Mục lục
- I. LÍ THUYẾT
- II. THỰC HÀNH
- Đề bài 1:
- Đề bài 2:
- Đề bài 3:
- Đề bài 4:
- Đề bài 5:
- Đề bài 5:
- Đề bài 6:
- Đề bài 7:
- Đề bài 8:
- Đề bài 9:
- Đề bài 10:
- Đề bài 11:
- Đề bài 12:
- Đề bài 13:
- Đề bài 14:
- Đề bài 15:
- Để bài 16:
- Đề bài 17:
- Đề bài 18:
- Đề bài 19:
- Đề bài 20:
- Đề bài 21:
- Đề bài 22:
- Đề bài 23:
- Đề bài 24:
- Đề bài 25:
- Đề bài 26:
- Đề bài 27:
- Đề bài 28:
- Đề bài 29:
- Đề bài 30:
- Đề bài 31:
- Đề bài 32:
- Đề bài 33:
- Đề bài 34:
- III. ĐỀ LUYỆN Ở NHÀ
I. LÍ THUYẾT
Truyện ngắn (TN) là hình thức tự sự cỡ nhỏ, nội dung thể loại truyên ngắn bao gồm hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự, sử thi… nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ. TN có một số đặc điểm cơ bản sau:
1. Về dung lượng:
TN có dung lượng nhỏ, ngắn gọn mà cô đúc nên có sức ám ảnh lớn. Nó tập trung vào một hoặc một vài biến cố trong một không gian, thời gian nhất định, tạo ra ấn tượng mạnh mẽ và sự liên tưởng cho người đọc. Ví dụ (VD): TN Vi hành của Nguyễn Ái Quốc dịch ra tiếng Việt chỉ hai trang sách, được viết dưới hình thức một bức thư kể về một sự kiện là tác giả bị nhận nhầm là Khải Định. Cốt truyện không có gì, sự kiện đơn giản, dung lượng rất ngắn nhưng truyện lại có sức công phá lớn, tác động mạnh mẽ vào ý thức, khêu gợi trí tưởng tượng của người đọc để đặt ra vấn đề chính trị – xã hội, vấn đề dân tộc, vấn đề đấu tranh….
2. Về đề tài:
TN đề cập đến mọi đề tài phong phú, đa dạng, chạm đến mọi ngóc ngách đời sống con người. Trên cùng một đề tài, mỗi nhà văn lại có cách khai thác khác nhau, đem lại sắc thái riêng cho tác phẩm của mình
VD: Cùng viết về đề tài người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, Ngô Tất Tố đề cập đến sự bần cùng hóa, phá sản về vật chất của họ; còn ngòi bút Nam Cao lại xoáy vào sự tha hóa về nhân cách, phá sản về tinh thần ở những con người ấy.
3. Về kết cấu:
Tuy dung lượng nhỏ nhưng TN có thể có những kết cấu linh hoạt. Kết cấu TN không gồm không gian, thời gian nhiều tầng bậc, nhiều tuyến, mà được tổ chức theo kiểu tương phản, liên tưởng. TN có thể có các kiểu kết cấu sau đây:
– Kết cấu vòng tròn (đầu cuối tương ứng): CHÍ PHÈO (Nam Cao)
– Kết cấu theo trục thời gian: Truyện được kể theo thời gian, theo diễn biến của dòng sự kiện: Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)
– Kết cấu tâm lý: Truyện được kể men theo dòng tâm lý nhân vật (NV), làm sáng rõ nội tâm NV và tạo sức hấp dẫn cho câu chuyện: Đời thừa (Nam Cao)
– Kết cấu đồng hiện: Nhà văn miêu tả sự kiện, quan sát tình huống ở các địa điểm khác nhau trong cùng một thời điểm. Kiểu kết cấu này đem lại khả năng mở rộng dung lượng cho tác phẩm: Bức tranh (Nguyễn Minh Châu).
– Kết cấu trùng phức (kết cấu truyện lồng trong truyện): Người kể chuyện đứng ra ngoài, đóng vai trò là đạo diễn để tổ chức diễn biến câu chuyện qua lời kể, qua đó hoàn thiện chân dung NV: Mảnh trăng cuối rừng (Nguyễn Minh Châu).
– Kết cấu mở: Truyện kết thúc nhưng cái kết còn để ngỏ, mở ra những khả năng liên tưởng rộng lớn: CHÍ PHÈO (Nam Cao) Vợ nhặt (Kim Lân).
4. Về cốt truyện:
Cốt truyện là một hệ thống cụ thể những sự kiện, biến cố, hành động trong tác phẩm tự sự và tác phẩm kịch thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các tính cách trong một hoàn cảnh xã hội nhất định nhằm thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Cần phân biệt 2 khái niệm: cốt truyện và sườn truyện.
Thuật ngữ sườn truyện dùng để chỉ những nét bao quát nhất của một câu chuyện, bao gồm những sự kiện chính, những biến cố chủ yếu cắm mốc cho sự phát triển của cốt truyện. Nó có thể được vay mượn từ nước này sang nước khác, từ nhà văn này sang nhà văn khác trong quá trình giao lưu văn hóa. Dĩ nhiên sự mô phỏng sườn truyện không có nghĩa là sao chép của người khác mà vẫn có một khoảng rộng rãi cho sáng tạo của người nghệ sĩ. Việc Nguyễn Du vay mượn sườn truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân là một ví dụ cụ thể. Sự sáng tạo ấy được thể hiện trên nhiều phương diện, từ thể loại, kết cấu, ngôn ngữ, đến việc xây dựng nhân vật và chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Cũng có thể nói như vậy giữa Iphighêni của Euripidơ và Iphighêni của Racine, giữa Le Cid của De Catro và Le Cid của Corneille.
Nếu sườn truyện chỉ là cái khung thì cốt truyện đã là một hệ thống biến cố, sự kiện cụ thể để diễn đạt cái khung ấy. Cốt truyện là sườn truyện đã được chi tiết hóa, hình tượng hóa một cách cụ thể, sinh động qua một chủ thể sáng tạo. Có thể nói cốt truyện là một cái gì độc đáo, không lặp lại, gắn bó trực tiếp với những yếu tố khác làm cho tác phẩm văn học trở thành một chỉnh thể nghệ thuật.
Có thể kể lại sườn truyện một cách dễ dàng nhưng khó có thể kể lại đầy đủ cốt truyện của một tác phẩm, nhất là một tác phẩm lớn. Khi có người đề nghị kể lại cốt truyện của một tác phẩm, L Tônxtôi cho rằng cứ đọc toàn bộ tác phẩm sẽ khắc biết cốt truyện là gì.
– Cốt truyện là một đặc trưng thi pháp của TN vì nó là kết quả của sự sáng tạo của nhà văn, là một phương thức khắc họa số phận và tính cách NV, qua đó thể hiện đời sống một cách chân thực.
– Dựa vào cốt truyện, có thể chia làm hai loại truyện:
+ Truyện không có cốt truyện (hoặc cốt truyện rất mờ nhạt): do chủ ý nghệ thuật của nhà văn chỉ nhằm thể hiện diễn biến tâm trạng nhân vật trong mối liên hệ với hoàn cảnh. Truyện chỉ có những ý tưởng, không có sự kiện gay cấn, thời gian cụ thể, thậm chí không có đầu đuôi (TN Thạch Lam).
+ TN có cốt truyện rất chú ý xây dựng những tình tiết, sự kiện bộc lộ tính cách của nhân vật và thúc đẩy hướng phát triển, vận động của mạch truyện. Bản thân cốt truyện là hệ thống các sự kiện, được chia theo lớp lang từ đầu đến cuối truyện. Các sự kiện càng gay cấn, nổi bật càng tạo kịch tính, sức hấp dẫn cho truyện (CHÍ PHÈO – Nam Cao)
5. Về nhân vật: (Xem thêm mục Nhân vật văn học – phần LLVH)
– NV là linh hồn của tác phẩm, là người phát ngôn cho tư tưởng của nhà văn. Do đó, xây dựng NV là điểm quan trọng của TN.
– NV TN ít hơn tiểu thuyết và thường bắt buộc phải được xây dựng theo nguyên tắc điển hình hóa. NV phải được đặt trong một hoàn cảnh cụ thể, vừa mang tính chung phổ quát vừa mang tính riêng độc đáo. Trong TN, NV là một mảnh nhỏ của thế giới, là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người, phát ngôn trực tiếp hoặc gián tiếp cho tư tưởng nhà văn.
– Ngoài ra, còn có loại NV tư tưởng.
6. Về điểm nhìn và phương thức kể chuyện:
* Điểm nhìn:
Điểm nhìn là vị trí, chỗ đứng để xem xét, miêu tả, bình giá sự vật, hiện tượng trong tác phẩm. Trong tác phẩm tự sự, tương quan giữa nhà văn và chủ đề trần thuật hay giữa điểm nhìn của người trần thuật với những gì anh ta kể là điều đặc biệt quan trọng. Điểm nhìn nghệ thuật được xem như một camera dẫn dắt người đọc vào mê cung văn bản ngôn từ. Khi nghiên cứu điểm nhìn nghệ thuật, người ta chia điểm nhìn thành các loại như điểm nhìn tác giả, điểm nhìn nhân vật, điểm nhìn không gian, điểm nhìn thời gian, điểm nhìn tâm lý, điểm nhìn tư tưởng, điểm nhìn tu từ… Trong nghệ thuật trần thuật, sáng tạo của nhà văn trước hết thể hiện ở cách “ứng xử” với câu chuyện để tạo ra sự đa dạng của các điểm nhìn nghệ thuật.
* Phương thức kể chuyện:
– Trong TN, người ta thường dùng nhiều cách kể chuyện. Các nhà văn thường thay đổi cách kể và có thể có các hình thức kể hỗn hợp. Có hai hình thức phổ biến là:
+ Tường thuật lại quá trình, diễn biến sự việc: Vợ nhặt (Kim Lân)
+ Miêu tả lại diễn biến sự kiện: Vi hành (Nguyễn Ái Quốc)
– Để nhận thức phương thức kể chuyện, người ta căn cứ vào các tình huống kể chuyện:
+ Tình huống khách quan: Tác giả đứng bên ngoài kể lại điều xảy ra: Chiếc lá cuối cùng (Ohenry)
+ Tình huống chủ quan: Tác giả hoặc người kể chuyện tự đóng vai trò là nhân vật chính của tác phẩm; kể lại những sự kiện, hành động, việc làm, ý nghĩa hoặc mối quan hệ người – người, hoặc phân tích, bình luận chung.
Cũng cần chú ý đến quan điểm của người trần thuật trong TN. Quan điểm đó thể hiện trong cách kể, nhưng cũng có khi thái độ bề mặt qua ngôn ngữ lại đánh lừa ta (CHÍ PHÈO – Nam Cao). TN cũng thường có viễn cảnh – khung cảnh được mở ra trong tương lai mà qua tác phẩm người đọc phát hiện hoặc cảm nhận được.
7. Về cách xây dựng tình huống:
– Tình huống truyện là “cái tình thế của câu chuyện”, là cảnh huống chứa đựng trong nó những mâu thuẫn, xung đột hoặc những khả năng tiềm tàng để cốt truyện diễn tiến, phát triển, nhân vật bộc lộ tính cách.
– Vai trò của tình huống truyện trong tác phẩm.
Tình huống truyện có vai trò hết sức quan trọng, được ví như “cái chìa khóa vận hành cốt truyện”. Từ tình huống truyện, các sự kiện, biến cố của cốt truyện được phát triển, tính cách nhân vật được bộc lộ. Việc giải quyết những mâu thuẫn, xung đột trong tình huống truyện sẽ bộc lộ rõ tư tưởng chủ đề của tác phẩm và dụng ý nghệ thuật của tác giả. Việc sáng tạo nên các tình huống độc đáo biểu hiện khả năng quan sát, khám phá bản chất cuộc sống, bản chất con người của nhà văn.
– Tình huống là thời điểm, khoảnh khắc nhất định trong tác phẩm, ở đó tập trung điểm nút chủ đạo trong tác phẩm của nhà văn. Tạo tình huống là một đặc điểm thi pháp TN. Do dung lượng nhỏ, TN buộc phải tìm đến một tình huống – tức là một khoảnh khắc đặc biệt trong đời sống – để thể hiện tập trung mối quan hệ con người, bật sáng tư tưởng của bản thân tác giả. TN có thể có một hay nhiều tình huống, tạo thành một hệ thống.
– Các kiểu tình huống truyện tiêu biểu là: tình huống nhận thức, tình huống tâm trạng, tình huống hành động.
-> Tình huống TN thường rất độc đáo, ấn tượng, tạo hiệu quả thẩm mĩ cao.
8. Về chi tiết nghệ thuật:
– Theo Từ điển thuật ngữ văn học, chi tiết nghệ thuật là: “Các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng”. Tuỳ theo sự thể hiện cụ thể, chi tiết nghệ thuật có khả năng thể hiện, giải thích, làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm. Chi tiết nghệ thuật gắn với quan niệm nghệ thuật về thế giới con người, với truyền thống văn hoá nghệ thuật nhất định.
Như vậy, chi tiết nghệ thuật gắn với quan niệm nghệ thuật và quan niệm nhân sinh của nhà văn. Đối với người đọc khi nhận biết được các chi tiết đắt giá trong tác phẩm, chúng ta có thể làm sáng tỏ được ý nghĩa của hình tượng nghệ thuật, tư tưởng chủ đề của tác phẩm và hiểu rõ ý đồ sáng tạo của nhà văn.
– Đây là một yếu tố giữ vai trò trọng yếu trong tác phẩm tự sự. TN có thể thiếu cốt truyện nhưng không thể thiếu chi tiết nghệ thuật.
– Chi tiết trong TN hay tiểu thuyết đều nhằm bộc lộ tính cách, tâm tư NV, đan dệt nên các tình huống truyện, đều cùng có hai loại chi tiết: Chi tiết trung tâm và chi tiết phụ trợ. Nhưng chi tiết ở TN thường ẩn chứa dung lượng phản ánh rất lớn. Cũng có nghĩa là tính cô đọng, hàm súc và tượng trưng của chi tiết cao. Một chi tiết nổi bật có thể gợi cho người đọc liên tưởng đến cả một trạng thái nhân sinh xã hội, suy rộng ra bề sâu, bề xa của nội dung phản ánh.
9. Về ngôn ngữ:
– Ngôn ngữ TN rất chọn lọc, cô đúc.
– Ngôn ngữ TN hiện đại còn có các tính chất: tính biểu cảm, tính chính xác, tính hình tượng, tính hệ thống, tính đa thanh, tính đối thoại.
– Đặc điểm trần thuật của TN: Tính chấm phá. Do không phản ánh cả một quá trình cuộc sống trong không gian rộng, thời gian dài như ở tiểu thuyết nên TN thiên về lối hành văn khơi gợi hơn là miêu tả tỉ mỉ, câu văn nhiều ẩn ý, tạo chiều sâu cho tác phẩm.
Trên đây là những đặc điểm tiêu biểu của Truyện ngắn. Đó chính là những định hướng để chúng ta có thể tiếp cận, phân tích những Truyện ngắn cụ thể
10. GIÁ TRỊ HIỆN THỰC VÀ GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO TRONG TRUYỆN NGẮN
VH là một hình thái ý thức XH đặc thù. Nó cùng với các bộ môn NTkhác tạo nên diện mạo tinh thần của một dân tộc. Nếu như phương thức phản ánh của hội họa là màu sắc, của âm nhạc là giai điệu, của kiến trúc là hình khối,…thì của VH chính là ngôn từ NT. Vì thế cho nên, bản thân VH gắn bó chặt chẽ với ngôn ngữ dân tộc và là một trong những kênh quan trọng để nuôi dưỡng và phát triển hệ thống vốn từ tiếng Việt cùng với các quy tắc sử dụng nó.
Mặt khác, văn chương cũng như tất cả các loại hình NTkhác đều hướng tới việc phản ánh hiện thực, tái tạo hiện thực hoặc xây dựng một hiện thực viễn tưởng. Như thế, đối tượng phản ánh của nó chính là con người, cuộc đời và mục đích hướng tới cũng chính là cải tạo XH, hướng con người đến những giá trị tốt đẹp của cuộc sống. Bởi vậy cho nên, trong các giá trị căn bản của VH, người ta không thể không nói đến hai giá trị cốt lõi – giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.
1. Giá trị hiện thực
Giá trị hiện thực của TP VH là toàn bộ hiện thực được nhà văn phản ánh trong TP VH, tùy vào ý đồ sáng tạo mà hiện tượng đó có thể đồng nhất với thực tại c/shoặc có sự khúc xạ ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết hiện thực trong các TP văn chương đều là hiện thực được hư cấu. Nó có ý nghĩa phản ánh hiện thực của một thời kỳ trên nhiều góc diện khác nhau hơn là các hiện thực cụ thể.
Khi làm các bài tập làm văn có dạng: Anh/ chị hãy trình bày giá trị hiện thực trong TP….? Học sinh cần xác định rõ thế nào là giá trị hiện thực, nói cách khác, cần nêu cách hiểu hay khái niệm về giá trị hiện thực. Việc nhận thức đúng, đủ sẽ giúp cho người học xác định chính xác các đặc điểm căn bản của nó, từ đó hoàn thiện được bài viết một cách tốt nhất.
Về căn bản, giá trị hiện thực gồm 2 đặc điểm chủ yếu sau:
– Đặc điểm thứ nhất: làm rõ các hiện thực được nhà văn đưa vào trong TP. Nói cách khác, TP đó phản ánh hiện thực gì? trong giai đoạn nào? Hiện thực đó được thể hiện qua những nét tiêu biểu nào? Ý nghĩa của việc phản ánh hiện thực ấy là gì?
– Đặc điểm thứ hai: Con người điển hình. Đây là nét đặc trưng của TP hiện thực. Lẽ đương nhiên gắn với mỗi thời kỳ, mỗi XH nhất định, bao giờ cũng có mẫu người đại diện cho toàn XH. Mẫu người ấy được nhà văn khái quát và xây dựng lại thành cách hình tượng điển hình trong TP của mình. Do vậy, muốn làm rõ giá trị nhân đạo của một TP nào đó, cần phân tích được hình tượng nhân vật điển hình trên các phương diện: khắc họa ngoại hình, tính cách, hành động, lời nói,….nhân vật đó đại diện cho tầng lớp, giai cấp hay lớp người nào trong XH? Nó có thể hiện tiếng nói chung cho lớp người nào không? Bằng việc xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong TP, tác giả mong muốn đạt được điều gì? Hay nhân vật điển hình giúp tác giả thể hiện hiện thực được phản ánh như thế nào?
Luôn nhớ là bất kỳ chi tiết NT nào của TP đều có ý nghĩa của nó, ý nghĩa đó độc lập tương đối, song phải luôn được đặt trong chỉnh thể để có được cái nhìn, cách đánh giá đúng đắn nhất.
2. Giá trị nhân đạo
Là một giá trị cơ bản của những TP VH chân chính được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn với nỗi đau của những con người, những cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống; Đồng thời, thể hiện sự nâng niu, trân trọng với những nét đẹp trong tâm hồn và niềm tin khả năng vươn dậy của con người dù trong bất kỳ hòan cảnh nào của cuộc đời.
Để làm rõ giá trị nhân đạo của một TP, cần phân tích được các khía cạnh sau:
– Tố cáo XH: đây chính là cái hoàn cảnh chung mà ở đó nhân vật bị đẩy vào các hoàn cảnh bi đát, đau khổ. Thông thường ở phương diện tố cáo, các nhà văn thường thể hiện quan điểm lên án, phê phán với các tầng lớp thống trị, những kẻ ăn trên ngồi trốc, ỷ mạnh hiếp yếu, trà đạp c/s con người và làm băng hoại các giá trị đạo lý.
– Ca ngợi: có thể ca ngợi một truyền thống tốt đẹp nào đó hoặc ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của một con người hoặc một lớp người trong XH. Đây chính là những vẻ đẹp bị lấp vùi bởi sự thống trị, đàn áp.
– Thương cảm, bênh vực: xuất phá từ việc phát hiện, khám phá được những nét đẹp ẩn tàng của nhân vật, hoặc nhận thức được hoàn cảnh đã đẩy những người tốt đẹp, lương thiện vào đường cùng, hoặc đẩy họ vào con đường tội lỗi nên các nhà văn bày tỏ niềm thương cảm với họ, tạo ra những tình huống, hoặc xây dựng những nhân vật phụ để làm chỗ dựa, bênh vực, che chở cho họ, giúp họ vượt qua những khó khăn, thách thức và vươn lên khẳng định bản thân, khẳng định niềm tin, ước mơ và khát vọng trong cuộc sống.
– Chỉ ra con đường, lối thoát cho nhân vật: Đặc điểm này không hoàn toàn có trong tất cả các TP. Nó phụ thuộc vào nhận thức và khả năng dự đoán trước hiện thực của nhà văn, nhờ đó nhà văn chỉ ra được con đường giải quyết những bế tắc của số phận nhân vật, hoặc tạo ra những chi tiết viễn tưởng, kỳ ảo như một lối thoát cho nhân vật khi mà mọi nẻo đường ở thực tại hay ở chốn nhân gian đều không có khả năng thay đổi được hoàn cảnh.
Kinh nghiệm viết truyện ngắn của các nhà văn.
– Bùi Hiển: Truyện ngắn lấy một khoảnh khắc trong cuộc đời một con người mà dựng lên. Có khi nhân vật đặt trước một vấn đề phải băn khoăn, suy nghĩ, lựa chọn, quyết định. Có khi chỉ là một cảnh sống làm việc bình thường, trong đó nhân vật biểu lộ ý chí tình cảm của mình. Có khi có những hành động mãnh liệt những tình tiết éo le. Có khi chỉ là một tâm trạng, một nỗi vui buồn, một ý tình chớm nở. Nhưng phải chọn khoảnh khắc mà nhân vật thể hiện đầy đủ nhất (trong khía cạnh cần thể hiện)
– Nguyễn Minh Châu: Tôi thường hình dung thể loại truyện ngắn như mặt cắt giữa một thân cây cổ thụ: chỉ liếc qua những đường ván trên cái khoảng gỗ tron tròn kia, dù sau trăm năm vẫn thấy cả cuộc đời của thảo mộc.
Nói đến truyện ngắn là nói đến nghệ thuật của bố cục và sự hàm súc. Kỹ thuật viết truyện ngắn– nó có gì giống như kỹ thuật của người làm pháo: dồn nén tư tưởng vào trong một cái cốt truyện thật ngắn gọn, thật tự nhiên. Cho nên những người viết truyện ngắn bậc thầy đều cao tay trong kỹ thuật dựng truyện và tinh xảo trong ngôn ngữ
– Nguyên Ngọc: Truyện ngắn mang rất rõ cái chất của từng người viết, nhất là cái chất quả quyết, đột ngột. Viết truyện ngắn phải có nghề lắm. Vả lại, phải viết về những cái mới, hững cái không dễ thấy, nhưng ở chiều sâu của nó, cuộc đời đang đặt ra.
– Nguyễn Thành Long: Truyện ngắn phải mang dấu ấn của tác giả biểu hiện sự tồn tại của tác giả. Dấu ấn ấy trước hết là tấm lòng đằm thắm của anh sau đó là bút pháp, giọng nói, nhịp điệu câu chuyện của anh, những “cái áo”, “làn da” của tấm lòng tác giả. Nếu không có gì để nói, làm sao anh nâng nổi ngòi bút của anh cho được.
Nhà văn phải luôn luôn để ý, ghi nhạn ngẫm nghĩ. Bắt tay một người con gái, ta không thể nói vắn tắt: “Tôi bắt tay cô ta”. Bàn tay ấy nồng ấm, hay lạnh, hay hờ hững, hay trơn như lươn.
– Nguyễn Quang Sáng: Viết truyện ngắn là chơi bố cục, thú lắm. Theo tôi quan niệm, truyện ngắn phải có “chuyện” tức có thể kể lại cho người khác nghe được. Mà muốn kể, câu chuyện phải chặt chẽ, hấp dẫn. Yêu cầu bố cục đặt ra từ đấy. Học các nhà văn nước ngoài, truyện ngắn nước ngoài cũng trông vào bố cục. Như Môpatxăng, như truyện ngắn Nga, toàn là bố cục khiếp cả.
– Tô Hoài: Người viết truyện ngắn phải rèn luyện đến từng dấu phẩy. Và anh chỉ viết được những gì anh hiểu khá kỹ càng. Có thể nói truyện ngắn đòi hỏi nhà văn phải lương thiện rất mực.
Tôi cho rằng truyện ngắn là một thể văn tập cho người viết nhiều nết quý lắm. Chỉ với truyện ngắn, người ta mới biết tận dụng từng chữ, lo săn sóc từng chữ. Nhà văn mình thường yếu, không tạo được phong cách riêng. Truyện ngắn đòi hỏi hoàn thiện, ở đây ta được rèn luyện đến việc dùng từng dấu phẩy…Nếu ký nặng về phần sự thực để minh hoạ ý thì truyện ngắn đã đứng hẳn ở phía của người sáng tạo.
Một truyện ngắn hay, không chỉ có ý nghĩa ở chủ đề tư tưởng và nhân vật mà từng câu, từng chữ của truyện ấy sẽ tạo nên nội dung cái hay cho chủ đề tư tưởng và nhân vật. Mỗi chữ có sức mạnh riêng đồng thời sức mạnh hoà chung cả hai phía ấy dựng nên hồn chữ, hồn câu toàn bài…
– Nguyễn Công Hoan: Khi tôi thấy một hiện tượng (một câu nói, một cảnh, một việc) làm cho tôi xúc động, nếu bản thân hiện tượng ấy chưa thành truyện ngắn được, vì nó chỉ có thân mà chưa có kết, thì lập tức thói quen nghĩ truyện ngắn của tôi kết ngay dược truyện ấy.
Lúc bấy giờ, tuỳ theo cái kết tôi vừa nghĩ ra để tâm vấn đề nói vui hay thảm, chua chát hay nực cười, tôi phỏng theo hiện tượng ấy mà sáng tạo ra truyện, theo hướng vấn đề ấy.
Khi một hiện tượng chỉ gói ghém một ý hay thì tôi dùng hiện tượng ấy làm kết một truyện. Ngay lập tức, câu chuyện tưởng tượng, bố trí sẵn sàng theo cái kết ấy, hiện ra trong óc tôi như mở gói ấy cho tôi trong thấy
II. THỰC HÀNH
Đề bài 1:
Bàn về truyên ngắn có ý kiến ch rằng:“Qua một nỗi lòng, một cảnh ngộ, một sự việc của nhân vật, nhà văn muốn đối thoại với bạn đọc một vấn đề nhân sinh”.
Phân tích truyện ngắn CHÍ PHÈO để làm sáng tỏ ý kiến trên.
Hướng dẫn làm bài
1. Giải thích nhận đinh:
Mở bài:
– Giới thiệu những hiểu biết về tác giả Nam Cao: con người, tài năng, phong cách, đóng góp và vị trí trên văn đàn đặc biệt trong trào lưu hiện thực phê phán.
– “Chí Phèo” là bức tranh bi thảm đầy đau thương của kiếp sống đói nghèo nhưng lương thiện, bị xô đẩy, tha hóa rất đáng cảm thương của những người nông dân.
– Dẫn nhận định về tác phẩm vào: “Qua một nỗi lòng, một cảnh ngộ, một sự việc của nhân vật, nhà văn muốn đối thoại với các bạn một vấn đề nhân sinh”.
Thân bài:
1. Giải thích nhận định
– Văn học lấy con người và cuộc sống làm đối tượng nhận thức, phản ánh. Qua truyện ngắn, thông qua nỗi lòng, một cảnh ngộ, một sự việc của nhân vật, nhà văn muốn phát hiện, khắc họa một hiện tượng, một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hoặc trong đời sống tâm hồn con người.
– Dung lượng truyện ngắn ít nhưng chứa đựng ý nghĩa sâu xa về cuộc sống, nhà văn còn phải gửi gắm những quan niệm, suy nghĩ khát vọng cuộc sống.
– Nhà văn phải tạo những tình huống chứa đựng nhiều ý nghĩ, hành văn hàm xúc, cô đọng, có chi tiết nghệ thuật sâu sắc.
2. Phân tích truyện ngắn “Chí Phèo”:
– Phân tích cảnh ngộ, nỗi lòng của Chí Phèo: Vì sao phải vào tù, ra tù? Khi gặp Thị Nở, Chí Phèo đã thức tỉnh, cảm nhận được cuộc sống, ý thức cuộc đời mình, cảm động vì Thị Nở cho ăn cháo hành.
– Ước mơ trở lại cuộc sống lương thiện, biểu hiện rõ nhất nhân tính của Chí Phèo.
– Thất vọng và đau đớn khi bị Thị Nở từ chối.
– Cuối cùng phẫn uất và tuyệt vọng, tìm đến rượu, càng uống càng tỉnh, nhận rõ tình thế bi kịch của mình, Chí Phèo đã xách dao đến nhà Bá Kiến, giết hắn và tự sát.
– Từ cảnh ngộ, nỗi lòng Chí Phèo tác giả muốn nói:
+ Khẳng định ca ngợi, niềm tin mãnh liệt vào bản chất lương thiện của người nông dân.
+ Đồng cảm với bi kịch của nhân vật.
+ Tố cáo xã hội phong kiến tàn bạo, hủy họai nhân phẩm và tước đoạt quyền sống con người, đẩy họ đến cái chết.
+ Cái chết của Chí Phèo thể hiện xung đột giai cấp. Cảm quan hiện thực nhạy bén của Nam Cao giải quyết vấn đề bằng những biên pháp quyết liệt.
+ Tác giả mong ước có một xã hội tốt đẹp.
– Tài năng truyện ngắn bậc thầy của Nam Cao trong việc xây dựng tâm lí nhân vật, nghệ thuật trần thuật linh hoạt, ngôn ngữ độc thoại nội tâm, cốt truyện đơn giản nhưng đặt vấn đề quan trọng sâu xa, có ý nghĩa về cuộc sống và con người, đa giọng điệu, buồn thương, chua chát, thương cảm.
Kết bài:
– “Chí Phèo đúng là hiện thân đầy đủ nhất của những nỗi khốn khổ, tủi nhục của người của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám
– Hình ảnh người nông dân bị chà đạp, bị hủy hoại từ nhân hình đến nhân tính, được thể hiện bằng nghệ thuật kể chuyện sắc sảo.
– Từ cuộc đời Chí Phèo, nhà văn đã phản ánh những hiện thực của xã hội nhằm tố cáo mạnh mẽ sự tàn nhẫn, bất công của xã hội ấy.
– Khẳng định lại câu nói: “Qua một nỗi lòng, một cảnh ngộ, một sự việc của nhân vật, nhà văn muốn đối thoại với các bạn một vấn đề nhân sinh”, đã thể hiện rõ qua “Chí Phèo”
Đề bài 2:
“Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường tuyệt lộ bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường; để bênh vực cho những người không còn ai bênh vực”.
(Nguyễn Minh Châu)
Anh/chị hiểu như thế nào về nhận định trên? Hãy làm sáng tỏ bằng việc phân tích mối quan hệ Bá Kiến – CHÍ PHÈO – Thị Nở trong tác phẩm CHÍ PHÈO của Nam Cao
Hướng dẫn làm bài
1. Giải thích nhận đinh
– Trước hết: điều kiện cần thiết nhất, quan trọng nhất
– Những người cùng đường tuyệt lộ bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường: Những con người, những thân phận đau khổ, bế tắc, tuyệt vọng….
– Nâng giấc: cảm thông, chia sẻ, an ủi, bênh vực…
=> Nhà văn là người an ủi, động viên, chia sẻ, nâng đỡ con người, đặc biệt là những con người đau khổ. Đồng thời nhà văn phải biết bênh vực, đấu tranh chống cái xấu, cái ác để bảo vệ quyền sống, nhân phẩm của con người, nhất là những con người không còn được ai che chở.
2. Khẳng định ý kiến:
– Xuất phát từ mục đích của sáng tạo nghệ thuật, từ thiên chức của người nghệ sĩ: Nhà văn chân chính là người đến với văn chương từ những điều trông thấy đau đớn lòng về cuộc đời.
– Xuất phát từ đặc trưng của văn học: VH học phản ánh cuộc sống bao giờcũng gắn với việc thể hiện tư tưởng, tình cảm, khát vọng của nhà văn về một thế giới tốt đẹp hơn.
Xuất phát từ vai trò, chức năng của văn học đối với con người; TPVH đích thực bao giờ cũng đồng hành với con người trong cuộc sống; văn chương có thể chia sẻ những mất mát, đau thương, những ngọt ngàovới con người, giúp con người sống nhân ái, mạnh mẽ hơn.
3. Phân tích, chứng minh
– Ý nghĩa của việc xây dựng mqh giữa nhật vật CHÍ PHÈO và những nhân vật khác: Mỗi nhân vật gắn với một bước ngoặt lớn trong c/đ CHÍ PHÈO. Nó có ý nghĩa quan trọng trong việc khắc hoạ tính cách và số phận nhân vật. Từ đó thể hiện tư tưởng nhân đạo của nhà văn.
+ Bá Kiến – CHÍ PHÈO : Đây là mâu thuẫn cơ bản giữa giai cấp thống trị – địa chủ với nông dân. Bá Kiến là người trực tiếp đẩy CHÍ PHÈO và tù, gián tiếp tiếp tay cho nhà tù thực dân biến CHÍ PHÈO thành con quỷ dữ, biến CHÍ PHÈO thành công cụ, tay sai đắc lực, huỷ hoại về nhân hình, huỷ diệt về nhân tính.. đẩy CHÍ PHÈO vào con đường bần cùng, lưu manh hoá…
+ CHÍ PHÈO – Thị Nở: Đây là “điểm sáng” về tình người trong tác phẩm, có ý nghĩa quan trọng trong c/đ CHÍ PHÈO: thức tỉnh bản tính lương thiện trong con người Chí.
– Tư tưởng nhân đạo của Nam Cao trong việc xây dựng mqh giữa các nhân vật
+ Tố cáo XH TD nửa PK đã bóp nghẹt quyền sống của con người, đẩy con người vào con đường lưu manh hoá.
+ Phát hiện và khẳng định phẩm chất tốt đẹp của con người ngay cả khi họ bị huỷ diệt cả nhân hình lẫn nhân tính
+ Trân trọng, đề cao những khát khao hạnh phúc đời thường mà cao đẹp của con người.
Đề bài 3:
“Nhà văn sáng tạo nhân vật để gửi gắm tư tưởng, tình cảm và quan niệm của mình về cuộc đời”.
Hãy giải thích và làm sáng tỏ nhận định trên bằng việc phân tích một nhân vật trong truyện ngắn thuộc chương trình Ngữ văn 11.
Hướng dẫn làm bài
1. Giải thích: Vai trò, ý nghĩa của nhân vật trong truyện ngắn: góp phần thể hiện tư tưởng, tình cảm và quan niệm của nhà văn về cuộc đời.
– Tư tưởng: Nhận thức, lí giải và thái độ của nhà văn với đối tượng, những vấn đề nhân sinh đặt ra trong tác phẩm.
– Tình cảm (thẩm mĩ): Những rung động, cảm xúc đối với thực tại, bộc lộ toàn bộ thế giới tinh thần cũng như cá tính và kinh nghiệm sống của nhà văn.
– Quan niệm (nghệ thuật về cuộc đời): Nguyên tắc tìm hiểu, cắt nghĩa thế giới và con người, thể hiện ở điểm nhìn nghệ thuật, ở chủ đề sáng tác, ở kiểu nhân vật và mqh giữa các nhân vật, cách xử lí các biến cố …của nhà văn.
2. Phân tích nhân vật:
– Chọn được nhân vật đặc sắc
– Phân tích qua các khía cạnh;ngoại hình, nội tâm, ngôn ngữ, hành động, biến cố truyện liên quan đến nhân vật – mqh giữa nhân vật đó với các nhân vật khác trong truyện.
– Từ đó nêu bật tư tưởng, tình cảm, quan niệm của nhà văn về c/đ được thể hiện qua nhân vật vừa phân tích.
Đề bài 4:
“Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp chính ở chỗ không ai ngờ, tìm cái đẹp kín đáo che lấp của sự vật cho người khác một bài học về trông nhìn và thưởng thức”
(Thạch Lam)
Anh/chị hiểu như thế nào về nhận định trên? Hãy làm sáng tỏ bằng việc phân tích hai tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam và Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
Hướng dẫn làm bài
– Làm rõ vai trò, sứ mệnh của nhà văn, mqh giữa nhà văn và c/s, nhà văn với bạn đọc trong việc phát hiện cái đẹp chìm khuất đằng sau sự vật, sự việc, hoàn cảnh….hướng người đọc đến chân trời của cái đẹp trong c/s và con người
– Cái chung và nét riêng của Thạch Lam và Nguyễn Tuân – những nhà văn thuộc trường phái lãng mạn của VH 1930 – 1945 trong việc tìm kiếm, phát hiện cái đẹp
+ Hai đứa trẻ:
. Là cái đẹp thầm kín của trái tim nhân hậu, chân chứa yêu thương trong tâm hồn bé nhở của Liên.
. Cái đẹp hiền hoà của những con người nghèo khổ mà sống với nhau đầy tình nhân ái.
. Cái đẹp mong manh, mơ hồ của những hi vọng về ánh sáng đang chìm lấp trong bóng tối ….
-> giúp người đọc nhận ra, trân trọng, đồng cảm với những khoảnh khắc đẹp những tâm hồn chưa hẳn đã lụi tàn, những c/đ đang cố gắng sống và hi vọng vào một tương lai tươi sáng hơn..
+ Chữ người tử tù: là cái đẹp lí tưởng của tài năng – thiên lương – khí phách đặt trong sự đối nghịch với cảnh ngộ. Cái đẹp đã gặp gỡ, hội tụ, toả sáng và bất tử trong chốn lao tù – nơi mà thường chỉ có cái xấu, cái ác ngự trị.
Đề bài 5:
Bàn về tác phẩm văn chương, có ý kiến cho rằng: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”.
Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy chọn và phân tích một tác phẩm văn học đã học ở chương trình Ngữ văn THPT để làm rõ.
Hướng dẫn làm bài
a. Giải thích
– Chi tiết (ở đây là chi tiết nghệ thuật) -> những hiện thực đời sống được nhà văn tái hiện trong tác phẩm, là đơn vị cấu tạo nên tác phẩm, mang sức chứa lớn về nội dung và nghệ thuật. Tuỳ theo sự thể hiện cụ thể mà chi tiết có khả năng giải thích, tái hiện, biểu hiện…khiến hình tượng nghệ thuật trở nên cụ thể, gợi cảm và sống động, khiến ý đồ tư tưởng của nhà văn hiện hình rõ rệt, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ tư tưởng của tác giả trong tác phẩm.
– Những chi tiết được chọn lọc, gửi gắm mọi tư tưởng, tình cảm của nhà văn, là sự dồn nén những điều mà nhà văn muốn nói .
b. Bàn luận về ý kiến
– Tầm vóc tư tưởng, tài năng nghệ thuật của nhà văn bộc lộ ngay trong chính cách nhà văn lựa chọn và sử dụng chi tiết trong tác phẩm.(dẫn chứng minh họa)
– Một chi tiết dù nhỏ cũng là kết quả lựa chọn, sắp xếp và mô tả của nhà văn, gắn với quá trình tư duy và sáng tạo nghệ thuật của nhà văn khi hình thành một tác phẩm. Nó xuất hiện ở vị trí nào trong mạch vận động của tác phẩm; nó được thể hiện ra sao hoàn toàn phụ thuộc vào con mắt nhìn, khả năng thấu hiểu đời sống, thấu hiểu con người của nhà văn.
– Một chi tiết dù nhỏ song đặt trong mạch vận động của tác phẩm vẫn có vai trò riêng của nó:
+ Với nhà văn: thể hiện ý đồ, tư tưởng một cách thuyết phục, tạo chiều sâu cho tác phẩm.
+ Với người đọc: quá trình đọc tác phẩm là sự giải mã các chi tiết trong tác phẩm (liên hệ với ý kiến của Nguyễn Minh Châu coi chi tiết là lát cắt trên thân cây để thấy cả đời thảo mộc). Một chi tiết dù nhỏ cũng có thể mang chứa thông điệp giúp người đọc thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm, nắm bắt thông điệp của tác giả. Những chi tiết đặc sắc còn tạo hứng thú cho người đọc trong quá trình tiếp nhận tác phẩm.
– Nhà văn lớn: nhà văn có nhiều đóng góp về giá trị nội dung, tư tưởng cũng như nghệ thuật qua những sáng tác của mình.
c. Chọn và phân tích chi tiết trong tác phẩm
– Chọn được chi tiết tiêu biểu, chính xác, hợp lí.
– Lược thuật sự xuất hiện của chi tiết
– Phân tích ý nghĩa của chi tiết để làm nổi bật vai trò của nó trong việc thể hiện ý đồ, tư tưởng của tác giả và tạo nên tính nghệ thuật của tác phẩm.
Đề bài 5:
Nghệ thuật miêu tả tương phản của Nguyễn Tuân và Thạch Lam trong hai tác phẩm Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ.
Hướng dẫn làm bài
a. Giải thích: Đặc điểm của sáng tác lãng mạn và yêu cầu sử dụng nghệ thuật tương phản:
– Đặc điểm của sáng tác lãng mạn:
+ Biểu hiện cái nhìn chủ quan của nhà văn trước cuộc đời- hình tượng nhân vật ít nhiều mang phảng phất bóng dáng cái tôi tác giả.
+ Hướng tới khám phá và thể hiện những gì độc đáo, khác thường, kì lạ.
– Yêu cầu sử dụng nghệ thuật miêu tả tương phản:
+ Hiệu quả của miêu tả tương phản: làm nổi bật các đặc điểm của từng đối tượng, gây ấn tượng mạnh mẽ- phù hợp với yêu cầu của sáng tác lãng mạn.
+ Trở thành biện pháp nghệ thuật đặc thù của sáng tác lãng mạn.
b. Phân tích nghệ thuật miêu tả tương phản trong hai tác phẩm:
* Làm rõ đối tượng thứ nhất:
– Chữ người tử tù:
+ Tính cách và hoàn cảnh:
Hoàn cảnh: Môi trường tù ngục đen tối, xấu xa, cảnh ngộ éo le với những áp lực nặng nề phải đối mặt dễ khiến con người ta tha hoá.
Tính cách: Có nhân cách, lương tâm- khác biệt với thế giới đen tối, tội lỗi; có dũng khí- ở Huấn Cao là dũng khí của bậc anh hùng, ở quản ngục là dũng khí của bậc hiền nhân. Chính nhân cách, lương tâm và dũng khí giúp họ chiến thắng hoàn cảnh.
=> Nguyễn Tuân luôn nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ.
+ Ánh sáng và bóng tối:
Bóng tối: Theo nghĩa thực là của đêm khuya, của buống giam tử tù- nơi ánh sáng không thể lọt qua được; theo nghĩa tinh thần lại chính là cảnh ngộ éo le mà con người phải đối mặt (Huấn Cao- án tử hình, quản ngục- môi trường sống không phù hợp với tính cách con người ông). Là biểu tượng cho cái xấu xa.
Ánh sáng: Theo nghĩa thực là bó đuộc tẩm dầu khói toả như đám cháy nhà- thứ ánh sáng khá mờ nhạt; theo nghĩa tinh thần là ánh sáng toả ra từ cái đẹp của nghệ thuật (chữ Huấn Cao) và của tư thế tâm hồn con người. Chính thứ ánh sáng này soi sáng con đường để những kẻ tri âm đến với nhau.
=> Đó là sự đối lập giữa cái đẹp với cái xấu xa.
* Làm rõ đối tượng thứ 2:
– Hai đứa trẻ:
+ Hoàn cảnh và tính cách:
Hoàn cảnh: Nghèo khó, tù túng, đơn điệu, buồn tẻ – một kiểu hoàn cảnh có thể tạo ra sự chết mòn về tinh thần.
Tính cách: sự hồn nhiên, ngây thơ trong cách nhìn và rung động; sống với một tấm lòng nhân hậu và thế giới tâm hồn trong sáng, phong phú.
=> Tấm lòng yêu thương, cái nhìn trìu mến của nhà văn dành cho những tâm hồn trẻ thơ.
+ Bóng tối và ánh sáng:
Bóng tối: Theo nghĩa thực là của phố huyện trong thời khắc chiều muộn và đêm khuya; theo nghĩa tinh thần là nỗi buồn đang lan toả, thấm thía và trĩu nặng dần trong tâm hồn nhân vật.
Ánh sáng: Theo nghĩa thực là của thiên nhiên (ráng chiều, vì sao đom đóm) và của cuộc sống con người (các loại đèn, bếp lửa); theo nghĩa tinh thần là hồi quang kí ức về một thiên đường đã mất và niềm hi vọng dù le lói, mong manh.
=> Đó là sự đối lập, tương phản giữa cuộc đời thường nhật và khát vọng trong tâm hồn con người.
* So sánh:
– Điểm giống:
+ Cả hai tác phẩm đều phát hiện và miêu tả sự đối lập giữa tính cách và hoàn cảnh.
+ Cả hai tác phẩm đều phát hiện và miêu tả sự đối lập, tương phản giữa ánh sáng và bóng tối mà cả ánh sáng và bóng tối đều hiện diện với nghĩa thực và nghĩa tinh thần.
– Điểm khác: Cách xử lí mối quan hệ cụ thể của tương quan bóng tối- ánh sáng, tính cách- hoàn cảnh:
+ Ánh sáng và bóng tối:
Chữ người tử tù: Sự chiến thắng tuyệt đối của ánh sáng với bóng tối, của cái đẹp với cái xấu xa.
Hai đứa trẻ; Ở cảnh thực, ánh sáng có nguy cơ bị bóng tối nuốt chửng, đè bẹp để rồi thay thế hoàn toàn. Ở đời sống tinh thần, ánh hồi quang kí ức có rực rỡ nhưng cũng nhanh chóng vụt tắt, hi vọng có tồn tại song rất mong manh.
+ Tính cách và hoàn cảnh:
Chữ người tử tù: Sự chiến thắng tuyệt đối của tính cách với hoàn cảnh:
Quản ngục dù sống trong hoàn cảnh đen tối vẫn giữ niềm đam mê cái đẹp và một thiên lương trong sáng.
Huấn Cao dù phải đối diện với án tử hình, với cả một hệ thống hiện thân của thế lực đen tối vẫn hiên ngang bất khuất, vẫn bộc lộ tài năng và tấm lòng đáng quý.
Hai đứa trẻ: hoàn cảnh có sự tác động ở mức độ nhất định:
Cuộc sống nghèo khó, buồn tẻ và không khí buồn lặng của cảnh ngày tàn, chợ tàn thấm vào tâm hồn Liên nỗi buồn man mác.
Những khó khăn trong cuộc sống khiến Liên già trước tuổi- đảm đang tháo vát khi vẫn đang còn tuổi trẻ con.
* Lí giải sự khác biệt:
– Do bối cảnh xã hội, văn hoá đặc biệt và quan điểm sáng tác khác nhau của các nhà văn cùng thời nên tạo nên những nét vừa tương đồng, vừa dị biệt của Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ trong sử dụng nghệ thuật miêu tả tương phản.
– Với Nguyễn Tuân, cảm hứng thẩm mỹ của ông bắt nguồn từ cái đẹp lớn lao, cái cao cả, bi hùng hoặc mô tả những nhân cách lớn… nên thủ pháp nghệ thuật cũng xây dựng dựa trên sự đối lập gay gắt, ánh sáng và bóng tối; tính cách và hoàn cảnh cũng được sử dụng nhằm miêu tả những tương phản mạnh mẽ, những chuyển biến bất ngờ, đột ngột. Đó vừa là một thủ pháp trong xây dựng tình huống truyện, vừa là sự dẫn dắt đi đến kết thúc của sự chiến thắng giữa chân lý, cái đẹp với cái xấu, cái ác
– Thạch Lam do chỉ chú ý đến những cái bình thường, giản dị, nhỏ nhoi trong cuộc sống nên tính cách và hoàn cảnh; ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm của ông không có sự chuyển biến dữ dội, bất ngờ.
KẾT LUẬN:
– Cả hai tác phẩm đều mang màu sắc lãng mạn, thể hiện cái nhìn và những ấn tượng riêng- chủ quan của nhà văn về cuộc sống và con người.
– Xét về mức độ và những biểu hiện cụ thể, có thể thấy Chữ người tử tù làm mẫu mực của kiểu sáng tác lãng mạn còn Hai đứa trẻ dường như đi chênh vênh trên ranh giới giữa hiện thực và lãng mạn nên tuy có gieo vào lòng người đọc những cảm xúc bâng khuâng, những tình cảm man mác và trí tưởng tượng bay bổng, song đồng thời nó cũng đem đến những cảm nhận thấm thía về đời sống hiện thực của con người.
Đề bài 6:
Nói đến CHÍ PHÈO trong tác phẩm cùng tên của nhà văn NC, người ta nghĩ ngay đến một tên say rượu đã huỷ hoại nhân hình lẫn nhân tính.
Hãy phân tích những cái tỉnh trong cơn say triền miên từ lúc ra khỏi tù của CHÍ PHÈO .
Hướng dẫn làm bài
Từ khi ra khỏi tù, CHÍ PHÈO say triền miên, hầu như chỉ có một lần tỉnh, một lần gọi là nhạt rượu và một lần tỉnh trong cơn say.
1. Một lần gọi là nhạt rượu: Là lần CHÍ PHÈO ra khỏi tù, đến nhà BK rạch mặt kêu làng. Đến khi đối thoại với BK là lúc đã nhạt rượu, bắt đầu tỉnh nên CHÍ PHÈO cảm thấy sợ…. Từ thời điểm đó trở về sau, CHÍ PHÈO bị lợi dụng và bị biến thành tay sai đắc lực cho BK.
2. Lần tỉnh táo thứ nhất là sau khi ăn bát cháo hành của TN. Một sự tỉnh tao kì diệu, đã chuyển Chí từ một con quỹ dữ trở thành người khao khát sống cuộc đời lương thiện.
(Đây là phần trọng tâm, yêu cầu phân tích để thấy được ý nghĩa của bát cháo hành, ý nghĩa của ngòi bút nhân đạo của NC)
3. Lần tỉnh trong cơn say: Là lần CHÍ PHÈO cầm giao đến giết BK. Những lời đối thoại trước khi giết BK là lời đối thoại tỉnh táo nhất trong lúc CHÍ PHÈO say nhất
Đề bài 7:
Tư tưởng nhân đạo của NC trong truyện ngắn CHÍ PHÈO trước hết thể hiện ở khát vọng làm người của nhân vật chính.
Phân tích sự ý thức về nhân phẩm của CHÍ PHÈO để làm sáng tỏ
Hướng dẫn làm bài
– Trước hết người đọc nhận ra CHÍ PHÈO vốn là người lao động lương thiện, có nhân cách nhân phẩm. Chí thấy xấu hổ, thấy nhục nhã khi phải lamf những việc theo ý vợ ba BK.Việc biến chất, lưu manh hoá ở CHÍ PHÈO là do XH mà thủ phạm trực tiếp chính là BK.
– ý thức về nhân phẩm chủ mình sau những ngày say triền miên, lần đầu là CHÍ PHÈO gặp TN. Sáng hôm sau tỉnh dậy, Chí thấy lòng “bâng khuâng mơ hồ buồn”. Bên ngoài là tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo, tiếng cười nói của những người đi chợ về…Chí nhớ lại có thời mình ao ước một mái ấm gia đình nho nhỏ…. Bây gìơ Chí thấy “thèm lương thiện,muốn làm hoà với mọi người”
– Lần thứ 2: Sau khi bị TN “”cắt đứt” tình cảm, CHÍ PHÈO thấy tuyệt vọng, không thẻ có cuộc sống bình thường như mọi người. Chí đến nhà BK đòi lương thiện. Đây là lúc tỉnh táo nhất trong cuộc đời Chí. Chí dõng dạc nói với BK “Tao muốn làm người lương thiện”. Chí Phhèo giết BK rồi tự kết liễu đời mình, Chí không có sự lựa chọn nào khác.
=> Kết thúc tác phẩm gợi nhiều xót xa, nhưng tác phẩm đã phản ánh rõ nét nhất sự nhận thức nhân phẩm của nhân vật chính, thể hiện được ý thức của nhân vật, cũng là thể hiện khát vọng làm người của nhân vật, TP đem đến cho người đọc thấy được chiều sâu tư tư tưởng nhân đạo của NC
Đề bài 8:
Đánh giá về sáng tác của NC, tác giả Nguyễn Hoành Khung viết: “Nhân vật của NC rất sinh động, rất sống, vì luôn được soi sáng từ bên trong”.
Hãy phân tích 2 nhân vật: CHÍ PHÈO trong tác phẩm cùng tên và Hộ trong Đời thừa để làm sáng tỏ nhận định trên.
Hướng dẫn làm bài
1. Giải thích:
– Tính cách nhân vật chỉ thực sự hoàn thiện thiện khi nhân vật được khắc hoạ với chiều sâu tâm lí bên trong để giải thích những biểu hiện muôn vẽ bên ngoài.
– Khai thác thành công tâm lí nhân vật, nhà văn thể hiện năng lực nhận thức của mình về con người và cuộc sống để XD những nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình
– NC đặc biệt có sở trường trong việc diễn tả những biến chuyển tinh vi trong đời sống con người. Nói NC hiểu sâu sắc con người và cuộc sống chủ yếu là ở chỗ đó.
2. Phân tích 2 nhân vật để chứng minh
2.1 Nhân vật CHÍ PHÈO: Là nhân vật điển hình cho người nông dân bị lưu manh hoá trước CM. Điều độc đáo là nhà văn đã phát hiển ra đằng sau ngoại hình dữ tợn, hành động tác oai tác quái của CHÍ PHÈO những khá vọng lương thiện vô cùng đẹp đẽ và cao quý.
Đó là sự thức tỉnh của Chí sau khi gặp TN – phép màu nhiệm của tình đời, tình yêu đã cảm hoá hắn. Một chuỗi những nhận thức bất ngờ về bản thân về c/s đã được nhà văn thể hiện vô cùng sinh động. Khát vọng lương thiện trỗi dậy vô cùng mãnh liệt cùng với sự ý thức về h/c cùng quẫn, bế tắc của bản thân đã đẩy CHÍ PHÈO đến những hành động quyết liệt. Quá trình thức tỉnh cùng cái chết của Chí có một ý nghĩa vô cùng sâu sắc.
2.2. Nhân vât Hộ: là nhân vật điển hình về người trí thức nghèo trong XH cũ. Ở nhân vật này nhà văn miêu tả 1 quá trình đấu tranh tư tưởng vô cùng phức tạp, diễn ra thường xuyên trong tâm lí. Đó là sự tự ý thức về bản thân, về cs, đặc biệt là tinh thần tự phê phán của Hộ khi nhận ra mình bị tha hoá về nhân cách, đã phản bội lại những lí tưởng cao đẹp cuả người trí thức. Hộ khao khát muốn vươn lên nhưng lại rơi vào hoàn cảnh cùng quẫn, bế tắc. Bi kịch tinh thần đau đớn của Hộ đã làm sâu sắc hơn ý nghĩa hình tượng nhân vật này
2.3 Về nghệ thuật: Với cả 2 nhân vật, NC đã sử dụng thủ pháp NT linh hoạt, độc đáo, trong đó độc thoại nội tâm là thủ pháp quan trọng. Bên cạnh đó, nhà văn nhập thân vào nhân vật để kể chuyện với 1 giọng điệu trần thật đa thanh. Tất cả đã giúp cho ngòi bút của tác giả khám phá thật sâu sắc chiều sâu bí ẩn trong tâm hồn con người, từ đó toát lên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.
3. Đánh giá chung
NT diễn tả đời sống tâm lí nhân vật là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của NC, một nhà văn hiện thực tỉnh táo và giàu lòng yêu thương
Đề bài 9:
Có ý kiến cho rằng: Văn học là tiếng kêu khắc khoải của con người trước một thực tại chưa bao giờ bằng lòng.
Anh( chị) hiểu ý kiến trên như thế nào?
Hãy làm sáng tỏ bằng một tác phẩm đã học trong chương trình Ngữ Văn 11.
Hướng dẫn làm bài
* Nhận xét chung:
– Văn học từ xưa đến nay có sứ mệnh giải thoát con người khỏi những ẩn ức của xúc cảm bị kìm nén. Và chỉ khi đến với văn chương, sống trong thế giới của văn chương con người mới có thể bộc lộ trọn vẹn nhất mà cũng cụ thể, tỉ mỉ nhất tất cả những khát vọng “đang ngấm ngầm diễn ra” trong lòng mình.
– Văn học không thể tách rời cuộc sống vì cuộc sống là suối nguồn vô tận của văn học. Nhưng văn học không phải chỉ phản ánh hiện thực như cái đã có, đang có mà còn phản ánh cả những cái sẽ có và cần phải có. Vì vậy địa hạt của văn chương không phải chỉ gói trọn trong thế giới hiện thực vật chất bình thường, nó chỉ thực sự bất tử, thực sự “nằm ngoài quy luật của sự băng hoại” (Sê đrin) khi nó vút lên cái tinh thần của loài người, đó là “tiếng kêu khắc khoải của con người trước một thực tại chưa bao giờ bằng lòng”.
-> Ý kiến trên đã bao hàm đầy đủ nội dung, ý nghĩa và sứ mệnh của VH trong cuộc đời.
* Giải thích cụ thể:
– Con người chưa bao giờ bằng lòng với thực tại. Đó là chân lí và cũng là lẽ sống đẹp đẽ nhất của sứ mệnh làm người. Dù muốn hay không, con người vẫn luôn theo đuổi những ước mơ và hoài bão vượt lên thực tại, chính điều đó mà con người vĩ đại.
– Nhưng trên hành trình vượt lên ấy con người luôn gặp phải những bi kịch, không chỉ là bi kịch của tài năng, nhân cách, của sự xung đột mang tính triết học của những cặp phạm trù mà còn có những bi kịch bị kìm toả bởi hoàn cảnh, bởi thực tại… Gánh trên vai sức nặng khủng khiếp ấy, con người tìm đến văn chương như một sự giải thoát, một nơi nương tựa.
– Văn học thực thi thiên chức đẹp đẽ nhất của nó: “nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế” (Hoài Thanh). Nghĩa là, giữa những khúc hoan ca ngây ngất hay giữa những nỗi đớn đau tuyệt vọng, con người chưa bao giờ nguôi ngoai khát vọng mãnh liệt của mình. Vì thế mà văn học “là tiếng kêu khắc khoải của của con người trước một thực tại chưa bao giờ bằng lòng”.
-> Câu nói khẳng định giá trị đích thực của văn chương trong cuộc đời. Chừng nào còn có mặt con người trên thế gian này thì chừng ấy văn chương còn tồn tại để cất lên tiếng kêu khắc khoải và da diết về cõi nhân sinh.
2. Bình luận:
– “Trên trái đất này không có gì làm người ta hài lòng (…) cũng như chính trị, văn học là một hoàn động nhằm chống lại những cái chưa hoàn thiện của con người” (B. Brecht). Đó là những giấc mơ dang dở, những nỗi niềm, bi kịch… vì sự chưa bao giờ được thoả mãn của con người.
– Để nuôi dưỡng những giấc mơ, người ta tìm kiếm ở văn chương, biến văn chương thành nơi chốn để ký thác những tâm tư, những ẩn ức của chính mình. Vì thế, văn chương luôn hoà cùng nhịp thở con người, luôn phập phồng trong những bi kịch và ước vọng muôn thuở.
3. Biểu hiện cụ thể: Chọn một tác phẩm trong chương trình Ngữ Văn 11 để làm sáng tỏ ý kiến trên.
4. Đánh giá:
– Mỗi tác phẩm văn học là một tiếng nói riêng, nhưng dù hồ hởi, hân hoan hay điềm đạm, thâm trầm, dù thảng thốt, day dứt hay dữ dội, mãnh liệt thì cũng đều da diết, khắc khoải trước “thực tại chưa bao giờ bằng lòng”
– Nhờ tiếng kêu ấy, văn học mang trong nó những giá trị lớn lao và sức sống bất diệt.
– Trong quá trình hoàn thiện nhân cách của con người, trong cuộc đấu tranh để phát triển chính nghĩa của nhân loại, trong hành trình vươn tới sự hoàn mĩ, văn học không chỉ là tiếng nói tri âm của con người, nó còn là một phương tiện, một giải pháp để con người bộc lộ trọn vẹn bản thân mình vì “Thiên chức của nhà văn là gieo chủ nghĩa nhân đạo sáng ngời chân lí đến từng con người trên Trái đất” (Aimatop)
Đề bài 10:
“Con người tự ý thức” trong truyện ngắn “Đời thừa ” của nhà văn Nam Cao.
Yêu cầu cần đạt
1. Nêu khái niệm “Con người tự ý thức” và vấn đề “Con người tự ý thức” trong văn học hiện đại Việt Nam.
a. Khái niệm “Con người tự ý thức”.
– Tự ý thức: Khả năng nhận thức trực tiếp tất cả những gì thuộc về bản thân một cách thành thực nhất: tình cảm, khát vọng, năng lực, cá tính, cảnh ngộ…trong mối quan hệ với cuộc đời để cải tạo và hoàn thiện.
– “Con người tự ý thức”: biểu hiện của con người cá nhân – con người theo ý nghĩa triết học, hiện lên với tất cả những gì Người nhất, muốn phát huy bản ngã, phát huy tự do và tình cảm của cá nhân mình….
b. “Con người tự ý thức” trong văn học hiện đại Việt Nam.
– Trong mười thế kỉ văn học trung đại, do sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử, của hệ tư tưởng phong kiến, con người chưa có điều kiện ý thức đầy đủ về cá nhân. Đến đầu thế kỉ XX, cùng với sự đổi thay của xã hội, lịch sử, văn hoá, con người đã được khám phá dưới góc độ “cái tôi”. Ở thời trước, “cái ta” lấn át hoàn toàn, “cái tôi” không có cơ để nảy nở. Đến thời đại này, “cái tôi” trỗi dậy giành quyền sống. Đặc biệt nó trở thành đề tài, cảm hứng, là mục đích sáng tác của văn học lãng mạn, là tinh thần của thơ mới – tiếng nói của “cái tôi” tiểu tư sản mạnh dạn bày tỏ những tâm tư thầm kín, những xúc cảm yêu đương, những khát vọng hưởng thụ…
– Tuy nhiên khi có điều kiện tự ý thức thì con người lại sống trong một môi trường chính trị – xã hội ngột ngạt, phi nhân đạo, đó là chế độ thực dân nửa phong kiến nên càng tự ý thức thì càng thấy bế tắc, rơi vào bi kịch . Các nhà thơ, nhà văn lãng mạn và hiện thực bấy giờ chưa được vũ trang lí tưởng cách mạng vô sản nên trong sáng tác của họ, chúng ta thấy hiện lên “cái tôi” cá nhân hoặc cô đơn, lạc lõng trước cuộc đời, hoặc trốn chạy, chối bỏ cuộc đời bằng những nỗ lực vượt thoát khác nhau, hoặc ru mình trong tình ái, đấu tranh chống lẽ giáo phong kiến ca ngợi tư tưởng văn hóa, văn minh phương Tây….
2. “Con người tự ý thức” trong sáng tác của Nam Cao ở đề tài trí thức tiểu tư sản nghèo.
– Đây là một nét độc đáo trong cảm hứng nhân đạo của Nam Cao và cũng là một thành công lớn của nhà văn. Cốt lõi làm nên thành công ấy bởi ông có một quan niệm mới mẻ , đầy đủ, toàn diện và sâu sắc về con người: Nam Cao quan niệm con người phải có tình yêu thương đồng loại, có lòng nhân ái. Phải làm một việc gì có ích cho xã hội bằng lí tưởng xã hội cao cả, phải có văn hoá, tri thức để có thể phát huy tận độ tài năng của mình, để sống có ý thức và biết thưởng thức vẻ đẹp của văn hoá, văn chương nghệ thuật.
– Chủ đề cá nhân không có trong sáng tác của các cây bút hiện thực lớn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, thảng hoặc có thể tìm thấy trong sáng tác của Nguyên Hồng, Bùi Hiển, Thạch Lam…qua những dằn vặt nội tâm của các nhân vật song lại là nội dung chủ yếu của văn học lãng mạn. Tuy nhiên “cái tôi’ lãng mạn trong khi giãy giụa chống lại xã hội thù địch với nó, nó càng ngày càng khép kín, rút vào “cái tôi” nhỏ bé của minh, tự phát triển trong sự đối lập với xã hội thì Nam Cao lại yêu cầu khẳng định và phát triển cá nhân luôn gắn liền với trách nhiệm xã hội, hướng theo lí tưởng nhân đạo tiến bộ.
– Trong quan niệm của Nam Cao, ý thức cá nhân, sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trong cuộc sống đâu chỉ một chiều là tranh thủ từng giây, từng phút để tận hưởng. Nam Cao đòi hỏi mỗi cá nhân phải biết cống hiến tài năng của mình vào sự phát triển chung của xã hội loài người. Như vậy Nam Cao không chỉ yêu thương, trân trọng con người mà còn yêu cầu cao về con người. Trong sáng tác của mình, ông để cho nhân vật có thể phát triển đến tột độ những gì cao đẹp nhất. Tinh thần nhân văn mới mẻ và sâu sắc âý là một tinh thần lớn, vượt ra ngoài thời đại của Nam Cao.
– Vấn đề tự ý thức của con người được đặt ra sâu sắc, thường trực và ám ảnh trong sáng tác của Nam Cao. Sự tự ý thức ấy như một sự vượt thoát khỏi hoàn cảnh nghiệt ngã của đời mình để bảo vệ nhân cách của bản thân. Kết cục của sự vượt thoát ấy nếu không phải là cái chết vật vã thì cũng là sự vật vã không kém về mặt tinh thần trong đấu tranh với bản thân để hướng tới một sự sống đích thực xứng đáng với một con người.
3. “Con người tự ý thức’ trong “Đời thừa”.
– Được thể hiện ở nhân vật Hộ qua bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng khi người trí thức ý thức được đầy đủ, sâu sắc về nhân cách cá nhân, cá thể của mình.
+ Bi kịch của một nhà văn khát khao sống cuộc sống có ý nghĩa, ôm ấp một hoài bão lớn về sự nghiệp văn chương có ích cho xã hội nhưng vì gánh nặng áo cơm mà phải sống cuộc sống vô nghĩa, một “đời thừa’.
+ Bi kịch của một con người có tấm lòng nhân hậu, coi tình thương là nguyên tắc sống nhưng cuối cùng lại vi phạm vào lẽ sống “đề cao lòng thương” của mình.
+ Ghi lại cuộc đấu tranh tư tưởng của người trí thức trung thực trong hoàn cảnh bế tắc, vẫn cố vươn lên giữ vững lẽ sống nhân đạo.
=>Như vậy, bi kịch đau đớn của Hộ không chỉ vì lâm vào tình trạng “sống mòn’, sống vô nghĩa mà còn vì sự ý thức sâu sắc về tình trạng sống thừa của mình. Để rồi đỉnh điểm của sự tự nhận thức ấy được biểu hiện qua tiếng khóc. Bi kịch của Hộ tiêu biểu cho bi kịch của người trí thức tiểu tư sản nghèo trong xã hội đương thời.
(Trong qua trình phân tích, học sinh phải biết cách chỉ ra cụ thể những biểu hiện của “con người tự ý thức” trong tác phẩm)
4. Đánh giá.
– “Con người tự ý thức” trong “Đời thừa” đã mang đến giá trị nhân đạo sâu sắc và mới mẻ cho tác phẩm cũng như cho sáng tác của Nam Cao trước Cánh mạng. Ông là người đầu tiên trong văn học hiện thực mở rộng phạm trù tư tưởng nhân đạo, đem đến cái mới cho tư tưởng văn học hiện thực đương thời: đó là sự thức tỉnh về ý thức cá nhân, ý thức giá trị sự sống – một trong những yếu tố đưa ông trở thành nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của văn học Việt Nam.
– Kiểu nhân vật này dẫu chỉ là những con người của một thời đã qua nhưng vẫn không bao giờ hết khả năng đối thoại với bạn đọc mọi thế hệ trên từng vấn đề cụ thể nhất của đời sống nhân sinh .
Đề bài 11:
Cảm nhận của anh (chị) về chi tiết giọt nước mắt của nhân vật Chí Phèo (trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao) khi được thị Nở chăm sóc và khi bị thị Nở cự tuyệt.
Yêu cầu cần đạt
1. Giới thiệu
– Tác giả, tác phẩm
– Nhân vật Chí Phèo, chi tiết giọt nước mắt
2. Cảm nhận về chi tiết giọt nước mắt
a. Thời điểm xuất hiện
* Khi được thị Nở chăm sóc
– Sau những năm dài tha hoá, một hôm Chí Phèo uống rượu say và gặp thị Nở
– Sáng hôm sau, Chí thức tỉnh. Thị Nở xuất hiện với nồi cháo hành Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên, hắn thấy mắt hình như ươn ướt
* Khi bị cự tuyệt
– Sau năm ngày, Thị Nở về hỏi ý kiến bà cô. Bà cô thị không chấp nhận cho thị lấy Chí Phèo – không chấp nhận hắn trở về với xã hội loài người
– Thị Nở nói với Chí lời bà cô. Ban đầu Chí ngạc nhiên, hiểu ra hắn buồn và tìm đến rượu Hắn ôm mặt khóc rưng rức
b. Biểu hiện của giọt nước mắt
* Khi được thị Nở chăm sóc
– Cảm động vì lần đầu tiên hắn được săn sóc, yêu thương, được đối xử như con người
– Dấu hiệu trở về của nhân tính giọt châu chưng cất bản chất lương thiện trong tâm hồn Chí Phèo, sự hồi hộp dù rất mong manh được trở lại làm người, những bước chập chững đầu tiên từ kiếp quỉ về với kiếp người
* Khi bị cự tuyệt
– Rất nhiều sắc thái tâm trạng: Đắng cay, tuyệt vọng, ăn năn, hối hận…
– Đỉnh điểm bi kịch của con người, nỗi đau tinh thần lớn lao, đánh dấu sự chấm hết trên con đường trở về với xã hội loài người.
3. Đánh giá khái quát
a. Nghệ thuật thể hiện
Lời nửa trực tiếp, nhân vật hiện lên qua ngoại hình và từ đó bộc lộ nội tâm
b. Ý nghĩa
Cùng là giọt nước mắt nhưng trong mỗi hoàn cảnh khác nhau chúng thể hiện những sắc thái khác nhau song đều hướng tới thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm và tài năng nghệ thuật của nhà văn
– Phản ánh hiện thực xã hội đen tối không cho con người được làm người
– Phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp của con người lao động ẩn sau vẻ ngoài xấu xí
– Giai cấp thống trị dù có độc ác, tàn bạo đến đâu cũng không thể dập tắt được bản chất tốt đẹp, khát khao làm người của người lao động
– Tài năng trong việc lựa chọn chi tiết và phân tích nội tâm nhân vật của Nam Cao.
Đề bài 12:
Trong bài “Nhớ Nam Cao, nghĩ về mấy bài học trong sáng tác của ông”, nhà nghiên cứu phê bình Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng:
“Ở Nam Cao có hiện tượng đề tài hẹp mà tư tưởng rộng, chủ đề lớn”.
(Nhà văn, tư tưởng và phong cách)
Anh chị hãy bình luận ý kiến trên và phân tích một số tác phẩm tiêu biểu của Nam Cao để minh họa.
Yêu cầu cần đạt
1. Giải thích nhận định:
– Phân biệt sự khác nhau giữa đề tài, chủ đề, tư tưởng để thấy giá trị của một tác phẩm, vị trí của một tác giả không phụ thuộc vào đề tài mà do chiều sâu của chủ đề, tư tưởng nghệ thuật quyết định.
– Ý kiến của GS Nguyễn Đăng Mạnh muốn khẳng định nét đặc trưng trong phong cách nghệ thuật của Nam Cao: thường viết về những chuyện vặt vãnh, chuyện xoàng xĩnh hàng ngày nhưng lại chứa đựng những vấn đề to lớn, vượt qua phạm vi của đề tài.
2. Phân tích một số tác phẩm tiêu biểu để khẳng định ý kiến:
a, Sáng tác của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám – 1945:
– Tác phẩm của Nam Cao xoay xung quanh 2 mảng đề tài: người nông dân và người trí thức tiểu tư sản. Không gian nghệ thuật thường hạn hẹp: không gian làng Vũ Đại, không gian trường tư thục, không gian gia đình với những chuyện cơm áo, gạo tiền…; chuyện thường ít nhân vật, xoay xung quanh những chuyện va chạm vặt vãnh giữa vợ – chồng, chủ – kẻ ở, người làm thuê, va chạm giữa những người hàng xóm…
– Từ “những chuyện không muốn viết” ấy, Nam Cao đã đặt ra vấn đề to lớn, có ý nghĩa sâu sắc. Đó là sự day dứt đến đau đớn trước tình trạng con người bị xói mòn về nhân phẩm, thậm chí bị hủy hoại cả nhân hình lẫn nhân tính trong hoàn cảnh sống phi nhân đạo; Đó là những băn khoăn muôn thuở về cá nhân – xã hội, lý tưởng – hiện thực, về nghệ thuật – tình thương, về nhân cách và hoàn cảnh…
* ( Lưu ý: Phân tích sâu một vài tác phẩm tiêu biểu thuộc về đề tài nông dân và đề tài trí thức tiểu tư sản để làm sáng tỏ: “Chí Phèo”, “Đời thừa”, “Sống mòn”…)
b, Sau cách mạng Tháng 8- 1945:
– Nam Cao sáng tác không nhiều. Ông hy sinh giữa lúc tài năng đang ở độ phát triển nhất. Tác phẩm xuất sắc nhất là “Đôi mắt”. Chuyện chỉ là một cuộc gặp gỡ, đối thoại giữa hai nhà văn lâu ngày gặp lại: một người sống nhàn nhã, phong lưu trong một ngôi nhà kín cổng cao tường giữa chốn tản cư; một người tình nguyện làm anh tuyên truyền viên nhãi nhép, lăn lộn với cuộc kháng chiến của nhân dân để tích lũy vốn sống…
– Từ đề tài tưởng như chẳng có gì đáng kể ấy, Nam Cao đã đặt ra vấn đề vừa mang tính thời sự, vừa là vấn đề muôn thuở đối với người nghệ sỹ: Đó là vấn đề “nhận đường”, là cách nhìn, chỗ đứng (lập trường) của người cầm bút đối với quần chúng, với cuộc kháng chiến của dân tộc, và với hiện thực nhiều chiều của cuộc sống nói chung …
3. Đánh giá, nâng cao:
– Lý giải nguyên nhân vì sao đề tài hẹp mà nhà văn lại tạo được tư tưởng rộng, chủ đề lớn:
+ Sáng tác của Nam Cao mang đậm tính chất triết lý.
+ Nam Cao chú trọng đi sâu phân tích tâm lý nhân vật (khai thác hiện thực không phải ở bề rộng mà ở chiều sâu).
+ Chi tiết chân thực, cụ thể, có tính khái quát cao…
– Khẳng định ý kiến đánh giá của GS Nguyễn Đăng Mạnh giúp ta nhận rõ giá trị to lớn trong sáng tác của Nam Cao, từ đó có cách tiếp nhận phù hợp những tác phẩm giàu tính chất triết lý của nhà văn.
– Khẳng định tài năng, tâm huyết của Nam Cao: luôn tìm tòi, sáng tạo, lao động nghệ thuật nghiêm túc và tâm huyết để khơi những nguồn mới.
– So sánh với những tác phẩm của những tác giả khác để khẳng định đóng góp và vị trí của Nam Cao trong lịch sử văn học Việt Nam.
Đề bài 13:
“ Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại, ai cũng nhủ: “ Chắc nó trừ mình ra! ” Không ai lên tiếng cả. Tức thật! ờ ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ thân hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha ! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có trời mà biết, hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết …”
(Trích “Chí Phèo” – Nam Cao)
Anh (chị c) hãy cảm nhận vẻ đẹp đoạn văn trên.
Yêu cầu cần đạt
-Về hình thức nghệ thuật: Đây là phần trọng tâm của bài viết.
Đoạn văn thể hiện ngòi bút văn xuôi bậc thầy của Nam Cao ở tài năng dẫn chuyện, kể chuyện, sử dụng ngôn từ nghệ thuật điêu luyện, xuất sắc: điểm nhìn trần thuật linh hoạt, làm nổi bật hoàn cảnh và số phận của nhân vật; ngôn ngữ sinh động, đa thanh, kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ trần thuật ngôi thứ ba với ngôn ngữ lời nửa trực tiếp, … Chú ý tiếng chửi và cách trần thuật nương theo tâm trạng của một người say rượu và nỗi đau khổ, tuyệt vọng của một con người sinh ra làm người nhưng không được thừa nhận là con người. Bên cạnh đó, đoạn văn mở đầu tác phẩm còn đặc biệt ở chỗ nó tạo ra một kết cấu truyện sáng tạo, làm nổi bật số phận nhân vật và giá trị của thiên truyện.
-Về nội dung: Đoạn văn ngay từ đầu tác phẩm đã lột tả một cách sâu sắc số phận bất hạnh của Chí Phèo: bi kịch một con người sinh ra làm người nhưng bị tước mất quyền làm người. Đằng sau bi kịch ấy là một tâm trạng đau đớn quần quại, uất ức và bế tắc của nhân vật. Chú ý phần nội dung này không nên tách ra độc lập với phần hình thức nghệ thuật, mà xen lồng vào nhau trong quá trình phân tích những biểu hiện của hình thức, bởi hình thức nghệ thuật chứa đựng nội dung, là một cách nói của nhà văn đối với người đọc.
Đề bài 14:
“Dù viết về đề tài nào, truyện Nam Cao cũng thường thể hiện tư tưởng chung: nỗi băn khoăn đến đau đớn trước tình trạng con người bị hủy hoại về nhân phẩm do cuộc sống đói nghèo đẩy tới “
(SGK Ngữ văn 11,Nâng cao,tập I -NXB Giáo dục 2007)
Anh/chị hãy phân tích ý kiến trên và làm sáng tỏ qua một số tác phẩm tiêu biểu của NCao.
Yêu cầu cần đạt
1. Giới thiệu khái quát về tác giả và vấn đề nghị luận.
2. Cơ sở của vấn đề:
+ Xuất phát từ bản chất con người Nam Cao rất giàu ân tình đối với những người nghèo khổ trong xã hội .
+ Nam Cao nhận thức rõ bản chất của hiện thực xã hội trước cách mạng.
3. Giải thích ý kiến:
Dù viết về đề tài nào ( người trí thức nghèo, người nông dân nghèo) truyện của Nam Cao thường thể hiện tư tưởng chung “ nỗi băn khoăn đến đau đớn trước tình trạng con người bị hủy hoại về nhân phẩm do cuộc sống đói nghèo đẩy tới” là nói đến tâm tư đầy đau đớn, lo lắng dằn vặt của nhà văn trước tình trạng con người bị hủy hoại về nhân phẩm, về phẩm chất người do bị đẩy vào cuộc sống đói nghèo không lối thoát. Đó là chiều sâu tư tưởng nhân đạo thể hiện trong tác phẩm của Nam Cao.
4. Phân tích, chứng minh vấn đề:
Học sinh lựa chọn những tác phẩm tiêu biểu của Nam Cao ở hai đề tài: người trí thức nghèo (Tác phẩm “Giăng sáng”, “Đời thừa”…) và người nông dân nghèo (Tác phẩm “Tư cách mõ”, “Chí Phèo”…) để làm sáng tỏ vấn đề :
+ Người trí thức nghèo:
. Băn khoăn, đau đớn trước tình trạng người tri thức nghèo vì gánh nặng áo cơm mà hủy hoại nhân phẩm.
. Khẳng định trong bất kì hoàn cảnh nào người trí thức nghèo vẫn cố vươn lên để
giữ vững lí tưởng và nhân cách.
. Kết án xã hội đã hủy hoại hoài bão và nhân phẩm của người trí thức.
+ Người nông dân nghèo:
. Đau đớn trước tình trạng người n.dân nghèo bị tha hóa hoặc xói mòn về nhân phẩm.
. Phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện của người lao động.
. Kết án xã hội đẩy người nông dân tới cuộc sống khốn cùng.
– Nghệ thuật: Sự đóng góp mới mẻ về tư tưởng trên được thể hiện qua những đặc sắc về nghệ thuật ( xây dựng nhân vật điển hình, đặc biệt là khả năng diễn tả tâm lí sắc sảo…) khiến cho tác phẩm của Nam Cao có sức khái quát lớn, khắc họa được những tính cách sâu sắc và đầy góc cạnh
– Đánh giá chung: Ý kiến hoàn toàn xác đáng, đã khái quát được tư tưởng chung trong toàn bộ sáng tác của Nam Cao, khẳng định tầm tư tưởng của nhà văn nhân đạo. ./.
Đề bài 15:
Tính điển hình của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao.
I. Yêu cầu về kĩ năng
Hiểu đề, biết cách làm bài văn nghị luận văn học. Biết phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề. Bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ. Hành văn trôi chảy. Văn viết có cảm xúc. Không mắc các lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp, chính tả.
II. Yêu cầu về kiến thức
Thí sinh cần phân tích làm sáng tỏ tính điển hình của nhân vật Chí Phèo của Nam Cao. Song trước khi đi vào phân tích tính điển hình của nhân vật, thí sinh cần trình bày được những hiểu biết cơ bản về điển hình trong văn học (ở đây nói đến nhân vật điển hình hoặc tính cách điển hình) làm cơ sở lí luận. Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải đảm bảo những ý cơ bản sau:
1. Nhân vật điển hình:
– Là hình tượng nghệ thuật được sáng tạo ra bằng phương pháp điển hình hoá, vừa có cá tính sắc nét, là “con người này” (Hê-ghen) vừa phản ánh được một số mặt bản chất của đời sống xã hội, thể hiện tính xã hội của con người.
– Nhân vật điển hình vừa có cội nguồn trong đời sống thực tế lại vừa có sức khái quát cao, tập trung nổi bật hơn, có ý nghĩa xã hội phong phú, sâu sắc hơn, đồng thời hấp dẫn thú vị hơn.
– Có nhân vật điển hình trong văn học (hoà quyện giữa tính phổ biến và tính đặc thù) là do tính riêng độc đáo trong phong cách nhà văn và do chức năng phản ánh đời sống xã hội của văn học. Tuy nhiên không phải bao giờ việc xây dựng nhân vật cũng đạt đến trình độ điển hình. Nhân vật điển hình chỉ xuất hiện ở những tác phẩm đặc sắc, ở những nhà văn có tài năng thực sự.
2. Phân tích tính điển hình của nhân vật Chí Phèo: Phân tích sự thống nhất giữa hai mặt (có cá tính sắc nét – nét riêng và phản ánh bản chất của đời sống xã hội – nét chung).
a. Những nét cá tính riêng
– Lai lịch: là đứa con hoang bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ, không cha, không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà cửa; hết đi ở lại đi làm canh điền, Chí trở thành công cụ làm giàu và thoả mãn nhục dục cho những ông chủ, bà chủ.
– Diện mạo, hình hài: cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt đen mà rất cơng cơng…
– Hành động, tính cách: chuyên đập phá, kêu gào chửi bới, la làng, rạch mặt ăn vạ…
Chí Phèo mang những nét cá tính riêng độc đáo không gặp ở bất kì nhân vật nào trong văn học cũng như ngoài đời.
– Đặc biệt nét riêng được khắc hoạ sâu sắc ở bi kịch của nhân vật – bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Đó là nỗi khổ đau cùng cực, ghê gớm chỉ có ở nhân vật Chí Phèo.
b. Nét chung khái quát:
– Chí Phèo tiêu biểu cho hiện tượng một bộ phận người nông dân – nạn nhân của chế độ cường hào thực dân bị rơi vào con đường tha hoá: từ người hiền lành lương thiện trở thành kẻ lưu manh. (Thí sinh liên hệ với các nhân vật Binh Chức, Năm Thọ trong tác phẩm, nhân vật Trạch Văn Đoành trong “Đôi móng giò”, cu Lộ trong “Tư cách mõ”, Đức trong “Nửa đêm” để thấy được tính chất tiêu biểu của Chí Phèo).
– Phản ánh một qui luật của xã hội: Khi xã hội còn những thế lực thống trị tàn bạo thì con đường bần cùng hoá, rồi dẫn đến lưu manh hoá của những người dân nghèo khổ sẽ còn tồn tại. Đây là tính khái quát rộng lớn của hình tượng nhân vật.
c. Đánh giá chung:
– Với phương pháp điển hình hoá, nhân vật Chí Phèo được xây dựng hết sức sống động, vừa có cá tính sắc nét vừa có tính chung phổ biến. Nhờ vậy nhân vật có sức sống lâu bền trong lòng độc giả.
– Nhờ việc xây dựng thành công nhân vật điển hình, tác phẩm đạt được giá trị hiện thực và nhân đạo hết sức độc đáo, mới mẻ.
– Khẳng định tài năng độc đáo, trình độ xây dựng nhân vật điển hình bậc thầy của Nam Cao, với tư cách là nhà văn hiện thực xuất sắc.
Để bài 16:
Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao, em hãy trình bày suy nghĩ về tấm lòng nhà văn gửi gắm qua trang viết.
1. Yêu cầu chung:
Nắm vững phương pháp làm bài văn nghị luận văn học, hiểu và phân tích đúng trọng tâm yêu cầu của đề về tấm lòng nhân đạo cua nhà văn Nam Cao qua hình tương nhân vật Chí Phèo; diễn đạt trôi chảy, mạch lạc, chính xác.
2. Yêu cầu cụ thể:
Học sinh có thể trình bày suy nghĩ theo nhiều cách khác nhau, tập trung vào tấm lòng nhân đạo của nhà văn Nam Cao thể hiện qua các khía cạnh sau:
– Qua hình tượng nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã thể hiện sự xót thương đồng cảm chân thành với số phận người nông dân bị lưu manh hoá, bị huỷ hoại cả nhân tính lẫn nhân hình, bị cự tuyệt quyền làm người lương thiện và chết ngay trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời.
– Qua hình tượng nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã thể hiện sự trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp trong tâm hồn người nông dân trong hoàn cảnh bị lưu manh hoá với khát khao sống lương thiện và được yêu thương, khẳng định bản chất lương thiện, khẳng định sức mạnh cảm hoá của tình thương, tình người.
– Qua hình tượng nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao còn lên án những thế lực đã đẩy người nông dân đến bước đường cùng, đồng tình và đấu tranh cho khát vọng sống lương thiện của con người.
* Trong bài viết học sinh cần nêu được nét mới mẻ trong tư tưởng của Nam Cao: Trên nền tảng của tư tưởng nhân đạo truyền thống, nhà văn đã có những phát hiện riêng về người nông dân trong xã hội thực dân nửa phong kiến.
Đề bài 17:
Nhà văn Nga K.Pau-tôp-xki cho rằng: Cuộc sống được miêu tả trong văn xuôi không chứa đựng chất thơ sẽ trở thành thô thiển, thành một thứ chủ nghĩa tự nhiên không cánh, không thúc gọi, không dẫn dắt ta đi đâu cả.
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Từ cảm nhận về một vài tác phẩm văn xuôi yêu thích, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.
Giải thích ý kiến
* Cắt nghĩa ý kiến:
– Chất thơ: là chất trữ tình thể hiện ở việc bộc lộ tình cảm, cảm xúc bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu và sức biểu cảm.
– Cuộc sống được miêu tả trong văn xuôi không chứa đựng chất thơ sẽ trở thành thô thiển: là một cuộc sống chân thực đến trần trụi, thô ráp.
– Cuộc sống được miêu tả trong văn xuôi không chứa đựng chất thơ sẽ trở thành một thứ chủ nghĩa tự nhiên không cánh, không thúc gọi, không dẫn dắt ta đi đâu cả: là hiện thực phản ánh không mang tính định hướng, không có khả năng tác động đến tư tưởng, tâm hồn người đọc.
->Bằng cách nói phủ định, ý kiến đã khẳng định ý nghĩa của chất thơ trong văn xuôi: chất thơ chính là đôi cánh nâng đỡ để cuộc sống được phản ánh vừa trở nên thi vị, trong sáng, giàu tính thẩm mĩ vừa thúc gọi, dẫn dắt, bồi đắp những tư tưởng, tình cảm nhân văn cho tâm hồn bạn đọc.
* Lí giải ý kiến:
– Phương thức biểu đạt chủ yếu của văn xuôi là tự sự, nhà văn thường chú ý đến xây dựng cốt truyện, nhân vật, sự kiện, tình tiết, tình huống. Trong khi đó phương thức biểu đạt chủ yếu của thơ là biểu cảm, nhà thơ tập trung bộc lộ tiếng nói tâm hồn mình bằng vần điệu. Vậy nên, khi văn xuôi chứa đựng chất thơ sẽ tạo nên phong vị ngọt ngào, dễ lan thấm vào tâm hồn người đọc.
– Trong thực tế sáng tác, các nhà văn thường có xu hướng phối hợp, đan xen nhiều thể loại. Đưa chất thơ vượt biên giới thể loại sang văn xuôi chính là sự vận dụng kết hợp linh hoạt, sáng tạo nhiều phương thức biểu đạt của nhà văn.
Cảm nhận về một vài tác phẩm văn xuôi yêu thích
Thí sinh được tự do lựa chọn một vài tác phẩm văn xuôi yêu thích để cảm nhận. Tuy nhiên đây không phải là cảm nhận toàn bộ tác phẩm mà cần tập trung hướng sự cảm nhận vào hai phương diện:
– Chỉ ra được biểu hiện của chất thơ trong tác phẩm trên cả nội dung và hình thức nghệ thuật.
– Phân tích được ý nghĩa của chất thơ trong việc phản ánh hiện thực ở tác phẩm văn xuôi trên hai khía cạnh:
+ Thứ nhất, làm cho cuộc sống trong trang văn trở nên thi vị, trong sáng, vút cao.
+ Thứ hai, khiến hiện thực đó có thể định hướng, dẫn dắt tâm hồn người đọc.
Bình luận ý kiến
– Khẳng định câu nói của nhà văn Nga K.Pau-tôp-xki là sự đề cao, đánh giá ý nghĩa của chất thơ trong văn xuôi. Đồng thời cũng là sự chia sẻ kinh nghiệm quý giá của một nhà văn đã không ngừng lao động sáng tạo viết nên những áng văn xuôi đẹp, thấm đẫm chất thơ.
– Đây cũng chính là sự gợi nhắc, cổ vũ cho người cầm bút vận dụng kết hợp nhiều phương thức biểu đạt để mong có được những tác phẩm văn chương giá trị.
– Đưa chất thơ vào trong văn xuôi không có nghĩa là nhà văn thoát li hiện thực cuộc sống, tô hồng và thi vị hóa cuộc sống.
Đề bài 18:
“Văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người trong sạch và phong phú hơn”.
(Thạch Lam)
Từ những tác phẩm văn xuôi lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945 được học trong chương trình Ngữ văn lớp 11, anh (chị) làm sáng tỏ q uan niệm trên.
– Quan niệm đúng đắn về khuynh hướng văn học lãng mạn nói chung và văn học lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945 nói riêng:
+ Không phải là khuynh hướng văn học thoát li khỏi hiện thực cuộc sống.
Trái lại:
+ Văn chương có thể tố cáo và thay đổi thế giới xấu xa, tàn ác.
+ Văn chương khiến cho lòng người trong sạch và phong phú hơn.
– Chứng minh:
* Với tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân:
+ Khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, cái tốt, cái cao cả đối lập với xấu xa, thấp hèn.
+ Thái độ bất hòa với xã hội hiện thực.
+ Khơi dậy tình yêu với những nét đẹp văn hóa cổ truyền của dân tộc.Những ý đồ nghệ thuật trên được truyền tải qua việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật xây dựng nhân vật tài hoa, dựng cảnh tài tình, gợi
không khí cổ xưa …
* Đặc biệt với tác phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam:
+ Nỗi xót thương trước cuộc sống nghèo khổ, tàn lụi của những người dân phố huyện – đặc biệt là những đứa trẻ,chính là tiếng nói gián tiếp tố cáo xã hội vô nhân đạo.
+ Sự đồng cảm với những ước mơ của tuổi thơ, tâm hồn gắn bó với nơi mình đang sống của các nhân vật trong tuyện cũng luôn khơi gợi trong tâm hồn mỗi con người những suy ngẫm…
=> Bằng cốt truyện nhẹ nhàng, giọng văn tâm tình, sâu lắng, kết hợp bút pháp hiện thức và trữ tình, khai thác tinh tế tâm lí nhân vật … đã làm nổi bật những nội dung trên.
Đề bài 19:
“Nội tâm nhân vật thường có nét riêng cho thấy những bí ẩn của tâm hồn, phẩm chất, lí tưởng của nhân vật. Đặc biệt là những thay đổi trong ý thức, thái độ sống và tâm lí của nhân vật qua các giai đoạn.”
(Sách Ngữ văn 11 Nâng cao, Tập một, NXB Giáo dục 2008, tr.196)
Từ việc tìm hiểu nhận định trên, hãy phân tích đời sống nội tâm của một nhân vật trong tác phẩm truyện được học (thuộc chương trình Ngữ văn trung học phổ thông) vốn đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng anh/chị.
1. Tìm hiểu nhận định
– Nội tâm là một phương diện biểu hiện của nhân vật. Nhân vật có vai trò là yếu tố quan trọng hàng đầu trong thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết.
(Các yếu tố khác: ngoại hình, hành động, biến cố, ngôn ngữ, các mối quan hệ với các nhân vật và với hoàn cảnh xung quanh).
– Nội tâm giúp người đọc thấy rõ “những bí ẩn của tâm hồn, phẩm chất, lí tưởng” của nhân vật; nội tâm của mỗi nhân vật do đó thường đặc sắc, có nét riêng, nét khác biệt so với các nhân vật khác trong tác phẩm và cả với nhân vật đồng dạng trong các tác phẩm khác.
– Nhà văn luôn chú ý xây dựng “những đổi thay trong ý thức, thái độ sống và tâm lí của nhân vật qua các giai đoạn” nhằm làm nổi bật nhân vật và góp phần thể hiện ý đồ sáng tác của mình.
* Nhận định trên vừa nêu lên vai trò của nội tâm trong việc thể hiện nhân vật vừa xác định cá tính sáng tạo mà nhà văn thể hiện qua việc xây dựng đời sống nội tâm nhân vật, để lại dấu ấn riêng trong tác phẩm và trong đời sống văn học. Qua đó, giúp bạn đọc có ý thức thêm về yếu tố này khi đọc tiểu thuyết và truyện ngắn.
2. Phân tích nội tâm nhân vật trong tác phẩm văn học
Học sinh chọn tác phẩm được học trong chương trình Ngữ văn (cấp trung học phổ thông), phân tích nhân vật theo hướng nhận định đã nêu. Chú ý các điểm cơ bản sau đây:
– Chọn được nhân vật thực sự có giá trị trong việc thể hiện đời sống nội tâm;
– Phân tích được nét riêng trong nội tâm nhân vật, qua đó làm rõ “những bí ẩn của tâm hồn, phẩm chất, lí tưởng” của nhân vật.
– Chỉ ra “những đổi thay trong ý thức. thái độ sống và tâm lí của nhân vật qua các giai đoạn” để khẳng định giá trị của nhân vật cũng như ý đồ sáng tác của nhà văn.
* Lưu ý: Học sinh phân tích nhuần nhuyễn các chi tiết biểu hiện đời sống nội tâm nhân vật, luôn có sự gắn kết với nhận định.
Đề bài 20:
“Văn chương giúp ta trải nghiệm cuộc sống ở những tầng mức và những chiều sâu đáng kinh ngạc. Nó giúp con người sống “ra người” hơn, sống tốt hơn, nếu ta biết tìm trong mỗi quyển sách những vệt sáng, những nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của cuộc đời và của con người.”
(Theo Nhà văn nói về môn Văn – Văn học và tuổi trẻ – NXB GD, 2015)
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào, bằng việc tìm hiểu một số truyện ngắn hiện đại, hãy làm sáng tỏ.
1. Giải thích ý kiến
* Cắt nghĩa ý kiến:
– Văn chương: là loại hình nghệ thuật bao gồm các sáng tác dùng ngôn từ nghệ thuật để phản ánh cuộc sống con người.
– Văn chương giúp ta trải nghiệm cuộc sống ở những tầng mức và những chiều sâu đáng kinh ngạc: văn chương thầm lặng đem đến cho người đọc những trải nghiệm mà một cuộc đời khó lòng thấu trải hết. Nó giúp người đọc thỏa mãn nhu cầu nếm trải sự sống muon hình vạn trạng. Đến với văn học, ta không chỉ khám phá, nhận thức hiện thực mà còn cảm nhận, hiểu biết tư tưởng, tình cảm, ước mơ, khát vọng của nhân loại và chính mình.
– Nó giúp con người sống “ra người” hơn, sống tốt hơn, nếu ta biết tìm trong mỗi quyển sách những vệt sáng, những nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của cuộc đời và của con người:
+ nếu ta biết tìm trong mỗi quyển sách những vệt sáng, những nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của cuộc đời và của con người:
(+) vệt sáng, nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của cuộc đời và của con người: sự phát hiện của nhà văn về những vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong thế giới tâm hồn con người, có tác động tích cực đối với con người, cuộc đời. Người đọc sẽ nhận ra ý nghĩa của văn chương với tâm hồn mình từ chính điều này.
(+) Nếu người đọc chủ động tìm kiếm cái đẹp ẩn kín, tiềm tàng cũng như nhận ra sự thể hiện những vẻ đẹp sâu thẳm trong hình tượng nghệ thuật ở tác phẩm thì sẽ nhận ra được những thông điệp thẩm mĩ sâu xa.
+ Nó giúp con người sống “ra người” hơn, sống tốt hơn: tác phẩm văn học đem lại cho con người niềm vui trong sáng, thánh thiện, làm nảy nở trong tâm hồn ta những xúc cảm cao đẹp, hướng ta đến những phẩm chất tốt đẹp mang tính nhân văn.
* Lí giải ý kiến:
– Văn học nghệ thuật phản ánh cuộc sống một cách tổng hợp, toàn vẹn trong mọi quan hệ đa dạng, phức tạp, tập trung khám phá chiều sâu khôn cùng của tâm hồn con người.
– Văn học có sứ mệnh cao cả bởi tác động sâu sắc tới đời sống tinh thần con người: văn học làm giàu thêm nhận thức của con người về thế giới xung quanh, về chính bản thân mình; văn học bồi đắp, nâng đỡ, thanh lọc tâm hồn con người -> khiến con người trở nên hoàn thiện, người hơn, sống tốt hơn.
– Văn học luôn đồng hành với nhân loại, có vị trí không thể thay thế được trong đời sống của con người.
2. Làm sáng tỏ ý kiến bằng việc tìm hiểu một số truyện ngắn hiện đại trước 1945
Thí sinh được tự do lựa chọn một vài truyện ngắn hiện đại mà mình yêu thích để thấu hiểu vấn đề. Tuy nhiên, đây không phải là cảm nhận toàn bộ tác phẩm mà cần tập trung vào hai phương diện:
– Chỉ ra các thông điệp nghệ thuật, những trải nghiệm về cuộc sống, số phận, nhân cách hay chiều sâu tâm hồn con người trong tác phẩm. Từ tác phẩm, khám phá những điều mới mẻ trong cái bình thường, phát hiện chân lí sâu xa trong những điều giản dị.
– Từ việc phát hiện cái Đẹp sâu xa của nội dung tác phẩm ở những vệt sáng, nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của nhân vật, hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm mà nhận ra giá trị nâng đỡ, thanh lọc tâm hồn con người của tác phẩm. Đó cũng chính là sứ mệnh cao cả muôn đời của văn chương nghệ thuật.
Bình luận ý kiến
– Ý kiến là lời tâm sự, chia sẻ của một người cầm bút luôn yêu quý và trân trọng văn chương, chỉ ra sứ mệnh cao cả của văn chương với con người.
– Ý kiến là định hướng để người đọc tìm hiểu, tiếp cận tác phẩm trong chiều sâu tư tưởng của nó.
– Bồi dưỡng tình yêu, niềm say mê văn học nói riêng, tình nhân ái, tư tưởng sống đẹp cho bạn đọc nói chung.
Đề bài 21:
Trên trang bìa cuốn sách Để thành nhà văn của Nguyễn Duy Cần – Nhà xuất bản Trẻ, năm 2013 có in những dòng chữ: Viết ra không phải là việc khó; cái khó là phải có những câu chuyện gì đáng kể để kể, những tư tưởng gì đáng ghi để ghi (Jérôme và Jean Tharaud)
Anh (chị) hiểu như thế nào về những dòng chữ trên? Hãy phân tích những câu chuyện đáng kể đã kể và những tư tưởng đáng ghi đã ghi trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam 1930 – 1945 đã học.
a. Cách hiểu về ý kiến
– Những câu chuyện đáng kể: đó là những câu chuyện hay, gây chú ý, hấp dẫn, có nhiều ý nghĩa, vừa phản ánh được bản chất của đời sống vừa có khả năng khơi dậy ở lòng người những xúc cảm, nghĩ suy … Những câu chuyện đáng kể không chỉ là những câu chuyện mà còn chính là nhận thức, là đôi mắt, là khả năng khám phá, phát hiện đời sống… của nhà văn. Cuộc sống xung quanh ta có biết bao những câu chuyện, cái khó là ở chỗ anh phải có đôi mắt như thế nào để nhìn ra được những câu chuyện đáng kể. Nếu kể những câu chuyện không đáng kể tác phẩm của anh sẽ không đáng đọc. Chỉ có những câu chuyện đáng kể mới có khả năng làm cho tác phẩm của anh đáng sống…
– Những tư tưởng đáng ghi: tư tưởng đó là một phán đoán về hiện thực, là cách nhìn, cách đánh giá hiện thực theo một quan điểm, một tình cảm nhất định của tác giả. Những tư tưởng đáng ghi bao giờ cũng phải là những tư tưởng đúng đắn, sâu sắc, phù hợp với những chuẩn mực đạo đức, tiến bộ, đó là những tư tưởng vì con người… Không có những tư tưởng đáng ghi anh sẽ không thể là nhà văn. Tư tưởng càng sâu sắc, càng đúng đắn, phù hợp, tiến bộ bao nhiêu tác phẩm của nhà văn càng giá trị, có chiều sâu bấy nhiêu…
-> Không phải ai cũng dễ dàng trở thành nhà văn. Trước khi cầm bút viết văn người nghệ sĩ cần phải giải được bài toán khó: tìm được những câu chuyện đáng kể để kể và có những tư tưởng đáng ghi để ghi. Những câu chuyện, những tư tưởng ấy chính là nguồn để khơi gợi cảm hứng sáng tác. Nguồn cảm hứng này sẽ chắp bút cho nhà văn, thôi thúc nhà văn cầm bút. Và khi phẩm chất tài hoa nghệ sĩ giúp nhà văn kể lại những câu chuyện đáng kể, ghi lại những tư tưởng đáng ghi khi đó chúng ta có tác phẩm văn học. Có câu chuyện đáng kể, có tư tưởng đáng ghi làcái khó và sự thật là viết ra cho hay không đơn giản, đó cũng là cả một vấn đề…
b. Phân tích những câu chuyện đáng kể đã kể và những tư tưởng đáng ghi đã ghi trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam 1930 – 1945
HS tự chọn một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam 1930 – 1945 đã học để phân tích. Khi phân tích cần làm nổi bật được những câu chuyện đáng kể, những tư tưởng đáng ghi trong tác phẩm là gì và vì sao đó là những câu chuyện đáng kể, những tư tưởng đáng ghi… HS cũng phải biết thực hiện thao tác so sánh giữa những tác phẩm đã chọn.
c. Ý nghĩa của vấn đề
– Đối với người sáng tác: muốn viết được tác phẩm văn học theo đúng nghĩa nhà văn cần phảisống đã, cần phải rèn thói quen quan sát với tinh thần khám phá, nghiên cứu đời sống…Thiết nghĩ nhà văn hãy để tư tưởng tình cảm của mình soi đường dẫn lối cho tư tưởng tình cảm của những người khác…
– Đối với người đọc: thấy được, hiểu được và cùng suy ngẫm với nhà văn về những câu chuyện cuộc đời; trân trọng những đóng góp lớn lao, tài và tâm của người nghệ sĩ…
e. Nhận xét, đánh giá chung (0,5 điểm)
Đề bài 22:
Trong cuốn Không tưởng và thức tỉnh, Claudio Magris từng viết:
“Văn học giống như một tờ báo, và nhiều lúc, giống như một tờ báo lá cải về cuộc sống, với những tính chất thường tình nhỏ nhặt và da diết của nó”.
Qua một số sáng tác của các nhà văn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, anh (chị) hãy làm sáng tỏ ý kiến trên
1. Giải thích vấn đề
– Văn học giống như một tờ báo: văn học phản ánh cuộc sống.
– Văn học giống như một tờ báo lá cải về cuộc sống với những tính chất thường tình nhỏ nhặt và da diết của nó:
+ “Báo lá cải” là báo đưa tin vặt, những tin không chính thống song lại có ý nghĩa mở rộng và nhìn vấn đề từ những chiều kích khác, nhiều khi ở góc độ đời thường cá nhân.
+ Văn học là một tờ báo lá cải về cuộc sống với những tính chất nhỏ nhặt thường tình da diết: văn học phán ánh cuộc sống con người trong cái bình thường nhỏ nhoi, đi vào khám phá những số phận cá nhân trong cuộc sống nhân sinh bề bộn, khám phá phần khuất lấp phức tạp đầy cảm xúc của cuộc sống. Đây chính là lí do để văn học trở nên sâu sắc và nhân bản. Để tái hiện và tái tạo cuộc sống trở thành một hình tượng nghệ thuật sinh động trong tác phẩm văn chương, nhà văn cần phải tinh tế trong việc chọn lựa chi tiết tiêu biểu, vừa đời thường vừa có giá trị khái quát.
Như vậy, nhận định của C. Magris khẳng định đối tưọng đặc thù của văn học: cuộc sống nhân sinh đời thường phức tạp, sinh động và phương tiện để xây dựng hình tượng văn học: các chi tiết nghệ thuật tiêu biểu trong tác phẩm.
2. Chứng minh trong sáng tác giai đoạn 1930-1945
– Bất cứ tác phẩm nào thành công cũng có thể minh hoạ cho vấn đề trên.
– Song theo yêu cầu của đề, HS có thể chọn những tác phẩm trước CM như: truyện ngắn của Nam Cao (Chí Phèo, Đời thừa), Thạch Lam (Hai đứa trẻ), Nguyễn Tuân (Chữ người tử tù), hay thơ của các nhà Thơ mới. thơ Hồ Chí Minh (Chiều tối). Khi phân tích, HS cần làm sáng rõ những điểm cơ bản như: số phận con người, thế giới tâm hồn tinh tế phong phú nhạy cảm của con người trong cuộc sống đời thường, và đặc biệt cần chọn – phân tích những chi tiết tiêu biểu trong tác phẩm để thấy sự khắc hoạ hình tượng cuộc sống chân thật sâu xa, tính chất thường tình da diết của nó trong tác phẩm.
Đề bài 23:
Đọc Chí Phèo của Nam Cao, có ý kiến cho rằng: “Bi kịch của Chí Phèo là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người”, lại có ý kiến khẳng định: “Bi kịch của Chí Phèo, hơn thế, còn là bi kịch con người tự từ chối quyền làm người.”
Bày tỏ quan điểm cá nhân về bi kịch của nhân vật Chí Phèo
Giải thích
Bi kịch: nghĩa gốc, bi kịch là thể của loại hình kịch thường được coi như là đối lập với hài kịch. Từ nghĩa gốc trên, bi kịch còn dùng để chỉ một tình cảnh, một số phận éo le, trắc trở, đau thương. Khái niệm bi kịch được nói đến ở đây là hiểu theo nghĩa thứ hai này.
Bi kịch bị cử tuyệt quyền làm người: con người khao khát sống, khao khát “làm hòa” với mọi người, khao khát hạnh phúc nhưng bị xã hội và giai cấp thống trị cản trở, xô đẩy vào con đường cùng không lối thoát.
Bi kịch con người tự từ chối quyền làm người: con người khao khát sống, khao khát “làm hòa” với mọi người, khao khát hạnh phúc nhưng không đủ bản lĩnh, không đủ dũng khí khẳng định mình, vượt lên những định kiến của cộng đồng, cuối cùng rơi vào tuyệt vọng thậm chí rơi vào cái chết.
Bàn luận
Thí sinh có thể đồng tình với một trong hai ý kiến hoặc bổ sung, kết hợp giữa hai ý kiến để có cái nhìn đầy đủ, toàn diện về bi kịch của Chí Phèo, miễn là lí giải có sức thuyết phục. Sau đây là một số phương án, thí sinh có thể lựa chọn để giám khảo tham khảo.
Phương án 1. Bi kịch Chí Phèo là bi kịch bị cử tuyệt quyền làm người.
– Đây là quan niệm có tính truyền thống được nhiều người chấp nhận.
– Xã hội thực dân phong kiến tiếp tay cho bọn cường hào ác bá (Bá Kiến) đã đẩy Chí Phèo vào con đường tha hóa, trở thành quỷ dữ của làng Vũ Đại
– Xã hội ấy đã từ chối, cử tuyệt quyền làm người của Chí Phèo ngay cả khi Chí Phèo mong mỏi, khao khát được làm người lương thiện nhất
=> Xã hội thực dân phong kiến à bọn cường hào ác bá ở làng Vũ Đại không thể “vô can” trong việc đẩy Chí Phèo đến chỗ bi kịch, đến với cái chết.
Phương án 2. “Bi kịch Chí Phèo, hơn thế, còn là bi kịch con người tự từ chối quyền làm người.”
– Đây là ý kiến mới mẻ, có phần táo bạo khi nhìn nhận đánh giá về bi kịch số phận nhân vật Chí Phèo
– Ý kiến trên xuất phát từ dặc điểm phong cách thời đại . Thời đại Nam Cao, ý thức về con người cá nhân có điều kiện phát triển. Nam Cao thể hiện tinh thần thời đại đó bằng cách chỉ ra rằng; nếu qus lệ thuộc vào cộng đồng, con người sẽ tự thủ tiêu mình; và nếu cộng đồng can thiệp quá sâu vào đời sống cá nhân, nó sẽ hủy diệt cá nhân đó.
– Ý kiến trên xuất phát từ số phận nhân vật Chí Phèo
+ Số phận cô độc và nỗi sợ cô đơn
+ Cái chết của Chí Phèo và sự đuối về ý thức cá nhân
Ý kiến trên quả có cái nhìn sâu sắc về tấn bi kịch của người nông dân Chí Phèo. Rõ ràng Chí phải chịu trách nhiệm về bản thân.
Phương án 3:
Hoàn toàn đổ lỗi cho Chí Phèo là chỉ coi trọng nguyên nhân chủ quan, còn đổ tội cho xã hội lại là coi trọng nguyên nhân khách quan. Trong khi đó, nguyên nhân dẫn đến bi kịch và cái chết của ChíBAO GỒM cả chủ quan và khách quan, chỉ coi trọng một mặt nào đó cũng là phiến diện.
Viết về bi kịch người nông dân Chí Phèo, Nam Cao muốn đưa đến người đọc thông điệp; mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm về những hành vi của mình, mỗi người phải tự ý thức về cá nhân của mình. Điều đó thể hiện một quan niệm đấy đủ hơn, toàn diện hơn về con người, về giá trị của sự sống. Đó là những nhân tố mới mẻ, độc đáo trong chủ nghĩa nhân đạo của Nam Cao
Đề bài 24:
Khi một nhà văn mới bước vào làng văn, điều đầu tiên tôi sẽ hỏi anh ta là anh sẽ mang lại điều gì mới cho văn học ( Lep Tonxtoi).
Bằng những hiểu biết của mình về truyện ngắn Chí Phèo anh/ chị hãy thay mặt nhà văn Nam Cao trả lời câu hỏi ấy
– Giải thích câu nói: Sự độc đáo, sáng tạo mà mỗi nhà văn, nhà thơ thể hiện trong tác phẩm của mình.
– Sự sáng tạo của nhà văn Nam Cao trong tác phẩm Chí Phèo
+ Quan điểm sáng tác của Nam Cao: Sinh thời Nam Cao Luôn coi trọng hoạt động sáng tạo trong nghệ thuật “Văn chương không cần đến sự khéo tay,Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu tìm tòi khơi hứng nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa ai có “. Quan điểm này gặp gỡ với quan điểm của rất nhiều các nhà văn nổi tiếng trên thế giới bởi nó đề cập tới bản chất của nghệ thuật là sáng tạo. Nói cách khác, sáng tạo là sinh mệnh của văn chương.
+ Chứng minh
* Về nội dung
+ Giá trị hiện thực mới mẻ: Chọn một đề tài đã cũ – người nông dân trước cách mạng tháng Tám song cách khai thác hoàn toàn khác
– Chị Dậu (“Tắt đèn” – Ngô Tất Tố), Anh Pha (“Bước đường cùng” – Nguyễn Công Hoan) bị bóc lột, bị chà đạp, chịu sự đày đọa về vật chất nhưng vẫn là con người
– Chí Phèo từ 1 anh canh điền khỏe mạnh, hiền lành, chất phác bị vu oan biến thành 1 Chí Phèo lưu manh mất cả nhân hình và nhân tính, hắn bán cả linh hồn mình trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Với Chí Phèo, Nam Cao không chỉ lột trần sự thật đau khổ của người nông dân vừa nêu được một quy luật xuất hiện trong làng xã Việt Nam trước CM8: Hiện tượng những người nông dân nghèo lương thiện bị áp bức bóc lột nặng nề và bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh. Tình cảnh ấy của Chí Phèo đã làm cho số phận người nông dân trung thực rơi xuống vực thẳm của bi kịch.
* Giá trị nhân đạo độc đáo:
– Nếu Ngô Tất Tố ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, trọn vẹn, không tì vết của Chị Dậu thì Nam Cao miệt mài lật xới tận cùng để gạn lấy “giọt thiên lương” nhỏ nhoi, khuất lấp nhưng trong trẻo, thanh khiết nơi tâm hồn tưởng như đã hoàn toàn méo mó của Chí. Bởi vậy, hành trình từ cõi quỷ trở về cõi người ngỡ giản đơn mà sao nhọc nhằn, khổ đau, quoằn quoại đến thế. Qua nhân vật Thị Nở, nhà văn gieo trồng hạt nhân tư tưởng và ước mơ về tình thương làm thay đổi thế giới hay ít ra cứu vớt một con người. Có lẽ ít ai như Nam Cao, nhọc công để dừng lại suy tư, khám phá và nuôi giữ mầm sống trong những tâm hồn thoạt nhìn thấy chỉ có tro tàn tăm tối.
b, Về nghệ thuật:
Nghệ thuật xây dựng nhân vật diển hình trong hoàn cảnh điển hình
Nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật: Nhiều trường đoạn tâm lí phức tạp được nhà văn “giải phẫu” thành công. (Lúc Chí Phèo tỉnh dậy sau cơn say, cảm nhận cuộc sống và ý thức về đời mình, khi Thị Nở đem bát cháo hành sang để Chí thấm thía giá trị của tình thương, đoạn Chí Phèo miệng nói trả thù “con khọm già” mà chân lại tìm tới cửa nhà Bá Kiến…)
Ngôn ngữ: giản dị nhưng tinh sắc (ngôn ngữ tâm lí của Bá Kiến khi dụ dỗ Chí Phèo)
Đề bài 25:
“Ở truyện ngắn, mỗi chi tiết đều có vị trí quan trọng như mỗi chữ trong bài thơ tứ tuyệt. Trong đó có những chi tiết đóng vai trò đặc biệt như những nhãn tự trong thơ vậy”
(Nguyễn Đăng Mạnh – Trong cuộc toạ đàm về cuốn Chân dung và đối thoại của Trần Đăng Khoa,Báo Văn nghệ, số 14, 4/1999)
Anh/chị hãy giải thích ý kiến trên. Phân tích chi tiết cái bóng Chí Phèo trong đoạn truyện sau của Nam Cao để làm sáng tỏ:
… “Nhưng mà trăng lên, mặt trăng rằm vành vạnh. Và ánh trăng chảy trên đường trắng tinh.
Và ánh trăng chảy trên đường trắng tinh. Ồ, cái gì đây, đen và méo mó trên đường trăng nhễ nhại? Nó xệch xạc về bên trái, thu gọn vào rồi lại dài loang ra, xé rách vài chỗ.
Nó cứ quần quật dưới chân Chí Phèo. Chí Phèo đứng lại và nhìn nó và hắn bỗng nghiêng ngả cười. Hắn cười ngặt nghẽo, cười rũ rượi. Giá hắn cứ chửi lại còn dễ nghe! Cái vật xệch xạc trên đường chính là bóng hắn. Thế là hắn cười, và hắn quên báo thù: hắn đi qua cái ngõ đầu tiên kia rồi”
(Truyện chí Phèo- Nam Cao)
Luận điểm 1 : Giải thích nhận định
Chi tiết nghệ thuật là những yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm nhưng mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng. Tác phẩm nghệ thuật lôi cuốn người đọc là nhờ nhiều yếu tố trong đó chi tiết đóng vai trò quan trọng,
Truyện ngắn cô đọng hàm súc về dung lượng nên mọi chi tiết đều phải có sự lựa chọn kĩ lưỡng của nhà văn.
Chi tiết trong tác phẩm có một vị trí đặc biệt quan trọng như “nhãn tự” trong thơ tứ tuyệt. Chi tiết góp phần hình thành tính cách nhân vật, chủ đề tác phẩm. khẳng định sự tinh té, độc đáo tài hoa của nhà văn.
Cách đánh giá của Giáo sư NĐM không chỉ đặt ra yêu cầu sáng tạo các chi tiết độc đáo mà còn mở ra một hướng mới trong tiếp nhận truyện ngắn thông qua các chi tiết độc đáo,
Luận điểm 2 : Phân tích, chứng minh giá trị của chi tiết cái bóng trong đoạn trích trên.
a. Giới thiệu sơ lược về cảnh ngộ của Chí Phèo và Vị trí chi tiết cái bóng.
+ HS tóm lược cuộc đời tha hoá của Chí phèo trong vài dòng: mồ côi, bị đấy vào tù, tha hoá , thay đổi cả nhân hình lẫn nhân tính, hắn ra tù và uống rượu say, đến nhà Bá Kiến chửi,…
+ Vị trí của chi tiết :Sau khi chửi xong hắn lào đảo ra về, định đập phá, đốt nhà ai đó, trăng lên và soi cái bóng của Chí Phèo, hắn nhìn thấy cái bóng mình. Tiếp sau đó, Chí Phèo ghé vào nhà Tự Lãng
“Cái bóng ” được miêu tả đen và méo mó trên đường trăng nhễ nhại, xệch xạc bên trái, thu gọn vào rồi dài loang ra, xé rách vài chỗ.
Nó quần quật dưới chân Chí Phèo.
hí đứng lại nhìn nó và nghiêng ngả cười, cười ngặt nghẽo, cười rũ rượi
Cái vật xệch xạc ấy: đúng là bóng hắn.
b. Ý nghĩa của chi tiết
“Cái bóng’’ được miêu tả cụ thể, có đường nét, hình khối, có số phận thảm thương như chính chủ nhân mình.
– Quần quật dưới chân Chí Phèo: quẩn quanh, bó buộc, không lối thoát.
– Méo mó, xệch xạc, dài loang, rách.phản ánh hình hài của Chí Phèo, cuộc đời Chí, nó thảm hại, không lành lặn, thiếu nguyên vẹn, rách rưới, xệch xạc.
– Chí nhìn nó cười nghiêng ngả, cười rũ rượi:
+ Khi không biết đó là cái gì: thể hiện trạng thái của kẻ say.
+ Khi biết đó là cái bóng của mình: tiếng cười đầy phẫn chí của kẻ đau đớn, bế tắc.
-> “Cái bóng’ phản ánh cái hình, không chỉ thân phận, con người Chí mà ngay cả cái bóng cũng được nhà văn miêu tả hết sức thảm thương, tội nghiệp.
c. Vai trò chi tiết “cái bóng” trong tác phẩm
Chi phối hành động của Chí Phèo: hắn cười và quên báo thù, hắn qua cái ngõ đầu tiên.
Thúc đẩy câu chuyện phát triển: hắn đến nhà Tự Lãng – tô đậm thêm bi kịch thân phận Chí Phèo khi hắn đối diện với chính mình — nhấn mạnh sự cô độc đến tận cùng của Chí, minh hoạ thêm chi tiết trước đó: đằng sau tiếng chửi của Chí Phèo: cả làng Vũ Đại ai cũng xa lánh, sợ hãi hắn. Giúp người đọc thấu hiểu hơn tấm lòng nhà văn cũng như thân phận của một kẻ cùng đường, bi kịch.
->>Nhận xét tài năng miêu tả của Nam Cao
Là chi tiết rất nhỏ, thoáng qua, tưởng chừng vụn vặt song lại góp phần thể hiện tính cách nhân vật và chủ đề tác phẩm. Miêu tả chi có 8 câu nhưng rất độc đáo, kết cấu hoàn chỉnh của một đoạn văn với chủ đề đầy ý nghĩa cái bóng Chí Phèo: Câu 1,2: miêu tả trăng đẹp; câu 3: câu hỏi thắc mắc về cái vật trên đường đi; câu 4, 5: miêu tả cái bóng; câu 6, 7: hành động của Chí Phèo’ câu 8: kết luận. Xen kẽ cách biểu đạt: miêu tả, biểu cảm, tự sự, lời bình giúp đoạn văn sinh động vừa góp phần thể hiện nội tâm nhân vật, vừa cho thấy thái độ, tình cảm nhà văn. Sự đối lập giữa “ánh trăng rằm vành vạnh, chảy trên đường trắng tinh” với “cái vật đen, méo mó” làm rõ hơn vẻ đẹp muôn thuở của tạo hoá, soi rọi thêm nỗi đau của những kẻ cùng đường dưới “gầm trời” Vũ Đại.
Kết bài : Đánh giá
+Chi tiết nhỏ làm nên tác phẩm lớn…
+ Khẳng định tính đúng đắn của ý kiến :”Ở truyện ngắn, mỗi chi tiết đều có vị trí quan trọng như mỗi chữ trong bài thơ tứ tuyệt. Trong đó có những chi tiết đóng vai trò đặc biệt như những nhãn tự trong thơ vậy”
Đề bài 26:
Nguyễn Đình Thi nhận xét : “Nếu được dùng đến chữ “hóa công” thì có thể gọi người viết tiểu thuyết là một “hóa công”nhỏ , viết tiểu thuyết là sáng tạo ra một thế giới .”
Anh /chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua tiểu thuyết Số Đỏ- Vũ Trọng Phụng
1.Giải thích
-Lời bàn của NĐT đã đánh giá rất cao nhưng rất chân thực về công việc viết tiểu thuyết .
-“Hóa công” : hiểu theo quan niệm thông thường là cách gọi đấng siêu nhiên , thần thánh đã sáng tạo ra thế giới tự nhiên . Cách gọi này thường gắn vơi đời sống tâm linh, thể hiện thái độ tôn kính , ngưỡng mộ .
-Theo cách nói của Nguyễn Đình Thi , “hóa công” nhỏ là để chỉ tài năng sáng tạo của người nghệ sĩ trong trong mỗi tiểu thuyết . Đây là cách so sánh mới lạ , độc đáo mà chính xác đối với những đóng góp của người nghệ sĩ chân chính .
-Nếu coi người viết tiểu thuyết là một “hóa công” nhỏ thì thế giới nghệ thuật do người nghệ sĩ ấy sáng tạo ra xứng đáng là một thế giới thu nhỏ . Bởi vì , tiểu thuyết là một loại hình tự sự phản ánh thế giới khách quan trên bình diện rộng . Thế giới của tiểu thuyết càng phong phú , càng chân thực thì tài năng của nhà văn càng rõ nét .
-Lời nhận định của NĐT đã khái quát một quy luật sáng tạo nghệ thuật : người viết tiểu thuyết từ những quan sát , trải nghiệm thực tế , đưa vào tác phẩm của mình mô hình thu nhỏ của thế giới khách quan . Đó chính là yêu cầu sáng tạo nghệ thuật chân chính .
2.Chứng minh và bình luận
a.Khái quát về tiểu thuyết Số đỏ và tài năng của một bậc “hóa công” Vũ Trọng Phụng
-Số đỏ là một tác phẩm xuất sắc của nền văn học hiện thực 1930-1945 , tiêu biểu cho tài năng nghệ thuật của tiểu thuyết gia Vũ Trọng Phụng .
-Tiểu thuyết Số đỏ là một mô hình thu nhỏ đầy đủ , sống động về thực trạng đời sống xã hội thành thị tư sản Việt Nam đầu thế kỉ XX với tất cả những mặt lố lăng , kệch cỡm : nhân vật của tác phẩm là tầng lớp tư sản thành thị với lối sống giả dối , suy đồi à một xã hội chó đểu , vô nghĩa lí .
-Với Số đỏ , VTP đã chứng tỏ bàn tay của một đấng “hóa công” khi xây dựng thế giới tiểu thuyết đồ sộ với hơn 30 nhân vật , vô số hành động , các mâu thuẫn trào phúng được khai thác triệt để để phục vụ mục đích phê phán , tố cáo cái thực trạng xã hội thối nát , giả dối ấy .
b.Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia , trích chương XV của tiểu thuyết , giống như một phân cảnh nhỏ trong chuỗi dài tấn hài kịch mà VTP xây dựng .
-Đoạn trích là sân khấu hài kịch mà tất cả các nhân vật đều có đất diễn , thậm chí diễn rất đạt vai trò của mình . Đám tang cụ Cố tổ là cơ hội phô diễn lố bịch của đám con cháu , bạn bè , là nơi diễn ra cuộc doanh thương bẩn thỉu của đám người hám danh lợi .(chứng minh màn hài kịch của cô Tuyết , cậu Tú Tân , nhất là cuộc mua bán của ông Phán mọc sừng với Xuân Tóc đỏ …)
-Đoạn trích chỉ nằm trong một phần của toàn bộ chương tiểu thuyết nhưng có khả năng khái quát , tổng hợp hiện thực ở quy mô lớn : cả xã hội thành thị đều có mặt đầy đủ ở đám tang với đầy đủ hạng người , dáng vẻ (chứng minh hình ảnh những người trong đám tang : ngoài những người trong gia đình cụ cố Hồng còn có đủ đám giai thanh gái lịch , những vị tai to mặt lớn với đủ loại huy chương , huân chương nhưng là những kẻ đạo đức giả , vô văn hóa…)
-Những chân dung trào phúng mà VTP tạo ra rất riêng nhưng vẫn có tầm phổ quát (chứng minh qua nhân vật cụ cố Hồng , Xuân tóc đỏ và ông Phán mọc sừng…)
-Những yếu tố nghệ thuật đặc sắc : nghệ thuật trào phúng bậc thầy , bút pháp cường điệu , phóng đại , giọng điệu linh hoạt , thủ pháp điện ảnh …
3.Đánh giá
-VTP đã đóng góp lớn lao vào việc hình thành và phát triển nền tiểu thuyết hiện đại.Ông từng phát biểu tiểu thuyết phải là “sự thực ở đời”.
-Từ lời bàn của NĐT , đặt ra yêu cầu đối với người viết tiểu thuyết và bài học tiếp nhận vẻ đẹp của thế giới nghệ thuật được tạo lập trong tiểu thuyết : không sao chép hiện thực , phản ánh cuộc sống một chiều mà người nghệ sĩ phải luôn trăn trở , không ngừng sáng tạo , đổi mới để hiện thực cuộc sống tuy rộng lớn , bao quát nhưng không trùng lặp .
Đề bài 27:
Trong bài Cảm xúc , nhà thơ Xuân Diệu viết :
“Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”
Trong truyện ngắn Giăng sáng , nhà văn Nam Cao lại viết :
“Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối , không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thể là tiếng đau khổ kia , thoát ra từ những kiếp lầm than” .
Anh / chị hãy làm sáng tỏ quan niệm nghệ thuật trong những lời thơ, lời văn trên .
Hướng dẫn :
.Phân tích , chứng minh hai quan niệm nghệ thuật của Xuân Diệu và Nam Cao
a.Câu thơ của XD nói lên quan niệm nghệ thuật của một nhà thơ lãng mạn tiêu biểu ở thời đại Thơ mới .
-Thi sĩ lãng mạn là người có điệu tâm hồn , điệu cảm xúc thăng hoa , bay bổng .
-Cảm hứng sáng tác của thi sĩ lãng mạn chủ quan , tự do , không bị ràng buộc bởi bất cứ điều gì .
-Thi sĩ lãng mạn luôn có xu hướng thoát li thực tại , hướng tới cái đẹp, cái lí tưởng
(chứng minh các ý trên bằng thơ XD và các nhà thơ lãng mạn khác)
b.Câu văn của NC nói lên quan niệm của một nhà văn hiện thực tiêu biểu :
-Nghệ thuật không được tô vẽ cuộc đời bằng cái đẹp ảo tưởng , phù phiếm ; không thể thoát li , chạy trốn hiện thực
-Nghệ thuật phải phản ánh hiện thực cuộc sống , đặc biệt là hiện thực về thân phận con người
-Người nghệ sĩ phải mở lòng ra để lắng nghe , để thấu hiểu , cảm thông với những khổ đau , bất hạnh của con người .
(chứng minh các ý trên bằng sáng tác của Nam Cao và một số nhà văn hiện thực khác)
2.Bình luận về hai quan niệm trên
-Trong giai đoạn 1930-1945 , hai khuynh hướng sáng tác lãng mạn chủ nghĩa và hiện thực chủ nghĩa cùng tồn tại và phát triển .
-Hai khuynh hướng này đối lập nhau , nhưng không loại trừ nhau , thường tác động qua lại , có khi chuyển hoá lẫn nhau .
-Hai khuynh hướng này đã làm nên một nền văn học với nhiều thành tựu rực rỡ , với nhiều tác giả , tác phẩm nổi tiếng .
Đề bài 28:
Bàn về truyện ngắn, nhà văn Nguyễn Kiên cho rằng:
“Một truyện ngắn hay vừa là chứng tích của một thời, vừa là hiện thân của một chân lí giản dị của mọi thời”.
Anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.
A Giải thích vấn đề
– Chứng tích của một thời: Phản ánh được hiện thực của thời đại với những vấn đề đời sống nổi cộm, bức thiết của nó.
– Hiện thân của một chân lí giản dị của mọi thời: Thể hiện được những vấn đề bản chất, cốt lõi của nhân sinh, những chân lí muôn đời, vượt qua giới hạn của thời đại.
– Ý kiến của Nguyễn Kiên không chỉ chia sẻ kinh nghiệm sáng tác của nhà văn mà còn nêu lên một yêu cầu cốt tử đối với nội dung truyện ngắn.
Khẳng định vấn đề
* Vận dụng kiến thức lí luận văn học để khẳng định vấn đề:
– Văn học là tấm gương phản chiếu cuộc sống, hiện thực là một thuộc tính tất yếu của văn học. Vì thế tác phẩm luôn in dấu những đặc điểm lịch sử xã hội của thời đại mà nó ra đời, là chứng tích của một thời. Nhà văn sâu sắc sẽ nhìn thấy trong chứng tích của một thời những “tính tình bất diệt của loài người”, những hằng số giá trị của cuộc sống muôn thuở, ấy là chân lí giản dị của mọi thời.
– Truyện ngắn bị giới hạn về dung lượng, nó thường phản ánh đời sống trong một lát cắt ngang, một khoảnh khắc. Nhà văn phải chộp được cái khoảnh khắc đắc địa, dồn nén, kết tinh những vấn đề cốt lõi, bản chất nhất. Vì thế truyện ngắn không chỉ phản ánh hiện thực của thời đại nhà văn sống mà còn thể hiện được những chân lí muôn đời.
* Thẩm bình một số truyện ngắn để khẳng định vấn đề, cần chỉ ra được “chứng tích của một thời”, “chân lí giản dị của mọi thời” chứa đựng trong tác phẩm.
B Mở rộng và nâng cao vấn đề
– “Vừa là chứng tích của một thời, vừa là hiện thân của một chân lí giản dị của mọi thời” không chỉ là yêu cầu nội dung của một truyện ngắn hay, mà còn là phẩm chất của mọi tác phẩm văn học đích thực. Vì thế văn học luôn giàu giá trị nhận thức.
– “Chứng tích của một thời” “chân lí giản dị của mọi thời” cần được gửi gắm trong nghệ thuật truyện ngắn độc đáo, ấn tượng: tình huống truyện bất ngờ, chi tiết đắt, kết cấu đặc sắc…Nhà văn phải có vốn sống phong phú, phải đào sâu tìm tòi mới có được một truyện ngắn hay như thế.
Đề bài 29:
“Bắt rễ ở cuộc đời hàng ngày của con người, văn nghệ lại tạo được sự sống cho tâm hồn con người.” (Nguyễn Đình Thi)
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua tác phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.
Có thể trình bày bằng những cách khác nhau nhưng phải đảm bảo các ý cơ bản sau:
a, Giới thiệu vấn đề nghị luận
Dẫn dắt và trích câu nói :“Bắt rễ ở cuộc đời hàng ngày của con người, văn nghệ lại tạo được sự sống cho tâm hồn con người.”
b, Giải thích vấn đề:
-“Bắt rễ ở cuộc đời hàng ngày của con người”: Cuộc đời là nơi xuất phát của văn nghệ. Hiện thực đời sống tác động vào nhận thức, tình cảm của người nghệ sỹ làm người nghệ sỹ nảy sinh những xúc cảm mãnh liệt. Nó thôi thúc người nghệ sỹ cầm bút sáng tác. “Xã hội nào thì văn học ấy”, “văn học là tấm gương phản chiếu hiện thực xã hội”…
– “Văn nghệ lại tạo được sự sống cho tâm hồn con người.”:
+ Đích đến của văn nghệ là cuộc sống. Chức năng của văn học là phục vụ cuộc sống và con người. Văn học nghệ thuật phải làm cho cuộc sống này trở nên tốt đẹp hơn, con người trở nên trong sáng, lương thiện và Người hơn. “Nghệ thuật là phương thức tồn tại của con người, giữ cho con người mãi mãi là con người, không sa xuống thành con vật…Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người” (Nguyên Ngọc)
+ Văn chương chân chính phải là tiếng nói đồng vọng từ cuộc sống, bênh vực và tìm lối thoát cho những số phận hẩm hiu. Ca ngợi những vẻ đẹp của con người, phê phán những thế lực xấu xa, chà đạp lên quyền sống của họ.
+ Văn chương thổi vào những tâm hồn héo hắt nguồn sống mới đó là niềm vui, niềm tin, niềm hi vọng, nghị lực sống, tình yêu, tình quê hương, đất nước…
c, Chứng minh qua tác phẩm “Hai đứa trẻ” –Thạch lam.
– Văn học “bắt rễ ở cuộc sống hàng ngày của con người”
+ Tác phẩm “Hai đứa trẻ” là bức tranh hiện thực về cuộc sống tù đọng, tối tăm của xã hội Việt Nam trước CMT8- 1945. Một bức tranh được vẽ bằng những gam màu u tối, nhợt nhạt. Ánh sáng chỉ le lói, yếu ớt. Hoạ vào đó là những âm thanh nhỏ nhoi, uể oải, chậm chạp, mệt mỏi. Những con người tàn tạ, nghèo nàn, khốn khổ sống đơn điệu, quẩn quanh tẻ nhạt…
+ Tác phẩm phản ánh được những vấn đề tồn tại của hiện thực đời sống. Nhưng tác giả không sao chép thực tế một cách cứng nhắc mà gửi gắm vào đó nhiều điều mới mẻ, sâu sắc.
->>Học sinh có thể phân tích cuộc sống nghèo khổ, quẩn quanh, tăm tối của chị em Liên và những người dân phố huyện.
– Văn học “lại tạo được sự sống cho tâm hồn con người.”
+ Tác phẩm “Hai đứa trẻ” thực sự tác động đến tư tưởng, tình cảm, thế giới quan của người đọc và làm thay đổi nhận thức của họ.
.)Nó thanh lọc tâm hồn con người, hướng họ đến những giá trị nhân văn cao cả. Đó là tình yêu thương, đồng cảm, xót xa trước những kiếp người khốn khổ, tàn tạ. Đó là sự nâng niu trân trọng những mơ ước, những khao khát đổi đời dù những ước mơ còn mơ hồ, chưa rõ hình hài (Bức tranh cuộc sống nơi phố huyện và tâm trạng của chị em Liên và An) . Cao hơn nữa là sự sẵn sàng đem đến và thắp sáng những ước mơ cho những con người khốn khổ và bất hạnh đó.(Hình ảnh đoàn tàu qua phố huyện)
.) Nó nâng đỡ sự sống, gieo vào tâm hồn con người những ước mơ chân chính, những niềm tin bất diệt vào những giá trị của cuộc sống. Dù trong hoàn cảnh nào cũng không tắt những ước mơ, những hi vọng vào những điều tốt đẹp. (Cuộc sống dù nghèo nàn, tù túng, lay lắt quẩn quanh nhưng những con người nơi phố huyện chưa ngày nào thôi chờ đợi, khát khao…)
.) Truyện ngắn còn gieo vào lòng người đọc tình yêu thương gắn bó với quê hương (Những bức tranh quê hương gần gũi mà không kém phần thơ mộng, gợi cảm. Các nhân vật trong truyện luôn gắn bó với nơi thôn dã, sống hoà hợp với thiên nhiên…)
+ Tác phẩm “Hai đứa trẻ” còn làm cho người đọc rung động xao xuyến bởi nghệ thuật viết truyện mang đậm sác thái trữ tình, lãng mạn (Giọng văn nhẹ nhàng, điềm tĩnh, khách quan; lời văn bình dị nhưng luôn ẩn hiện một một tình cảm xót thương, trân trọng; nghệ thuật miêu tả rất tinh tế những biến thái tinh vi của cảnh vật và diễn biến tâm trạng của các nhân vật…)
d, Đánh giá chung
– Văn chương đích thực phải xuất phát từ cuộc sống và đến với cuộc sống. Văn học phải phục vụ đời sống và con người. Tác phẩm Hai đứa trẻ xứng đáng là một minh chứng rõ nét cho nhận định sâu sắc này.
– Tác phẩm chính là sự thể hiện cụ thể của những suy nghĩ, những quan niệm nhân sinh sâu sắc của nhà văn Thạch Lam.
– Nhận định cũng để lại bài học sâu sắc cho những văn nghệ sĩ trong quá trình sáng tạo nghệ thuật của mình …
Đề bài 30:
“Chữ người tử tù là một khúc tráng ca ca ngợi cái đẹp bất diệt (…) đem đến cho người đọc niềm tin vào sức mạnh cứu vớt con người của cái đẹp”
(Theo Văn xuôi lãng mạn Việt Nam trong nhà trường phổ thông) Anh/chị hãy phân tích tác phẩm Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) để làm rõ nhận định trên.
1. Giải thích ý kiến
– Tráng ca: bài ca với âm hưởng hùng tráng, mạnh mẽ.
-Cái đẹp: là phạm trù cơ bản và trung tâm của mĩ học. Cái đẹp có trong thiên nhiên, trong sản phẩm lao động, ở con người và trong nghệ thuật. Nếu nói, những hoạt động của con người đều bị chi phối bởi quy luật cái đẹp thì nghệ thuật là nơi tập trung cao nhất của quy luật đó. Trong nghệ thuật nói chung, trong văn chương nói riêng, cái đẹp của nội dung cũng phải phù hợp với cái đẹp của hình thức ‘ ~ :
-Nói cái đẹp trong Chữ người tử tù “ đem đến cho người đọc niềm tin vào sức mạnh cứu vớt con người của cái đẹp” là nói đến khả năng hướng thiện của cái đẹp; khả năng dẫn dắt, “hướng đạo ” và giúp con người có thêm sức mạnh trên con đường thực hành “thiên lương”.
2. Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù để làm rõ nhận định
Cái đẹp trong Chữ người tử tù là cái đẹp siêu việt, trác tuyệt; nó tập trung thể hiện cái đẹp của con người – chủ yếu là ở hình tượng nhân vật Huấn cao – và cái đẹp của chữ
a. Cái đẹp toát lên từ nhân vật Huấn Cao:
+ Nguyên mẫu của Huấn cao là danh sĩ Chu thần Cao Bá Quát ‘‘’’Nguyên mẫu nghệ sĩ anh hùng trong thực tế lịch sử
+ Huấn Cao được xây dựng nên như hình tượng nghệ thuật — nơi thể hiện sức mạnh của chân — thiện — mĩ: ( phần này các em phân tích nhân vật Huấn Cao để chứng minh nhé )
Một Huấn Cao mang vẻ đẹp uy nghi của bậc hào kiệt, một trang anh hùng.
Huấn Cao toả ngời bởi vẻ đẹp của thiên lương trong sáng.
Huấn Cao rực rỡ trong vẻ đẹp của người nghệ sĩ tài hoa, có tài viết thư pháp.
Cái đẹp của chữ
+ Thú chơi chữ là thú chơi cao sang dành riêng cho “tao nhân mặc khách”.
+ Viết chữ đẹp là một hoạt động sáng tạo nghệ thuật, người viết chữ đẹp là nghệ sĩ.
+ Chữ của Huấn Cao là “vật báu trên đời” bởi nó rất đẹp, nó là hiện thân cho cốt cách tài hoa, cho khí phách, cho thiên lương, là hiện thân sinh động đầy đủ cho quan niệm về cái đẹp
b. Cảnh cho chữ
-Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có:
+ Trong buồng giam chật chội, ẩm ướt, dơ bẩn, cái đẹp được tạo hình to đôi tay người tử tù.
+ Sự thay đổi ngôi bậc lạ lùng: Người tù thì ung dung lẫm liệt, ngục quan thì khúm núm, rụt rè.
-» Cái đẹp có thể được sản sinh trên miền đất tội ác nhưng nó không sống chung với cái ác mà có sức mạnh chiến thắng cái ác.
– Cái đẹp là nơi gặp gỡ của những tấm lòng:
+ Cái đẹp đã đem viên quản ngục đến gần người tử tù để giữa họ có một sự tri ngộ sâu sắc — sự đồng điệu của những cái tâm trong sáng.
+ Cái đẹp toát lên từ “những nét chữ vuông tươi tắn” và từ lời khuyên chân thành cũng như cốt cách của người sáng tạo ra nó đã vạch một con đường hướng đạo cho viên quản ngục.
+ Hành động cái cúi đầu bái lạy của viên quản ngục là cái cúi đầu trước cái đẹp. Đó là cái cúi đầu để người ta “đứng thẳng người ” ngẩng cao đầu đi theo “thiên lương”.
—> Cái đẹp là một thứ quyền uy thực sự, thiêng liêng, tuyệt đối. Nó phải đi liền với cái chân và cái thiện.
Ý nghĩa truyện
Đề bài 31:
So sánh kết thúc truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân và Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài của Nguyễn Huy Tưởng
Mở bài:
+Giới thiệu hai tác giả và hai tác phẩm
+Giới thiệu luận đề : 2 văn bản với hai kết thúc đặc biệt, gửi gắm quan niệm nghệ thuật của tác giả.
Thân bài
1.. Lí luận về vai trò của “cái kết” trong mỗi tác phẩm tự sự: giải quyết mọi mâu thuẫn xung đột, chuyển tải thông điệp của tác giả, đóng vai trò quan trọng trong sự thành công của tác phẩm tự sự.
2. Giới thiệu chung về Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân), Vĩnh biệt Cửu trùng đài (trích Kịch Vũ Như Tô – Nguyễn Huy Tưởng), sau đó tóm tắt ngắn gọn cốt truyện dẫn tới cái kết của hai nhân vật ( ngắn gọn 7-10 dòng)
Nguyễn Tuân ( 1910 – 1987), quê làng Nhân Mục, Hà Nội. Ông là nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại.Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng, in năm 1938 trên tạp chí Tao đàn, sau đó được tuyển in trong tập truyện Vang bóng mót thời và đổi tên thành Chữ người tủ tù. Vang bóng một thời khi Nguyễn Tuân in lần đầu (1940) gồm 11 truyện ngắn, là tác phẩm kết tinh tài năng của Nguyễn Tuân trước Cách mạng.Truyện miêu tả tài năng và dũng khí, thiên lương cao cả kết tinh thành vẻ đẹp của Huấn Cao đồng thời làm rõ cái đẹp và cái thiện đã cảm hóa được cái xấu, cái ác và khẳng định tài và tâm, cái đẹp và cái thiện không thể tách rời.
Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) là nhà viết kịch nổi tiếng Việt Nam.Ông có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử và có đóng góp nổi bật ở thể loại tiểu thuyết và kịch. Văn phong ông vừa giản dị, trong sáng, vừa đôn hậu, thâm trầm, sâu sắc. “Vũ Như Tô” là một vở kịch lịch sử. Tác phẩm ” Vũ NHư Tô” là cách nhà văn thể hiện quan điểm của mình về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cường quyền, giữa nghệ sĩ và nhân dân…Đây là một kiệt tác làm nên thành công của Nguyễn Huy Tưởng.Vị trí đoạn trích ở hồi 5 ( hồi cuối của tác phẩm)
Kết thúc truyện ẩn chứa quan niệm nghệ thuật mà tác giả gửi gắm, góp phần làm nên thành công của hai tác phẩm.
3. Phân tích, so sánh hai cách kết thúc của hai tác phẩm
a. Điểm giống nhau giữa hai kết thúc: Sau khi sáng tạo ra cái đẹp,nhân vật chính ra pháp trường, đón nhận cái chết.
Thông qua cái chết của nhân vật, tác giả gửi gắm quan niệm về số phận người nghệ sĩ giữa cuộc đời, quan niệm về nghệ thuật và đời sống.
Hai tác phẩm đều có cách kết thúc bất ngờ : Các chết của những thiên tài.
b. Điểm khác nhau:
+Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân): người sáng tạo ra cái đẹp chết nhưng cái đẹp vẫn được nâng niu, gìn giữ, vẫn bất tử và toả sáng dù được sinh ra nơi dơ bẩn, tối tăm. Người sáng tạo ra cái đẹp dù đi đến cái chết vẫn ung dung, thanh thản.
—> Vì đó là cái đẹp gắn với cái thiện, là cái tài gắn với cái tâm, cái đẹp ấy đã nâng đỡ con người (viên ngục quan) nên trở thành bất tử.
+Vĩnh biệt Cửu trùng đài: người sáng tạo ra cái đẹp chết, cái đẹp cũng bị huỷ diệt. Người nghệ sĩ ra đi với câu hỏi lớn, với mâu thuẫn không thể giải quyết.
-> Vì đó là cái đẹp đi ngược lại với quyền lợi, với cuộc sống của nhân dân, cái đẹp không vì con người nên bị huỷ diệt.Bi kịch Vũ Như Tô đã thức tỉnh ý thức của chúng ta về vấn đề muôn thuở : Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống- NGHỆ THUẬT PHẢI VỊ NHÂN SINH thì nghệ thuật mới tồn tại và được nhân dân tôn thờ, nâng niu, bảo vệ.
Đánh giá về ý nghĩa của 2 kết thúc: dù có điểm khác nhau nhưng cả hai kết thúc đều hướng người đọc đến nhận thức về:
+ Mối quan hệ giữa cái đẹp giữa người nghệ sĩ với con người, với cuộc đời.
+ Chỉ khi nào người nghệ sĩ nhận thức đúng đắn vấn đề này thì sự sáng tạo của họ mới trở nên bất tử
—>> Đặt ra vấn đề về người nghệ sĩ và nghệ thuật chân chính.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
o Huấn Cao: nhân vật trung tâm của một truyện ngắn lãng mạn
o Vũ Như Tô: nhân vật trung tâm của một vở kịch lịch sử (bi kịch lịch sử)
3. Lí giải sự tương đồng khác biệt trong hai tác phẩm: Do hoàn cảnh sáng tác, do phong cách và quan niệm của mỗi nhà văn về nghệ thuật cuộc sống
Huấn Cao: Huấn Cao chết là sự hy sinh của người anh hùng được nhân dân kính trọng, ngưỡng mộ, thương xót. Trước giây phút ra pháp trường, ông vẫn sáng tạo cái đẹp, một con người rất mực tài hoa, coi thường cái chết. Đối với nhân dân, ông là người anh hùng, vị cứu tinh của họ. Căn nguyên cho bi kịch của Huấn Cao là sự tương phản giữa khát vọng, lí tưởng đẹp đẽ cao khiết về cái đẹp của người nghệ sĩ, người anh hùng và hoàn cảnh xã hội tăm tối (xã hội phong kiến suy tàn).
Vũ Như Tô: Vũ Như Tô chết dưới lưỡi dao của nhân dân bởi họ cho rằng ông với việc xây Cửu Trùng đài là nguyên nhân dẫn đến cảnh cơ cực, lầm than trong thiên hạ. Họ trách móc, oán thán, căm ghét ông. Nhân dân xem ông và bạo chúa là cùng một phe. Đối với nhân dân, Vũ Như Tô là một tội nhân. Căn nguyên cho bi kịch của Vũ Như Tô: không chỉ do sự mâu thuẫn giữa khát vọng nghệ thuật kì vĩ của ông và bối cảnh xã hội phong kiến thối nát mà còn do sự “ngây thơ”, “mơ mộng” của chính ông trong việc giải quyết mối quan hệ giữa nghệ thuật cao siêu thuần túy và lợi ích thiết thực của nhân dân. Vũ Như Tô đắm mình trong niềm đam mê nghệ thuật có phần mù quáng, ảo vọng xa rời thực tế, cuộc sống của nhân dân.
Qua 2 nhân vật, Nguyễn Tuân và Nguyễn Huy Tưởng đã:
– Gửi gắm quan niệm nghệ thuật có ý nghĩa sâu sắc:
o Nguyễn Tuân với quan niệm thẩm mĩ: cái đẹp luôn chiến thắng bất diện, đi liền với cái thiện. Nó cảm hóa, thanh lọc tâm hồn con người. Tác giả gửi gắm phương châm sáng tạo nghệ thuật phải là sự thăng hoa của cái tài và tâm.
o Nguyễn Huy Tưởng đặt ra vấn đề giữa nghệ thuật và cuộc đời, giữa khát vọng của người nghệ sĩ và khát vọng của nhân dân, từ đó khẳng định nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì cuộc sống, vì con người. Người nghệ sĩ phải đặt lòng mình giữa cuộc đời.
– Thể hiện tấm lòng tri âm, đồng cảm, trân trọng với số phận và vẻ đẹp của người nghệ sĩ trong lịch sử và cuộc sống
– Bộc lộ phong cách nghệ thuật độc đáo của mình.
Kết bài: Gợi những suy nghĩ chung về vấn đề.
Đề bài 32:
So sánh nhân vật Quản ngục trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân với Đan Thiềm trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài của Nguyễn Huy Tưởng.
Dàn ý:
3.a Trình bày cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ trên.
1. Giới thiệu khái quát về hai tác giả Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy tưởng và hai tác phẩm, hai nhân vật được yêu cầu cảm nhận.
2 Cảm nhận về hai nhân vật
a. Nhân vật quản ngục trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
– Là người nắm giữ quyền lực cao nhất trong nhà ngục nhưng lại có sở thích lạ lung: Thích chơi chữ. Chính sở thích cao quý này cùng tính cách nhẹ nhàng, biết giá người, biết trọng người ngay đã khiến cho Quản ngục vượt qua sự chi phối của địa vị xã hội để thể hiện tấm lòng biệt nhỡn liên tài với Huấn Cao. Hành động suốt nửa tháng đem rượu thịt cho Huấn Cao và các bạn đồng chí của ông cho thấy Quản ngục sẵn sàng chấp nhận nguy hiểm để thể hiện tình yêu với cái đẹp, cái tài. Trong cảnh cho chữ, vẻ đẹp tâm hồn của Quản ngục một lần nữa được thể hiện rõ khi nhân vật này được cái đẹp từ nghệ thuật và từ thiên lương của Huấn Cao hướng thiện, thanh lọc. Câu nói Kẻ mê muội này xin bái lĩnh cùng cái bái lạy và dòng nước mắt đã cho thấy sự trong sang, tốt đẹp trong nhân cách của Quản Ngục.
– Quản ngục là một nhân vật được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, có sự đối lập giữa tính cách và hoàn cảnh. Nguyễn Tuân đi sâu làm rõ những phức tạp trong tâm lí của Quản ngục bằng bút pháp độc thoại nội tâm.
b. Nhân vật Đan Thiềm trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
– Đan Thiềm là một cung nữ bị thất sủng có cái nhìn tỉnh táo, thức thời nhưng quan trọng hơn là có một tình yêu mãnh liệt dành cho cái đẹp, cái tài. Bà chính là người đã khuyên Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài rồi đến hồi kết cũng chính bà là người đã khuyên Vũ Như Tô đi trốn. Cả hai lời khuyên đều xuất phát từ tình yêu dành cho cái đẹp, cái tài. Trong đoạn trích Đan Thiềm khẩn thiết giục Vũ Như Tô đi trốn, bà tìm cách bảo vệ Vũ Như Tô như bảo vệ chính tính mạng cho mình. Khi không thể trốn được nữa Đan Thiềm đã xin tha sau đó xin chết thay cho Vũ Như Tô. Đó chính là tinh thần dũng cảm sẵn sàn hi sinh vì cái đẹp, cái tài. Cuối cùng khi mọi nỗ lực đều không thành Đan Thiềm đã từ biệt Vũ Như Tô bằng tiếng kêu xé lòng.
– Đan Thiềm thuộc kiểu nhân vật loại hình (nhân vật đặc trưng của thể loại kịch). Tính cách, tâm lí của nhân vật chủ yếu thể hiện qua ngôn ngữ và hành động
3 So sánh:
– Điểm tương đồng:
+ Cả hai nhân vật đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhân vật chính (người nghệ sĩ)
+ Cả hai nhân vật đều bị đặt trong thế tương phản, đối lập với hoàn cảnh.
+ Đều có tình yêu mãnh liệt dành cho cái đẹp, cái tài, sẵn sàng hi sinh vì cái đẹp, cái tài
– Điểm khác biệt
+ Quản Ngục phải trải qua quá trình đấu tranh nội tâm gay gắt sau đó mới đưa ra quyết định biệt đãi Huấn Cao còn Đan Thiềm ngay từ đầu đã có lựa chọn dứt khoát.
+Trong quan hệ với nhân vật chính Quản ngục là người được tác động để được thanh lọc còn Đan Thiềm lại là người trực tiếp tác động vào Vũ Như Tô để nghệ thuật được khai sinh
+ Về nghệ thuật: Ở Quản Ngục có tâm trạng phức tạp gắn với bút pháp độc thoại nội tâm còn ở Đan Thiềm tâm trạng được thể hiện qua ngôn ngữ, hành động bên ngoài
-Lí giải điểm tương đồng khác biệt:
+ Có những điểm tương đồng là do cả hai nhà văn đều là những người nặng lòng với cái đẹp. Cả hai tác phẩm đều ra đời trước cách mạng gắn với hiện thực đen tối, ngột ngạt mâu thuẫn gay gắt với cái đẹp, ước mơ, khát vọng của con người.
+ Có điểm khác biệt là do yêu cầu bắt buộc của văn học (không cho phép sự lặp lại) và do phong cách riêng của mỗi nhà văn
3 Kết bài:
-Khẳng định đây đều là hai nhân vật độc đáo thể hiện rõ thông điệp nghệ thuật của hai nhà văn.
Đề bài 33:
Tư tưởng nhân đạo của Nam Cao và Thạch Lam qua hai truyện ngắn Đời thừa và Hai đứa trẻ.
1. Giải thích:
– Nhân đạo là đạo lí hướng tới con người, vì con người, là tình yêu thương giữa người với người.
– Nhà văn chân chính là những nhà nhân đạo chủ nghĩa, phất cao ngọn cờ đấu tranh giải phóng con người và bênh vực quyền sống cho con người.
– Trong tác phẩm văn học, tư tưởng nhân đạo là tình cảm, thái độ của chủ thể nhà văn đối với cuộc sống con người được miêu tả trong tác phẩm thể hiện cụ thể ở lòng xót thương những con người bất hạnh; phê phán những thế lực hung ác áp bức, chà đạp con người; trân trọng những phẩm chất và khát vọng tốt đẹp của con người, đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người… Đồng thời, tư tưởng nhân đạo được thể hiện qua các hình tượng nghệ thuật, qua cảm hứng, cảm xúc, giọng điệu…
– Cảm hứng nhân đạo cùng với cảm hứng yêu n¬ước là hai sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ nền văn học Việt Nam. Về cơ bản có những biểu hiện chung song ở mỗi thời kì, giai đoạn, do hoàn cảnh lịch sử xã hội, do ý thức hệ t¬ư t¬ưởng của các nhà văn khác nhau nên có những biểu hiện riêng. Hai đứa trẻ của Thạch Lam và Đời thừa của Nam Cao là những tác phẩm điển hình thể hiện cảm hứng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.
2. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn Thạch Lam và Nam Cao qua Hai đứa trẻ và Đời thừa.
2.1, Sự gặp gỡ:
a. Thạch Lam và Nam Cao đều thể hiện thái độ đồng cảm, xót thương với những số phận bất hạnh trong xã hội cũ trước năm 1945.
– Hai đứa trẻ: Qua khung cảnh phố huyện nghèo đói, lụi tàn, Thạch Lam muốn bày tỏ niềm xót thương đối với những kiếp người nhỏ bé vô danh, không bao giờ biết đến ánh sáng hạnh phúc. Họ phải sống cuộc đời tẻ nhạt, vô nghĩa, đời sống cạn kiệt, mỏi mòn về cả vật chất và tinh thần.
– Đời thừa: Qua số phận nhân vật văn sĩ Hộ, một con người có khát vọng, có ước mơ hoài bão cao đẹp. Con người coi tình thương là lẽ sống, nhưng vì gánh nặng cơm áo mà phải chịu tấn bi kịch đời thừa, vi phạm lẽ sống tình thương. Nam cao bày tỏ niềm xót thương với người trí thức tiểu tư sản.
b. Gián tiếp tố cáo, lên án xã hội thực dân nửa phong kiến đẩy con người vào cuộc sống khốn cùng.
– Hai đứa trẻ: Gián tiếp tố cáo, lên án xã hội thực dân nửa phong kiến đẩy con người vào cuộc sống mòn mỏi, vô nghĩa nơi phố huyện , miền đất bị lãng quên trong đói nghèo tăm tối.
– Đời thừa: Gián tiếp tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến đày đoạ con người trong sự nghèo đói, vùi dập những ước mơ làm chết mòn đời sống tinh thần, lẽ sống, nhân cách cao đẹp của con người.
c. Cả hai nhà văn đều trân trọng tình người, đồng cảm với những ¬ước mơ, nguyện vọng chính đáng, ý thức cuộc sống hạnh phúc cá nhân của con người.
– Hai đứa trẻ: Thạch Lam muốn đánh thức, lay tỉnh những tâm hồn đang uể oải, lụi tàn ngọn lửa của lòng khát khao được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khao khát được thoát ra khỏi cuộc sống tăm tối, tù đọng, mòn mỏi đang muốn chôn vùi họ.
– Đời thừa: Nam Cao thức tỉnh sâu sắc ý thức cá nhân về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời. Viết Đời thừa, Nam Cao đã đồng tình với khát vọng được cống hiến được sáng tạo của người nghệ sĩ chân chính. Qua tấn bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ, Nam Cao thể hiện khát vọng của con người vươn tới một cuộc sống có ích, có ý nghĩa, được phát huy cao độ khả năng tiềm tàng chứa đựng trong mỗi con người.
d. Cùng yêu thương con người, trân trọng con người nhưng cả Thạch Lam và Nam Cao đều chưa chỉ ra con đường để nhân vật của mình đi từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui của cuộc đời mới. Họ nhìn đời, nhìn người bằng con mắt tình thương nhưng chưa gắn với tinh thần đấu tranh cách mạng.
– Hai đứa trẻ: Kết thúc với chi tiết phố huyện lại chìm trong sự tĩnh mịch và đầy bóng tối.
– Đời thừa: Kết thúc bằng lời ru ai oán của Từ.
e. Nguyên nhân của sự gặp gỡ.
– Do hoàn cảnh lịch sử xã hội: Nam cao và Thạch Lam sống và sáng tác trong môi trường xã hội thực dân nửa phong kiến thiếu sinh khí, ngột ngạt và tăm tối về tinh thần.
– Do ảnh hưởng của ý thức hệ t¬ư t¬ưởng phương Tây, đề cao cái tôi cá nhân của con người.
– Thạch Lam và Nam Cao đều là các nhà văn chân chính, đều là những nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ (Sê-khốp).
2.2. Những khám phá riêng:
a. Thể hiện thái độ đồng cảm, xót thương với những số phận bất hạnh trong những hoàn cảnh khác nhau.
– Hai đứa trẻ: Thạch Lam sống gắn bó và nặng lòng với tầng lớp thị dân nghèo, những kiếp người nhỏ bé sống quẩn quanh. Nên ông viết về họ với một niềm chân tâm, chân cảm, thấu hiểu tột cùng với muôn nỗi khốn khó trong cuộc sống của họ.
– Đời thừa: Nam Cao viết về người tri thức tiểu tư sản trong trạng thái căng nọc mình trên trang giấy, nên mỗi trang văn của ông đã khơi dậy những bi kịch tinh thần thầm kín, day dứt của người trí thức tiểu tư sản hay cũng chính là những day dứt của nhà văn.
b. Khám phá những sắc thái, cung bậc khác nhau trong nỗi đau tinh thần của con người.
– Hai đứa trẻ: Trước đây văn học chú ý đến cái đói vật chất (như nỗi đau dân nô, thời thế…) giờ văn học của ý thức cá nhân mới chạm đến được cái buồn chán cá nhân, tới nỗi đau riêng của mỗi người. Cái nghèo là cái đói vật chất, cái buồn chán là cái đói tinh thần, âm ỉ hơn, tê tái hơn. Nỗi đau tinh thần của con người nơi phố huyện được Thạch Lam miêu tả trong một sắc thái nhẹ nhàng nhưng gieo vào lòng người đọc rất nhiều bận bịu.
– Đời thừa: Nam Cao cũng miêu tả cái nghèo đói về vật chất và tinh thần nhưng cả cuộc đời Hộ đau nỗi đau triền miên dai dẳng, âm ỉ và dày vò. Nó tàn phá cuộc sống của Hộ khiến cuộc sống của anh mòn mục, rỉ ra trong kiếp đời thừa.
c. Thái độ thấu hiểu, tin yêu vào con người khác nhau.
– Hai đứa trẻ: Ngòi bút của Thạch Lam tin yêu vào con người nên trong tác phẩm của ông, dù nhân vật phải sống cuộc sống mòn mỏi, tù túng thì nhà văn vẫn dẫn dắt nhân vật hướng về phía ánh sáng của sự sống. Vì thế, Hai đứa trẻ mang âm hưởng lãng mạn bay bổng.
– Đời thừa: Trong khi miêu tả con người bị đẩy vào tình trạng có những hành động tàn nhẫn, nằm bên bờ vực của sự tha hoá, Nam Cao vẫn dứt khoát không chấp nhận cái ác, vẫn kiên định giữ vững nguyên tắc tình thương của mình, quyết không bỏ lòng thương. Nam Cao đặt niềm tin sâu sắc vào con người. Những giọt nước mắt đầy xót thương chảy dài cuối tác phẩm đã cho ta thấy điều đó.
d. Nghệ thuật thể hiện khác nhau.
– Hai đứa trẻ: Truyện ngắn của Thạch Lam thường không có cốt truyện, mỗi truyện như một bài thơ. Trong “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam chú trọng đi sâu vào nội tâm nhân vật với những cảm xúc, cảm giác mơ hồ mong manh. Thạch Lam đã sử dụng thành công thủ pháp nghệ thuật đối lập tương phản. Thạch Lam có một phong cách, một giọng điệu rất riêng. Đó là lối kể chuyện thủ thỉ, tâm tình thấm đượm chất thơ. Người đọc thấy ẩn hiện, kín đáo, lặng lẽ sau những hình ảnh, những dòng chữ, một tâm hồn Thạch Lam đôn hậu, tinh tế, hết sức nhạy cảm với mọi biến thái của tạo vật và lòng người.
– Đời thừa: Tư tưởng nhân đạo của Nam Cao được truyền tải tới người đọc qua thể loại truyên ngắn mang tính luận đề. Nam Cao đã khéo léo tạo tình huống đầy kịch tính để đẩy xung đột nội tâm nhân vật đến đỉnh điểm. Cách xây dựng truyện rất tự nhiên, dung dị nhưng vẫn gây được ấn tượng sâu đậm và tạo được hiệu quả nghệ thuật cao. Cách dẫn chuyện linh hoạt, phóng túng mà vẫn nhất quán chặt chẽ. Nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lý đạt đến bậc thầy. Giọng văn lạnh lùng đôi khi tàn nhẫn nhưng ẩn chứa trong đó tinh thần nhân đạo thống thiết.
e. Nguyên nhân của nét khác biệt:
– Bản chất của văn chương là sáng tạo.
– Mỗi nhà văn cá tính riêng, phong cách riêng. Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc còn Thạch Lam là cây bút tiêu biểu cho Tự lực văn đoàn.
3. Đánh giá:
– Vừa kế thừa tư tưởng nhân đạo truyền thống, mặt khác lại có thêm những nét sâu sắc, mới mẻ. Thạch Lam và Nam Cao xứng đáng là những nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Họ đã làm phong phú thêm chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam.
– Bài học cho sáng tạo nghệ thuật: Có được một giọng điệu riêng, phong cách độc đáo là hết sức khó, nhưng đó là điều kiện và yêu cầu của sáng tạo nghệ thuật. Muốn có được điều đó cần tạo ra được cách cảm và đặc biệt cách thể hiện khác nhau. Tuy nhiên cái gốc của nhà văn vẫn là tấm lòng “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” vì thế trên hết nhà văn phải viết vì cuộc đời, vì con người, tức là phải là nhà văn nhân đạo chủ nghĩa
Đề bài 34:
Truyện ngắn “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân) là một minh chứng tiêu biểu cho nhận xét: “Các nhà văn lãng mạn thường tìm kiếm những giá trị cao đẹp trong những cảnh tối tăm, khám phá cái cao cả trong những cái tầm thường”.
Anh/ chị nghĩ sao về điều này?
Giải thích: Ý kiến trên đề cập đến một đặc điểm nổi bật của văn học lãng mạn: Tạo nên sự đối lập giữa cái đẹp, cái cao cả với cái xấu, cái tầm thường, từ đó đề cao những giá trị tốt đẹp của con người và cuộc sống.
Phân tích “ Chữ người tử tù” để chứng minh
– Phát hiện vẻ đẹp hình tượng nhân vật Huấn Cao ( tài hoa, khí phách, thiên lương) trong sự đối lập với hoàn cảnh ngục tù . Nhân cách người tử tù bỗng tỏa sáng trong những phút giây cuối cùng của cuộc đời.
– Phát hiện vẻ đẹp nhân cách viên quản ngục trong sự tương phản với nghề coi ngục, với hoàn cảnh đề lao tăm tối như là “ một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.
– Cảnh cho chữ trong đề lao: Cái đẹp trong xiếng gông; cái đẹp thăng hoa từ đất chết, nơi ngục tù tăm tối và bẩn thỉu.
III. ĐỀ LUYỆN Ở NHÀ
Đề bài 1:
Nhận xét về sáng tác của Thạch Lam, Nguyễn Tuân viết:
“Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn vả nảy nở lên từ những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp khó nghèo. Thạch Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống của mọi người xung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học”.
(Theo Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập III, NXB Văn học, Hà Nội, 1996, trang 375)
Anh/Chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Dựa vào một số sáng tác của Thạch Lam, hãy chứng minh ý kiến đó.
Đề bài 2:
Nhận định về tác phẩm CHÍ PHÈO của nhà văn Nam Cao, từ điển văn học 2003 có viết: “Điều đặc sắc là khi miêu tả người nông dân lưu manh hoá, Nam Cao không hề bôi nhọ nông dân, mà trái lại đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để phát hiện và khẳng định nhân phẩm của họ bị xã hội cướp mất cả nhân hình lẫn nhân tính”
Phân tích nhân vật CHÍ PHÈO để làm sáng tỏ nhận định
Đề bài 3:
Sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối trong hai tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam và Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
Đề bài 4:
Nhà văn Macxim Gorki trong một bức thư gửi đạo diễn Xtalinapxki năm 1912 viết: “Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình, tìm thấy trong những ấn tượng ấy cái có giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng ấy có được hình thức riêng”
Qua tác phẩm CHÍ PHÈO , hãy làm sáng tỏ
Đề bài 5:
Vũ Trọng Phụng từng tuyên bố với các nhà văn lãng mạn :
“Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi, muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời”.
Giải thích ý kiến trên. Hãy phân tích những “sự thực ở đời” đã được Vũ Trọng Phụng phản ánh trong đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” (trích tiểu thuyết “Số đỏ”).
Đề bài 6:
“Cái ngắn của truyện ngắn mà người viết văn luyện tập suốt cả cuộc đời và qua mỗi tác phẩm của mình là một sự dồn nén để khái quát lấy những chi tiết điển hình”.
(Tìm hiểu truyện ngắn – Trần Thanh Địch, Nxb Tác phẩm mới, 1988, tr9)
Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên và phân tích một truyện ngắn tiêu biểu của Nam Cao để làm sáng tỏ ý kiến ấy.
Đề bài 7 :
Những dư vị còn lại còn lại trong ta sau khi đọc truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam?
Đề bài 8:
Bàn về truyện ngắn, Macxim Gorki cho rằng: Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn. Hãy làm sáng tỏ nhận định trên
IV. BÀI VIẾT THAM KHẢO
Đề bài 1:
Bàn về truyện ngắn, Macxim Gorki cho rằng: Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn. Hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Trong nền văn học viết Việt Nam, có những tác giả đã khẳng định vị trí của mình bằng sáng tác đồ sộ mang giá trị nhân văn lớn như đại thi hào Nguyễn Du với “Truyện Kiều” hoặc bằng cách phản ánh những sự kiện trong đại của đất nước như tác gia Tố Hữu, Nguyễn Tuân. Số khác thì đánh dấu bằng tuyên ngôn nghệ thuật như Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam… Nhưng cũng có các tác giả đã để lại ấn tượng muôn đời trong lòng người đọc chỉ bằng một một chi tiết nhỏ trong toàn bộ tác phẩm… trong đó có Nam Cao. Và như Macxim Gorki đã khẳng định :”Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn” là vậy
Người ta cứ nghĩ để viết nên một tác phẩm vĩ đại thì phải đi tìm những thứ to tát từ nơi xa xôi, phải thoát ly hiện thực đau khổ để tìm đến điều mơ tưởng. Không phải vậy, nhà văn – người sáng tạo ra cái đẹp – có thể chỉ tìm được nghệ thuật cao quý từ những điều bình thường nhất, nhỏ bé nhất mà lại nói lên được điều vĩ đại. “Chi tiết nhỏ” là những sự việc, sự kiện bình thường trong một tác phẩm, dường như ban đầu đọc qua ta chỉ nghĩ nó có tác dụng phản ánh hiện thực khách quan mà khi đọc kĩ càng, ta lại phát hiện trong đó một giá trị tư tưởng lớn có ý nghĩa giáo dục và thẫm mĩ cao. “Chi tiết nhỏ” nhưng mang giá trị nghệ thuật đặc sắc góp phần khẳng định lập trường và tài năng của “nhà văn lớn”
Chí Phèo là một điển hình nghệ thuật về người nông dân từ lương thiện rơi vào tha hóa trở thành quỷ dữ rồi bị gạt ra khỏi xã hội loài người, cuối cùng quay quắt trở về với bi kịch của khát vọng “làm người lương thiện”. Bi kịch bị ruồng bỏ, cô đơn trước đồng loại của Chí Phèo được Nam Cao thể hiện qua một chi tiết rất nhỏ, rất bình thường và tự nhiên ngay đoạn mở đầu nhưng càng đọc, càng suy ngẫm ta lại càng thấy từng tầng nghĩa sâu sắc cả về tư tưởng lẫn nghệ thuật của tác phẩm. Đó chính là tiếng chửi của Chí Phèo
Trong cơn say, hắn ngật ngưỡng bước đi và hắn chửi. Ban đầu hắn chửi trời vì trời sinh ra hắn một con người không hoàn thiện. Rồi hắn “chửi đời” vì đời bạc bẽo đã cưu mang hắn rồi lại vứt bỏ hắn. Tức quá, hắn “chửi cả làng Vũ Đại” đã đẩy hắn vào bi kịch tha hóa thê thảm. Nỗi cô độc đã lên đến tột độ, hắn”chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn”! Đau đớn nhất, Chí Phèo chửi “đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn” làm hắn mang những bi kịch lớn của cuộc đời. Chí Phèo chửi nhưng lời của hắn lại rơi vào trong im lặng đáng sợ. Không một ai đáp lại lời của hắn. Hắn chửi nhưng chất chứa bên trong là niềm khao khát được giao tiếp, được đồng vọng dù chỉ được đáp lại bằng một tiếng chửi. Nhưng đau xót thay, cả làng Vũ Đại quay lưng với hắn để cuối cùng hắn chửi nhau với ba con chó dữ: “Một thằng say và ba con chó dữ mà làm ầm ĩ cả làng”. Chí Phèo thật sự đã bị gạt bỏ khỏi xã hội loài người.
Tài hoa nghệ thuật Nam Cao được bộc lộ ngay trong đoạn mở đầu truyện ngắn. Nhà văn đã sử dụng rất thành công hình thái ngôn ngữ nửa trực tiếp để tạo nên hiện tượng đa thanh cho giọng điệu kể chuyện. Đoạn văn có lời kể khách quan xen lẫn lời nhận xét của tác giả, có cả lời nhủ thầm của dân làng: “Chắc nó trừ mình ra”. Như vậy, tuy dân làng Vũ Đại không xuất hiện nhưng ta vẫn thấy hình ảnh đám đông và thái độ của họ trước lời chửi Chí Phèo. Nổi bật lên tất cả là giọng Chí Phèo vừa có phần phẫn uất lại vừa cô đơn trước đồng loại: “Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! … Mẹ kiếp! Thế có phí rượi không?” Đó là lời kể của tác giả hay chính suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật đang cất lên tiếng nói.
Nhờ tính chất đa thanh của giọng điệu kể chuyện đã dẫn đến một tính chất đặc sắc khác cho đoạn văn: tính đa nghĩa. Tiếng chửi không chỉ là khao khát được giao tiếp mà còn là sản phẩm của một con người bị rơi vào bi kịch bị tha hóa, không được sống đúng bản chất của một con người. Bên ngoài là tiếng chửi của một kẻ say nhưng bên trong thì hắn rất tỉnh. Lời chửi rất mơ hồ, không động chạm ai, quả là một kẻ say bình thường đang chửi. Nhưng hắn rất tỉnh, rất sáng suốt, không gian trong tiếng chửi thu dẹp dần từ cao đến thấp, từ rộng đến hẹp, từ vô địa chỉ đến có địa chỉ. Từ số đông, hắn chửi một người: “hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo”. Đẻ ra Chí Phèo “cả làng Vũ Đại cũng không ai biết” nhưng chúng ta, người đọc thì biết: Chính xã hội vô nhân đạo đã đẻ ra Chí Phèo – con quỷ dữ của làng Vũ Đại, đã sinh ra hiện tượng “Chí Phèo”. Như vậy, hắn mượn rượi để chửi, để phản ứng với toàn bộ xã hội vô nhân đạo. Từng lời cay độc ấy thoát ra nghĩa là lòng hắn đang gào thét cuồng điên, hắn chửi để thỏa mãn lòng rực lửa đốt khi mà cả làng Vũ Đại không ai lắng nghe hắn. Họ thành kiến với hắn. Tiếng chửi của Chí Phèo vừa mang tâm trạng bất mãn vừa là lời tố cáo sâu sắc xã hội vô nhân đạo với những nếp nghĩ lạc hậu đã cướp đi quyền làm người và ruồng bỏ hắn. Tiếng chửi thật chất là một tiếng kêu cứu thảm thiết của con người đáng thương bị què quạt cả về thể xác lẫn tinh thần cố níu chiếc phao đời để mà tồn tại. Ta đã từng đau xót cho số phận nghèo khổ, tăm tối của chị Dậu, chị Dậu nghèo tới mức phải bán con, bán chó, bán sữa nhưng Ngô Tất Tố không để chị bán nhân phẩm của mình. Còn Chí Phèo, hắn đã bán cả linh hồn cho quỷ dữ với cái giá rẻ bèo và cuối cùng bị ghẻ lạnh, cô đơn trong chính xã hội loài người.Trong đoạn văn, cứ sau một lời kể khách quan mang tính chất thông báo là một lời nhận xét của tác giả. Như vậy, bằng hiện tượng đa nghĩa của giọng điệu, ta không chỉ thấy thái độ, tình cảm của nhân vật mà còn cảm nhận được trái tim nhà văn đang lên tiếng. Đằng sau lời văn lạnh lùng gần như sắc lạnh ấy lại là một tấm lòng xót thương sâu sắc cho nhân vật và cả sự căm phẫn xã hội vô nhân đạo đã đẻ ra hiện tượng Chí Phèo.
Tóm lại, đoạn văn được mở đầu bằng lời chửi của Chí Phèo không chỉ mang nét nghệ thuật dễ nhận thấy, nghệ thuật kết cấu, mà còn mang giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật của ngòi bút thấm đẫm tinh thần Nam Cao. Càng đào sâu, càng nghiền ngẫm, người đọc sẽ tìm cho mình những suy nghĩ sâu sắc hơn về kiệt tác “Chí Phèo”.“Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Chi tiết “tiếng chửi” của Chí Phèo đã góp phần làm nên thành công của nhà văn lớn Nam Cao. Nó đã khái quát lên một chân lý nghệ thuật: nghệ thuật chân chính không những tìm thấy cái bình thường trong sự phi thường mà còn phát hiện cái phi thường trong sự bình thường, thậm chí tầm thường. Chỉ có nhà văn lớn có khối óc và trái tim lớn mới làm được điều đó.
Đề bài 2:
Nhận xét về sáng tác của Thạch Lam, Nguyễn Tuân viết: “Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghè. Thach Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trước sự sống của mọi người xung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị mà nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm thất văn học”. (Theo tuyển tập Nguyễn Tuân, tập III, NXB văn học Hà Nội, 1996, trang 375)
Anh, chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Dựa và một số sáng tác của Thạch Lam, hãy chứng minh ý kiến đó.
(Đề thi học sinh giỏi quốc gia năm 2000, Bảng A)
Bài Làm:
Giữa bộn bề phồn tạp buổi chợ phiên văn chương, giữa náo nhiệt đông đúc của gian hàng lãng mạn, Thạch Lam được xem như một khách hàng đặc biệt. Con người của Tự lực văn đoàn ấy đã không đưa ta tới những chân trời phiêu du, mộng tưởng của những tình yêu, khát vọng thường thấy trong trời lãng mạn mà dắt ta đi vào giữa cõi đời ta đáng sống, con người dịu dàng nhân ái ấy đã nguyện gắn ngòi bút của mình với những kiếp người đau khổ, vẫn luôn trân trọng sự sống nơi trần gian. Nói như Nguyễn Tuân: “Xúc cảm của nhà văn Thạch Lamthường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghè. Thach Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trước sự sống của mọi người xung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị mà nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm thất văn học”.
Cũng là một nhà văn có tâm huyết với đời, Nguyễn Tuân đã đem tấm lòng mình ra để cảm Thạch Lam, để thấy được bên trong dòng chữ rất đỗi yêu bình ấy là cả trái tim một con người không khi nào vơi cạn tình yêu cuộc sống và tình yêu với dân nghèo. Lời nhận xét của Nguyễn Tuân đã khái quát được phẩm chất tâm hồn Thạch Lam và những giã trị đích thực của văn chương Thạch Lam.
Giống như cái cây xanh ngoài kia hút màu từ đất mẹ, tác phẩm văn học phải bắt rễ sâu chắc vào mảnh đất cuộc đời để từ đó toả ra tán lá rộng, dày góp phần làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Hơn thế tác phẩm nghệ thuật phải là tiếng nói xuất phát từ những rung động chân thực của nhà văn trước hiện thực, nẩy nở lên từ những tình cảm của nhà văn dành cho con người. Nhà văn phải biết sống hết mình. Nếu thiếu đi trái tim đầy tình yêu thương của nhà văn thì cái hiện thực kia sẽ mãi mãi nằm trong yên lặng. Vâng, không gì khác ngoài tình yêuvà tâm huyết của nghệ sĩ đã làm nên giá trị cho tác phẩm.
Giá trị của những truyện ngắn của Thạch Lam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Nguyễn Tuân cho rằng: ” Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghè”.
Sống trong lòng chế độ thực dân nửa phong kiến, chứng kiến biết bao bất công tàn bạo của một chế độ mục rữa, thối nát, Thach Lam đã dám nhìn thẳng vào sự thực ở đời để thấy được bao kiếp người đang quằng quại đau khổ, đang vật vã trong những bế tắc không lối thoát. Mảnh đất hiện thực nghiệt ngã ấy đã tác động vào tâm hồn nhà văn, khơ gợi lên những cảm xúc, những rung động yêu thương chân thành. Có lẽ Thạch Lam đã đau nỗi đau của con người trong thời đại ông đến thế nào, ông mới có thể bước qua những ngưỡng cửa văn học lãng mạn để đến với văn học hiện thực. Chúng ta không quên quan niệm bất hủ của ông về văn chương:” Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”. Chính nhận thức đúng đắn ấy đã giúp cho Thạch Lam có được những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo. Những “chân cảm”- phải chăng Nguyễn Tuân muốn nhấn mạnh độ chân thực trong cảm xúc, tình cảm của Thạch Lam? Và có lẽ Nguyễn Tuân đã nói lên được dòng tư tưởng, tình cảm dào dạt trong những sáng tác của T . Lam, cái đề tài mà mà ông quan tâm hướng tới.
Hiện thực cuộc sống là rộng lớn, là vô cùng. Và mỗi nhà văn với chiếc xẻng nghệ thuật trong tay mình đã đào xới một mảnh đất để lật lên những vỉ hiện thực và tìm cho mình thế giới hình tượng trong đó. Nếu như Vũ Trọng Phụng xuất sắc ở mảng đề tài về cuộc sống thành thị của xã hội “chó đểu”, nếu như Nguyễn Công Hoan tài năng trong việc khắc học bức trạnh thế giới quan lại khả ố, bất lương và Nam Cao rựng rỡ trong những sáng tác về người nông dân và trí thức tiểu tư sản thì Thạch Lam lại hướng ngòi bút vào cuộc sống của những người ở tầng lớp dân nghèo với những khám phá tinh vi về thế giới nội tâm, đời sống tinh thần bên cạch những nỗi khổ “áo cơm ghì sát đất”
Chúng ta không khỏi đau xót khi chứng kiến thảm cảnh “Nhà mẹ Lê” – một người mẹ khốn khổ cùng với một người con nheo nhóc, đói khát. Bức tranh hiện thực hiện lên qua mấy trang văn ấy cũng sắc sảo không kém phần bất kỳ một tác phẩm nào viết về cái đói, cái nghèo. “Nhà mẹ Lê” là một nỗi đau của Thạch Lam. Cái chết của người mẹ đáng thương ấy cùng với nỗi bất hạnh của đàn con thơ dại mà “đứa lớn nhất mới mười bảy tuổi, còn đứa bé nhất thì đang bế trên tay” chính là vấnđề đáng quan tâm nhất, chính là cái hiện thực tàn ác mà nhà văn chân chính không thể thờ ơ. Viết về cái gì đi chăng nữa thì số phận con người vẫn mãi là lời gọi tha thiết nhất đối với ngòi bút nhà văn.
Với Thạch Nam cuộc sống nơi phố huyện nghèo, tăm tối đã thu hút ông khám phá. Và ông thấy được ở trong cái lạnh lẽ của cơm gió lạnh đầu mùa kia có cả nỗi khổ của bé Hiên không có áo ấm mùa đông, nỗi khổ của người mẹ ngày ngày đi bắt cua, bắt ốc không kiếm được cho con tấm áo.
Những con người ấy thân thuộc với ông quá, trong lòng ông đã rung lên những sợi dây tình cảm khi viết về cảnh đời của những con người nhỏ bé. Có nhà triết học cho rằng, biết xúc cảm cũng là một năng lực. Tôi thấy điều đó đúng với thạnh Lam. Cái năng lực ấy vố dĩ không phải của trời ban mà nó được hình thành từ chính tấm lòng tràn đầy tình yêu thương của nhà văn đối với người lao động.
Viết riêng về tầng lớp dan nghèo, T. Lam không chỉ quan tâm đến nỗi khổ vật chất mà với ông, cái đáng sợ là sự xói mòn về tâm hồn. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” đã chỉ ra bi kịnh ấy. Cái mới của T. Lam trong việc thể hiện nỗi khổ con người là ông phát hiện ra nỗi khổ phải sống trong cảnh quẩn quanh,tù túng, bế tắc, phải chìm nghỉm trong cáim”Ao đời phẳng lặng” (Chữ của Xuân Diệu).
Cuộc sống của Liên và An có khác gì sự giam hãm về tinh thần? Mỗi ngày cứ đi qua trong sự im lặng đáng sợ của bóng tối, trong lặng lẽ của quầy hàng không có khách. một cuộc sống không sôi nổi, không biết động, không mơ ước, cuộc sống ấy không đáng bị thay đổi lắm sao? Ngay cả đến cảnh thiên nhiên cũng nhuốm vẻ u buồn:”Chiều, chiều tối. Một buổi chiều chầm chậm lặng lề của cuộc đời và đáng sợ nhất vẫn là bóng tối, bóng tối trùm lên phố huyện” Cái hay của Thạch Lam là đã diễn tả bóng tối qua ánh sáng leo lét của ngọn đèn dầu nơi chõng hành chị Tí hay ánh lửa trong gánh phở bác Siêu. Cái leo lét nhập trời nữa cũng không chống chọi nổi sự bao phủ của màn đêm. Nó chỉ cho ta thấy sự đối lập khủng khiếp giữa ánh sáng và bóng tối. Và cuộc đời của những con người kia, những Liên, những An, những chị Tí bác Siêu, bà cụ Thi cũng có khác gì ngọn đèn leo lét đó, không thể toả sáng được giữa bóng đêm mịt mù của cuộc đời.
Truyện giản dị, nhẹ nhàng mà gợi cho ta bao suy tư về số phận con người. Chính những xúc cảm của nhà văn đã đem đến cho người đọc sự xúc động, để lại những băn khoăn, day dứt trong mỗi chúng ta.
Tôi đọc văn Thạch Lam trong một buổi trưa yên tĩnh và tôi thấy chưa hẳn nhà văn của chúng ta đã hoàn toàn thất vọng về cuộc sống.Cũng giống như cái cảm giác ban trưa ngột ngạt mà có làn gió mát thổi qua,tôi cảm nhận được luồng gió vô tình mà Thạch Lam mang lại sau những trang văn tưởng như bế tắc không có lối thoát ấy.Tôi vẫn thấy lờ mờ rằng hình như Thạch Lam cũng đồng cảm với Pauxtopxki trong ý nghĩ:Dù ai đó có nói với bạn điều gì đi chăng nữa,bạn hãy cứ tin rằng cuộc sống kì diệu và đẹp đẽ.Thạch Lam đã tin vào điều ấy. Ông tin rằng chính linh hồn con người sẽ cứu sống con người ra khỏi sự tăm tối,chính những ước mơ,hoài bão và cả tình thương của con người sẽ giúp họ vượt qua ngiệt ngã của cuộc sống.Và ông đã xây dựng nên những tính cách như thế.
Ông đã thổi vào trong Gió lạnh đầu mùa sự ấm áp của tình người,của lòng thương. Ông đã để nhân vật Sơn đem tấm áo cho bé Hiên, để Hiên bớt đi cái lạnh, đế Hiên cảm thấy cuộc sớng chưa hẳn đã đau khổ. Gió vẫn cứ lạnh đấy nhưnh dù gió có lạnh đến thế nào thì tình người vẵn cứ vượt lên trên tất cả.Nguyễn Tuân đã rất đúng khi cho rằng:”Thạch Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống,trang trọng trước sự sống của mọi người xung quanh”.Phải rồi,nế không có sự quý trọng cuộc đời của nhà văn thì chắc hẳn những người như bé Hiên sẽ suốt đời không có được một manh áo ấm và triết lí về tình thương sẽ tuột khỏi tác phẩm,rơi vào trong cái lạnh lõ cuar thiên nhiên. Đọc Gió lạnh đầu mùa,tôi không cảm thấy cái lạnh tràn về mà bỗng thấy lòng mình như được sưởi ấm bởi hơi nóng của tình yêu thương con người.Vâng, tình cảm thánh thiện trong tâm hồn của một đứa trẻ như Sơn sẽ xua đi mọi lạnh giá khắc nghiệt của thời tiết bởi vì “không có gì nghệ thuật hơn bản thân lòng yêu quý con người”. Thạch Lam đã cho tôi thấm thía chân lí ấy và còn gì đẹp hơn một tác phẩm “ca tụng lòng thương,tình bác ái,sự công bình…Nó làm cho người gần người hơn” (Nam Cao).
Có một ai đó đã nói: Hi vọng chính là một nghệ thuật sống. Đọc như những trang viét của T. Lam,người ta cũng thấy một niềm hi vọng được nhen nhóm lên từ trong chính những đau khổ,mờ mịt của cuộc đời.Nhà văn đã yêu cuộc sống, trân trọng và nâng niu nó; đặt cả con tim mình lên câu chữ để đem theo cái hơi thở nồng nàn của sự sống đến cho người đọc.
Từ cái quẩn quanh, ngột ngạt của cuộc sống tù túngg nơi phố huyện, người đọc vẫn thấy được niềm tin ở tương lai cho dù nó thật mong manh, yếu ớt – mong manh như chính cuộc đời của những con người nơi đây, yếu ớt như á/sáng những ngọn đèn, ánh lửa trong đêm tối.
Thạch Lam đã không làm mất đi trong ta ngọn lửa của niềm tin hi vọng. Tình yêu mến và trân trọng cuộc sống đã giúp ông xây dựng nhân vật Liên trong “Hai đứa trẻ”, để cho Liên có một ước mơ. Cảnh đợi tàu và mong ước ccủa chi em Liên là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Con tàu đi qua sẽ chẳng có gì trong nhận thức của con người (Có chăng Tế Hanh đã từng thốt lên:
“Tôi thấy tôi thương những con tàu
Ngày đời không đủ sức đi mau
Có chi vương víu trong hơi máy
Với những toa đầy nặng khổ đau”)
Nhưng với Liên đó là cả một niềm khát khao. Con tàu trong suy tưởng của Liên không phải chở đi những đau khổ của kiếp người mà nó là ánh sáng, là hi vọng của phố huyện này. Con tàu chở mơ ước của chị em Liên về một Hà Nội đầy ánh sáng, Hà Nội của niềm vui rực rỡ. Nên cái ước mơ được nhìn thấy chuyến tàu ở chúng ta thật bình thường thì đối với Liên,nó thật mãnh liệt và lớn lao biết bao.Nhưng Thạch Lammuốn cho người đọc hiểu rằng:Liên mơ ước chuyến tàu cũng chính là đang mơ ước về một sức sống sôi nổi hơn,về một cuộc đời có nhiều ánh sáng hơn,nhiều niềm vui hơn.Và khi nhà văn miêu tả nỗi khát kha bé nhỏ hết sức tội nghiệp ccủa chị em Liên, ông không chỉ muốn qua đó thể hiện bức tranh hiện thực cuộc sống và tâm hồn con người mà hơn thế,nhà văn còn gợi lên trong ta những khát khao cao đẹp,những ước muốn được đấu tranh cho sức sống tươi đẹp của con người.Nói như nhà văn Nga Sôlôkhôp:” Đối với con người,sự thực đôi khi nghiệt ngã,nhưng bao giờ cũng dũng cảm củng cố trong lòng người đọc niềm tin ở tương lai.Tôi mông muốn những tác phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt hơn,tâm hồn trong sạch hơn,thức tỉnh tình yêu đối với con người và khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người”.Thạch Lam cũng đã gặp Sôlôkhôp trong quan niệm về văn học ấy khi ông khẳng định văn chương chính là thứ khí giới để làm cho “lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Với Thạch Lam,”cái đẹp chính là sức sống”(Secnưsepxki).Không có gì cao cả hơn sức sống trên trái đất này.Và thông qua Hai đứa trẻ.Nhà văn đã mang đến cho ta một niềm tin về cuộc sống,thức tỉnh ta thoát khỏi kiếp sống mòn mỏi,bế tắc,ngột ngạt về tinh thần,khơi dậy trong ta ý thức đấu tranh cho cái đẹp trong tâm hồn những đứa trẻ,cũng là cho cái đẹp trên trái đất này.
Thiếu đi tình yêu mến cuộc sống,lòng trân trọng sức sống của mọi người xung quanh,làm sao Thạch Lam có thể viết nên những tác phẩm có giá trị,những sáng tác để cho cái đẹp trên trái đất,cho lời kêu gọi đấu tranh về hạnh phúc,niềm vui và tự do,cho cái cao rộng của tâm hồn và cho cái rực rỡ như những mặt trời không bao giờ tắt?
Có một lần khi viết về Nguyễn Tuân,Thạch Lam đã khẳng định: “Trong cái vội vã cẩu thả của những tác phẩm xuất bản gần đây,những sản phẩm đã hạ thấp văn chương xuống mực những tác phẩm đua đòi,người ta lấy làm sung sướng khi thấy một nhà văn kính trọng và yêu mến cái đẹp,coi công việc sáng tạo là một công việc quý báu và thiêng liêng”.Chúng ta cũng có trách nhiệm với ngòi bút của mình. Đọc vănThạch Lam,quả thực,ta thấy được “đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học”.
Nguyễn Tuân đã cảm nhận ở Thạch Lam cái thần chắt chiu từ ngòi bút nhà văn, cũng chính là cái thần thái của con người Thạch Lam. Đó là một nhà văn dịu dàng trong hành động, nhân từ trong suy nghĩ, một nhà văn bằng cả cái tinh tế của hồn mình để cảm nhận được cái sắc màu của lá rơi, của những gì dịu dàng bé nhỏ nhất trong đời. Văn Thạch Lam cũng có cái phong thái ấy. Đó là phong thái của những tác phẩm “cốt cách và phẩm chất văn học”. Trước hết nên hiểu thế nào là một tác phẩm có “cốt cách và phẩm chất văn học”? “Cốt cách” là cải riêng, cái độc đáo, phong cách thể hiện được hồn người , tình người. Một tác phẩn có “cốt cách” phải là một tác phẩn có giá trị, mang đến cho người đọc những hiểu biết và khơi gợi những tình cảm đẹp. Hơn thế, nó phải có “phẩm chất văn học” nghĩa là phải được chứa đựng trong một hình thức phù hợp, có phương tiên biểu hiện nghệ thuật tương xứng.
Quả thực ta đã từng day dứt trước một lối văn sắc lạnh, khách quan, tỉnh táo của Nam Cao, hả hê bất ngờ trước những trang viết châm biếm của Nguyễn Công Hoan và khóc cùng những giọt nước mắt trong văn Nguyên Hồng. Giời đây đọc văn Thạch Lam, ta thấy yêu cái nét đẹp nhã nhăn, bình dị, đượm buồn trong lối viết của ông. Cái dư vị Thạch Lam tạo ra được chính là thực chất cuộc sống với những đau khổ của con người, những nỗi thương tâm của những chị Tí, những cô hàng xén và những cao đẹp trong hồn người: tình yêu thương con người của bé Sơn, khát vọng đáng quý của Liên, những rung cảm nhẹ nhàng trong tâm hồn Thanh (Dưới bóng hoàng lan) khi trở về quê,… Những rung động ấy chính là cái dư vị của chât thơ trong trang viết Thạch Lam và đó ccũng là “nhã thú” mà Nguyễn Tuân nói đến khi tiếp cận, đọc lại để lắng nghe chất thơ dịu nhẹ mà Thạch Lam lượm lặt đê góp lên trang viết của mình – một chất thơ bàn bạc toát ra từ tâm hồn người, nó cũng là cái đẹp.
Đưa ta vào thế giới của những rung ngân tinh vi trong tâm hồn, Thạch Lam đã có được “niềm vui của những người nghệ sĩ chân chính là niềm vui của những người biết vươn tới tương lai” (Pauxtôpxki)
Suốt đời tâm huyết với văn chương và những năm tháng ngắt ngủi của những ngày sống trên đơi này, Thach Lam đã đem trái tim mình đặt lên trang viết, cho nó sống mãi với ý nghĩa của những tác phẩm có giá trị.
Bằng “những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học’, Thạch Lam xứng đáng với lòng yêu quý và trân trọng của mỗi người đọc chúng ta, xứng đáng với thiên chức của người nghệ sĩ.
ĐỀ BÀI 3
Trong truyện ngắn Trăng sáng, Nam Cao viết:
“Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”và ở truyện ngắn Đời thừa ông cho rằng một tác phẩm có giá trị phải “chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình…Nó làm cho người gần người hơn”.
Còn Vũ Trọng Phụng, khi đáp lời báo Ngày nay của Tự Lực văn đoàn, đã nói: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời”.
Anh, chị hãy bình luận những ý kiến nêu trên
BÀI LÀM
Cuộc sống xung quanh ta không bao giờ phẳng lặng mà luôn sôi động. Cũng như mặt biển nhiều lúc êm ả và thanh thản nhưng trong lòng nó luôn có những đợt sóng ngầm. Là một hình thái ý thức xã hội, văn học nghệ thuật bám chặt lấy sự sống để lớn lên và với tư cách là đứa con tinh thần, nó lại trở về noi sinh ra nó để góp phần khám phá, hiểu biết và sáng tạo đời sống. Nghĩ về văn học và hiện thực đời sống, trong truyện ngắn Trăng sáng, Nam Cao viết: “Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”Khi đáp lời báo Ngày nay của Tự lực văn đoàn, Vũ Trọng Phụng đã nói: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. tôi và các nhà văn cùng chí hướng nhưng tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời”. Và ở tác phẩm Đời thừa, Nam Cao cho rằng: Một tác phẩm có giá trị khi tác phẩm ấy “chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình…Nó làm cho người gần người hơn”.
Cuộc sống là một vườn hoa đầy màu sắc. Như những con ong cần mẫn đi tìm mật cho đời, nhà văn không chỉ đem đến cho người đọc một nội dung có tính thông điệp mà còn mong muốn tác phẩm của mình có sức mạnh làm rung động hàng triệu tâm hồn. Muốn thế phải làm cho người ta tin, mà chỉ tin được nhờ ở sự chân thực. Đó là lí do đơn giản để Nam Cao cho rằng nghệ thuật “không cần” và “không nên là ánh trăng lừa dối”. Ánh trăng cao xa, huyền ảo và thơ mộng thật nhưng làm sao nó có thể lại là sự phản quang của cuộc đời chủ yếu là đói, rét, bệnh tật và bất công? Có người cho rằng cái đẹp là những gì ở bên trên cuộc sống và tác phẩm nghệ thuật chỉ là vẻ đẹp kì diệu của thế giới siêu thoát, thanh cao, là mở đầu và tận cùng của tất cả. Tác phẩm như vậy làm sao có thể rung động được tâm hồn người đọc; bởi lẽ cuộc sống siêu thoát ấy đau có phải là cuộc sống của họ. Là một nhà văn hiện thực phê phán sống gần tầng lớp cùng đinh, Nam Cao hiểu sâu sắc thế nào là hiện thực đời sống, hiện thực của những ngày thuế thúc, trống dồn, những kiếp người méo mó, tội nghiệp, những cuộc sống mốc, mòn, mục, gỉ ra. Dù anh viết về ai, viết về cái gì thì cũng không nên, không thể quay lưng lại, lẩn tránh cái thực tế đau khổ và lầm than.
Có bắt rễ vào hiện thực đời sống mà phải là sống thật, văn học mới bền vững và tồn tại được. M.Gorki cho rằng: “Người tạo nên tác phẩm là tác giả nhưng người quyết định số phận của tác phẩm lại là độc giả”. Người đọc chỉ ủng hộ và tạo nên số phận tốt đẹp cho những tác phẩm chân chính một khi những tác phẩm ấy đề cập đến hiện thực đời sống đích thực là của họ. Bởi thế Vũ Trọng Phụng mới cho rằng tiểu thuyết là “sự thực ở đời” đến một tác phẩm có sức mạnh còn tuỳ thuộc vào một điều kiện hết sức quan trọng nữa, ấy là khả năng chiếm lĩnh cuộc sống một cách sâu xa của nhà văn. Chỉ có thể tạo nên giá trị của tác phẩm, một khi nghệ sĩ phải sống hết mình, biết nghĩ suy và trăn trở với những nỗi đau của thân phận con người, biết khơi lên từ cuộc sống những vấn đề mà nhiều người không nhìn thấy, biết góp phần kiến giải những hiện tượng xã hội,…bằng toàn bộ vốn liếng tri thức, tình cảm, niềm tin và dũng khí của mình, như A. Muytxê nói: Hãy đập vào tim anh, thiên tài là ở đó. Lênin nói, đại ý: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn-đó là con đường biện chứng của sự nhận thức hiện thực.
Văn học góp bàn tay nhân ái của mình để góp phần cải tạo con người, cải tạo xã hội, một khi nó chứa đựng cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi.
Hiện thực trong văn học phải là muối của biển. Nó phải được gạn lọc từ hiện thực xô bồ của đời sống xã hội với biết bao hiện tượng đan cài, chồng chéo nhau giữa bao cái có nghĩa và vô nghĩa, tất yếu và ngẫu nhiên, bản chất và hiện tượng. Nhà văn phải biết chọn lọc những cái gì tinh tuý nhất, cốt lõi nhất, cái thần của sự vật, mang tính khái quát và điển hình cao độ, để từ những phát hiện cụ thể ấy, người đọc thấy được những nét bản chất của đời sống, để có thể rút ra được những bài học về triết lí, đạo đức và nhân sinh. Văn học không sao chép thụ động những mảng tủn mủn, nhỏ nhặt của đời sống. Ngược lại, nhìn vào tác phẩm, ta thấy được bản chất cuộc đời ở một điểm sáng hội tụ, nó tiêu biểu và chân thực hơn cả trạng thái tự nhiên và hoàn tàon có thật ở cuộc sống ngoài đời. Người đọc thấy rõ đâu là mâu thuẫn chủ yếu của xã hội thông qua những xung đột văn học trong tác phẩm. Và đó chính là thước đo giá trị và sự trường tồn của tác phẩm văn chương.
Bằng nghệ thuật của mình, văn học lắng đọng đến tận nơi sâu kín, tiềm ẩn trong con người. Những giọt nước mắt khóc thương cho cuộc đời đau khổ, cho mỗi số phận bị biến dạng,…sẽ làm cho tâm hồn người dân trong sạch hơn lên, tư tưởng và tâm hồn được nâng cao lên về chất, để có thể vượt qua những nhỏ nhặt, tầm thường của cái vị kỉ, để hoà nhập được với cuộc sống tâm hồn của đồn loại, đồng cảm với họ, cùng chiến đấu cho sự hoàn thiện của con người, làm cho người gần người hơn. Đó chính là chức năng nhân đạo hoá con người của tác phẩm nghệ thuật.
Đương nhiên văn học không chỉ nói đến những cái gì mạnh mẽ, lớn lao; không chỉ nói đến lạc quan, chiến thắng. Nó không né tránh việc biểu hiện những mất mát, hi sinh, những bi kịch của đời sống, sự đê tiện,ngu dốt và phản bội của con người trên tư cách công dân cũng như trong cuộc sống riêng tư: trong lao động và đấu tranh, trong quan hệ bạn bè, vợ chồng, trong tình yêu,…Trong quá trình biểu hiện như thế, nhà văn thông qua tác phẩm của mình, đấu tranh cho sự công bình, kêu gọi tình thương và lòng bác ái,…Chính những điều đó tạo nên giá trị của tác phẩm.
Thực tế sáng tác của Nam Cao chứng tỏ khả năng lĩnh hội cuộc sống của nhà văn. Ông không chỉ thấy cuộc sống đương thời là đói rét, là bệnh tật, mà còn thấy được thảm trạng sự tha hoá của con người, những cuộc đời bị méo mó, xiêu vẹo, biến dạng và cả những cuộc sống “sống mòn” hay chết mòn thì cũng chẳng khác gì nhau cả. từ cuộc đời của một Chí Phèo, một Thị Nở khái quát lên thành cả một “hiện tượng Chí Phèo”, Nam Cao không chỉ nói lên nỗi đau đớn về thể xác của người nông dân, mà từ đây khơi lên lòng căm phẫn đối với những bất công và những thế lực gây tội ác, kêu gọi mọi người hãy đấu tranh để góp phần giữ lấy những tia sáng lương tri còn le lói, còn chưa tắt hẳn trong cuốc sống tinh thần của kiếp người bị tha hoá, để giữ cho con người không bị biến thành thú vật, để con người đúng là Người với ý nghĩa cao đẹp của nó.
Tôi có đọc được ở một tác phẩm lí luận kinh điển đại ý như thế này: Vũ khí phê phán dĩ nhiên không thể thay thế được sự phê phán bằng vũ khí; chỉ có lực lượng vật chất mới đánh đỗ được lực lượng vật chất; nhưng lí luận cũng có thể trở thành lực lượng vật chất khi nó đã thâm nhập vào quần chúng. Văn học với sức mạnh lớn lao của nó trong việc khám phá, nhận thức và sáng tạo thực tại, luôn được xem là một vũ khí đấu tranh giai cấp. Các lực lượng tiến bộ và phản tiến bộ đều sử dụng văn học làm công cụ để tuyên truyền tập hợp quần chúng. Các nhà văn, nhà thơ của chúng ta cần nâng cao trình độ tư tưởng và năng lực biểu hiện cũng như thái độ trung thực và dũng cảm trong việc phản ánh hiện thực để nâng cao hơn nữa giá trị của tác phẩm. Văn học phải cố gắng phản ánh những “sự thực ở đời” với tất cả sự đa dạng và phức tạp của nó, có cả nỗi đau và niềm vui, có cả cái thấp hèn và cao thượng, chứ không phải là những tác phẩm tụng ca xuôi chiều, tô hồng hiện thực mà lảng tránh những nỗi đớn đau của đồng bào, đồng chí. Tác phẩm văn học cùng cần góp phần kiến giải những vấn đề của hiện thực đời sống, đồng thời là tiếng nói dự báo cho những vấn đề của hiện thực xã hội rộng lớn trong tương lai. Như vậy văn học mới làm được chức năng giáo dục con người bằng con đường tình cảm, mới góp phần làm cho con người với đúng nghĩa của nó: không là thánh cũng không trở thành thú. Những tác phẩm văn học bắt nguồn từ những ánh trăng mờ ảo, thơ mộng và dối lừa, những tiểu thuyết chỉ là tiểu thuyết, quay lưng hay bàng quan trước sự thực cuộc đời thì những tác phẩm ấy hoàn toàn không có ích cho đời sống, con người.
Đương nhiên văn học có tính độc lập tương đối của nó. Hiện thực trong văn học và hiện thực ngoài cuộc đời không phải là hai bàn tay úp kít vào nhau mà đan cài vào nhau. Ở đây mọi sự đơn giản hoá và mô hình hoá, mọi sự áp đặt, mệnh lệnh, khiên cưỡng “đeo chân cho vừa giày” đều là những điểm nên tránh. Chúng ta phản bác những lập luận và sáng tác của những trường phái siêu thực, hiện sinh, cũng đồng thời phê phán cách biểu hiện của những tác phẩm cứ tưởng như được viết bằng phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa nhưng thực chất không biểu hiện được cuộc sống, chỉ biết ca tụng một chiều, giấu giếm nỗi đau; những tác phẩm đã không nói được thực trạng của hiện thực đương thời, càng không thể có chức năng dự báo.
Aimatôp cho rằng: chân lí trong nghệ thuật không chỉ là sự phơi bày những thiếu sót và khó khăn, những mặt tốt của cuộc sống chúng ta; mà quan trọng hơn, tác phẩm nghệ thuật phải có khả năng thôi thúc con người suy tư sâu sắc, bắt con người phải xúc động tận đáy lòng.
Văn học làm cho con người nhận rõ diện mạo của mình hơn, vạch rõ đâu là tốt, xấu, đâu là cao cả, thấp hèn, thấy hết để có thể tự điều chỉnh: “Hãy nhìn xem ngay tại đây, ngay tại chỗ này những gì mà con người còn chưa nhận ra vì một lí do nào đó” (Lời giới thiệu Đoạn đầu đài của Aimatôp).
Nhiệm vụ của văn học, của những người sáng tạo ra tác phẩm thật nặng nề. Cuộc sống đang ngổn ngang, bề bộn và có nhiều điều khiển ta nhức nhối, trăn trở. Bởi vậy, chúng ta cần biết bao những tác phẩm văn học đích thực, những chính phẩm, góp tiếng nói cải tạo cuộc sống.
Phạm Bích Thuỷ
Trường THPT Lê Quý Đôn-TP. Hồ Chí Minh
Đạt giải nhì Quốc gia 1988