng Chí khóc là bởi “thất tình”, bị người yêu từ chối sẽ là không chính xác. Hơn cả một người bạn, người yêu, thị Nở chính là sợi dây quan trọng, kết nối Chí với cuộc đời, là người “mở đường” cho hắn. Bị thị Nở từ chối tình yêu cũng tức là bị đẩy lùi khỏi thế giới con người, cây cầu nối kết với thế giới con người bị đánh sập, Chí vĩnh viễn không còn cách nào có thể trở lại với cuộc đời được nữa.
Giờ phút ấy, Chí ý thức đầy đủ về hoàn cảnh, thấy rõ cái bi kịch đã và đang nhấn chìm cuộc đời mình. Rượu cho phép Chí say suốt nhiều năm qua, nhưng không còn đủ sức cho Chí quên ở hiện tại. Chí “càng uống lại càng tỉnh ra”, mà rồi “tỉnh ra, chao ôi, buồn”. Nói cách khác, nỗi đau thân phận quá lớn, hiện thực quá phũ phàng đã khiến Chí không thể nào vùi lấp. Bao nhiêu phẫn uất, dồn nén, bao nhiêu đắng cay tích tụ suốt hơn bốn mươi năm qua nay thoát ra trong tiếng khóc “rưng rức”. Ấy là tiếng khóc tủi hổ, cay đắng, đau đớn đến xé lòng, tiếng khóc của một số phận sinh ra là kiếp người nhưng phải mang cuộc đời của một con quỷ dữ.
Người ta nói: nước mắt đàn ông còn khó hơn cả đãi cát tìm vàng. Với Chí Phèo – “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, nước mắt đáng được coi như một thứ xa xỉ. Thế mà Chí đã khóc, bưng tay, ôm mặt mà khóc. Nó là biểu hiện cao nhất cho tâm trạng phẫn uất, đau khổ cùng cực của Chí. Chí nhận ra mình đã mãi mãi bị đấy ra khỏi thế giới loài người, mãi mãi không được công nhận như một con người đích thực. Chí đã từng dùng đến tiếng chửi như thứ ngôn ngữ giao tiếp với loài người, để rồi nhận lại duy nhất sự im lặng, hoàn toàn không một lời đáp trả. Chí sợ hãi trước tuổi già “đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn cả đối rét và ốm đau” nên sung sướng, cảm động khi bất ngờ nhận thấy vẫn có người quan tâm, chăm sóc cho Chí. Chí thiết tha, khao khát hoàn lương nhưng không thể được nữa, Chí đã chết tức tưởi trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời.
So sánh giữa hơn bốn mươi năm tồn tại của Chí với thời gian “sống” thực sự chỉ vỏn vẹn năm ngày, sao mà nó ngắn ngủi đến thế? So sánh hành trạng thường ngày của Chí với những giọt nước mắt bất lực kia, sao mà nó nhỏ bé, yếu ớt, đớn đau đến thế? Nhưng chỉ cần năm ngày được sống ấy, chỉ cần những giọt nước mắt nhỏ bé ấy đủ chuộc lại nhân tính, đủ tạo nên ý nghĩa sự sống cả một đời! Ngòi bút Nam Cao quả thực đã đạt đến tài năng bậc thầy trong cách diễn tả tâm lí nhân vật. Tiếng khóc “rưng rức” của Chí cũng là tiếng lòng thổn thức, tiếng nói của nỗi đau, bi kịch số phận của một kiếp người đáng thương trong xã hội khi ấy.
Bên cạnh khả năng bộc lộ cảm xúc tâm lí nhân vật, hình ảnh giọt nước mắt Chí Phèo còn góp phần phơi bày hiện thực xã hội bấy giờ. Ở đó, đồng tiền và cường quyền nắm giữ tất cả, đẩy đưa bao nhiêu cảnh vô tội đi đến đường cùng tha hoá, rồi chính nó lại phủ nhận người ta từ bờ mê trở về bến giác. Đồng thời, cũng qua chi tiết nhỏ, bạn đọc thấy được cái nhìn nhân đạo của nhà văn. Với Nam Cao, nước mắt là thấu kính biến hình của vũ trụ, là sự cứu chuộc cho nhân tính: Còn biết khóc nghĩa là còn biết đau, biết xót, còn giữ được nhân tính trong mình. Một tâm hồn biến chất, cằn cỗi, tưởng chừng đã thành “thú tính”, nhưng chỉ cần chất xúc tác mang tên tình thương, tâm hồn ấy sẽ biết hướng thiện, biết khát thèm, hi vọng một ngày nào đó mình lại được “nhận vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”.
Như đã nói, trên trang viết của Nam Cao thường thấy xuất hiện hình ảnh giọt nước mắt. Đó là lão Hạc (Lão Hạc) với khuôn mặt nhăn nhúm, méo mó, “cố ép cho nước mắt chảy ra” khi cay đắng kể cho ông giáo nghe: “Hoá ra tôi đến bằng này tuổi đầu, còn lừa một con chó”, là lời tự xỉ vả mình trong nước mắt đầm đìa của văn sĩ Hộ (Đời thừa) : “Anh… anh… chỉ là… một thằng… khốn nạn!…”, là nước mắt âm thầm của anh cu Chuột (Nghèo) trước khi tự kết liễu đời mình vì không muốn thêm gánh nặng cho gia đình… Ở đâu, những giọt nước mắt ấy cũng hiển hiện như một bằng chứng đầy đủ cho đói nghèo, khổ đau, những kiếp người cùng cực lúc bấy giờ. Và ở đâu, ẩn sau giọt nước mắt cũng nhức nhối một trái tim nhân đạo thổn thức của nhà văn.
Gấp trang sách lại, ta vẫn nghe đâu đây những tiếng nức nở tuyệt vọng, vẫn thấy cái lắc đầu buồn bã chua chát… Chí Phèo đã chết, chết ngay trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống. Và hình ảnh giọt nước mắt của Chí ghi lại trong tâm hồn người đọc như một ám ảnh không nguôi, phản ánh một cách sâu sắc hoàn cảnh xã hội tối tăm khi ấy, đã bóp nghẹt sự sống, nhẫn tâm đày đoạ một con người phải xa rời kiếp người, mãi mãi phải mang lốt “quỷ dữ”. Hơn hết, đằng sau tất cả, có thể thấy tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao: cảm thông với nỗi đau nhân vật, dùng yêu thương để cảm hoá tâm hồn, hướng người ta tới ánh sáng lương thiện…
Lương Thị Thu Nga HS lớp 12Anh1
Trường THPT chuyên XYZ
 
 

  1. Phần kết luận

Hê ghen từng ví các chi tiết nghệ thuật như những con mắt giúp ta nhìn thấu suốt đối tượng. Nắm được đặc điểm, vai trò… của chi tiết nghệ thuật đồng thời có kĩ năng đầy đủ về dạng bài phân tích, cảm nhận các chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm là việc làm hết sức cẩn thiết đối với học sinh. Bằng tài năng, tâm huyết và sự nhạy cảm văn chương, người giáo viên cũng đồng thời phải là người nghệ sĩ nắm giữ và chỉ huy đội ngũ chi tiết nghệ thuật độc đáo, làm phong phú bài dạy của mình, đồng thời truyền cho học sinh tình yêu với văn chương nghệ thuật.
Trong phạm vi một chuyên đề hội thảo, chúng tôi đã cố gắng trình bày những vấn đề quan trọng về chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương tự sự. Rất mong sự góp ý của quý thầy cô để chuyên đề hoàn thiện hơn nữa, trở thành một tài liệu thiết thực cho học tập và giảng dạy trong nhà trường.
 
 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *