(Giới hạn: Thơ Đường luật, thơ mới)
ĐỌC – HIỂU (6,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu: (Tự luận)
Anh xa em
Trăng cũng lẻ
Mặt trời cũng lẻ
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
Gió không phải là roi mà đá núi phải mòn
Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím
Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến
Vì sóng đã làm anh
Nghiêng ngả
Vì em…
( Thơ viết ở biển – Hữu Thỉnh )
Câu 1: Nhân vật trữ tình trong bài thơ Thơ viết ở biển là ai? Vì sao em xác định như vậy?
Câu 2: Hãy chỉ ra các hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ. Những hình ảnh nào thể hiện tâm trạng trống trải, cô đơn của nhân vật trữ tình khi vắng “em”? Nêu cảm nhận về hình ảnh đó.
Câu 3: Cảm nhận của em về tâm trạng của người con trai trong tình yêu qua bài thơ Thơ viết ở biển.
Câu 4: Chủ đề của bài thơ Thơ viết ở biển là gì?
Câu 5: Trong văn học có nhiều câu thơ, bài thơ dùng hình tượng “Sóng” và “Biển” để nói về tình yêu. Hãy sưu tầm những câu thơ, bài thơ đó.
Câu 6: Từ văn bản Thơ viết ở biển, em có suy nghĩ gì về tình yêu đôi lứa?
Câu 7: Hình ảnh mặt trời, mặt trăng và biển được miêu tả như thế nào trong đoạn thơ
“Trăng cũng lẻ
Mặt trời cũng lẻ
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn”
Câu 8: Hai câu thơ “Gió không phải là roi mà đá núi phải mòn
Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím”
sử dụng biện pháp nghệ thuật gì? Nêu tác dụng của các biện pháp đó.
LÀM VĂN (4,0 điểm)
Anh/chị hãy viết bài văn (khoảng 500 chữ) giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của văn bản trên.
Hướng dẫn chi tiết
ĐỌC – HIỂU
Câu 1:
– Nhân vật trữ tình là nhân vật người con trai (anh)
– Vì xuyên suốt bài thơ giống như một lời độc thoại triền miên không dứt về nỗi buồn nhớ mênh mông của người con trai với nỗi nhớ “em” da diết.
Câu 2:
– Những hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ: Trăng, mặt trời, biển, gió, đá núi, sóng
– Hình ảnh thể hiện tâm trạng trống trải, cô đơn của nhân vật trữ tình: “Trăng cũng lẻ”, “Mặt trời cũng lẻ” “Biển vẫn cậy.. thế” “Vắng cánh buồm.. cô đơn”
– Mặt trăng và mặt trời vốn chỉ có một và tạo hóa sinh ra chúng đã lẻ. Nhưng khi anh xa em thì ngay cả những hiện tượng tự nhiên bình thường cũng trở nên bất thường
– Tác giả lấy hình tượng thuyền và biển vốn rất quen thuộc để nói về anh và em, trong đó anh được ví như biển, em được coi là thuyền. Biển cả dù mênh mông nhưng nếu không có thuyền cũng cảm thấy cô đơn, trống vắng.
=> Tất cả đều trở nên đơn độc, lẻ loi, mất đi ý nghĩa khi anh xa em. Cả bài thơ là một không gian rộng rãi nhưng bao trùm bởi màu sắc trầm buồn, một sự cô đơn, trống vắng đến mênh mang.
Câu 3:
– Tâm trạng của người con trai: Cảm giác cô đơn, nỗi nhớ mong mòn mỏi, khắc khoải khi phải xa cách người yêu.
Câu 4:
– Bài thơ viết về chủ đề tình yêu đối lứa với những vần thơ giản dị và vô cùng nhẹ nhàng. Đó là nỗi nhớ mong da diết, là tâm trạng tương tư khi thích một người, yêu một người.
Câu 5:
– Một số bài thơ dùng hình tượng “sóng” và “biển” để nói về tình yêu:
+ Bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
+ Bài thơ” Biển “của Xuân Diệu
” Anh không xứng là biển xanh
Nhưng anh muốn em là bờ cát trắn
Bờ cát dài phẳng lặng
Soi ánh nắng pha lê..
Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ, thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi”
Câu 6:
– Tình yêu luôn đi liền với nỗi buồn, sự nhớ nhung da diết, cảm giác cô đơn, lẻ loi khi xa nhau và khi yêu ai cũng khát khao say đắm, hướng đến sự trọn vẹn, chung thủy sắc son. Chính những khoảnh khắc xa cách, nhớ nhung ấy mới càng làm trọn vẹn cung bậc cảm xúc của những người đang yêu, khiến cho con người ta trân trọng, hết lòng hơn vì tình yêu!
Câu 7.
– Mặt trăng và mặt trời vốn chỉ có một và tạo hóa sinh ra chúng đã lẻ. Nhưng khi anh xa em thì ngay cả những hiện tượng tự nhiên bình thường cũng trở nên bất thường.
– Tác giả lấy hình tượng thuyền và biển vốn rất quen thuộc để nói về anh và em, trong đó anh được ví như biển, em được coi là thuyền. Biển cả dù mênh mông nhưng nếu không có thuyền cũng cảm thấy cô đơn, trống vắng.
Câu 8
– Dùng biện pháp ẩn dụ, lặp cấu trúc.
– Tác dụng: nhấn mạnh tâm trạng cô đơn, nỗi nhớ mong mòn mỏi, khắc khoải khi phải xa cách người yêu.
LÀM VĂN (Đảm bảo các luận điểm cơ bản dưới đây)
Dàn ý
Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm.
– Tác giả Hữu Thỉnh:
+ Sinh năm 1942, tại Tam Dương, Vĩnh Phúc trong một gia đình nhà nho nghèo
+ Thuộc thế hệ nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ, cứu nước
+ Thơ Hữu Thỉnh tinh tế, giàu suy tư trải nghiệm, với một giọng điệu riêng đa sắc thái và năng lực sử dụng ngôn từ độc đáo
– Bài thơ “Thơ viết ở biển” in trong tập “Thư mùa đông” của Hữu Thỉnh, xuất bản năm 1994
Thân bài: Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ:
* Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình:
(Chủ đề, mạch cảm xúc, hình ảnh, điểm nhìn…)
– Chủ đề: Bài thơ trên viết về tình yêu đôi lứa ngọt ngào da diết. Đây là một chủ đề quen thuộc đối với thể loại thơ trữ tình. Và việc khai thác chủ đề này theo một cách mới lạ đã làm nổi bật tài năng sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ Hữu Thỉnh
– Mạch cảm xúc: Mạch cảm xúc của bài thơ tập trung miêu tả từng diễn biến tâm trạng tinh vi của nhân vật trữ tình: nhớ thương khôn nguôi đối với người mình yêu.
– Hình ảnh: Nhà thơ Hữu Thỉnh đã lựa chọn những hình ảnh của tự nhiên, những thứ xa tầm đối với con người để diễn tả một chuyện tình không thể đến được với nhau mà chỉ có thể gửi gấm nỗi niềm của mình qua những hình ảnh đó.
– Điểm nhìn: Ở đây, ta nhìn thấy rõ nhất chính là điểm nhìn bên trong.
* Phân tích đánh giá sự phát triển của hình tượng chính và tính độc đáo của các phương diện ngôn từ.
– Sự phát triển của hình tượng chính
Như vậy, khi cắt nghĩa và lý giải toàn bộ bài thơ dưới góc độ đặc trưng văn học, ta mơ hồ nhận ra cái nghĩa tình, ý niệm mà Hữu Thỉnh muốn gửi gắm: Tình yêu luôn đi liền với nỗi buồn, sự nhớ nhung da diết, cảm giác cô đơn, lẻ loi khi xa nhau và khi yêu ai cũng khát khao say đắm, hướng đến sự trọn vẹn, chung thủy sắc son. Chính những khoảnh khắc xa cách, nhớ nhung ấy mới càng làm trọn vẹn cung bậc cảm xúc của những người đang yêu, khiến cho con người ta trân trọng, hết lòng hơn vì tình yêu!
– Tính độc đáo của các phương diện ngôn từ:
“Biển” và “Cánh buồm” là hóa thân, là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho “Anh” và “Em”. “Cánh buồm” giờ đây đã hóa thành linh hồn của “Biển”, “Biển” tuy dài rộng, mênh mông vô cùng nhưng sẽ trơ trọi nếu không có “Cánh buồm” ra khơi cũng như “Anh” sẽ chẳng là gì cả nếu thiếu đi “Em”. Thông qua hình ảnh “Biển” và “Cánh buồm” vừa đối lập lại vừa sóng đôi cùng nhau, nhà thơ đã gợi nhắc đến sự thủy chung, khát khao được gắn bó trong tình yêu, không thể xa rời nhau dù chỉ một chút.
* Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác cùng đề tài, chủ đề, thể loại
Sau hàng loạt những hình ảnh giàu mĩ cảm được đẩy đến tận cùng của cảm giác cô đơn và nổi buồn nhớ da diết, bài thơ khép lại bằng hai câu thơ với lối kết cấu câu nhân quả rất ấn tượng, thể hiện niềm khao khát cháy bỏng trong tình yêu và hạnh phúc. Nếu như Xuân Quỳnh mượn hình tượng con sóng để bày tỏ tình yêu mãnh liệt, nồng nàn dù có khó khăn cũng sẽ vượt qua để đến với nhau:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng nhỏ
Con nào cũng tới bờ
Dù muôn vời cách trở.”
Thì Hữu Thỉnh cũng sử dụng hình tượng sóng để ẩn dụ cho một điều hiển nhiên trong tình yêu:
“Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến
Vì sóng đã làm anh
Nghiêng ngả
Vì em..”
“Sóng” giờ đây chẳng phải là thực thể vô tri vô giác mà nó đã chuyển hóa thành sóng lòng, là hình ảnh ẩn dụ cho tâm trạng người con trai khi yêu. Cuộc đời của một con sóng bắt đầu khi nó gợn lên và cũng kết thúc khi nó vỗ vào bờ, cứ tuần hoàn hữu hạn như vậy. Không có con sóng nào mà không vỗ vào bờ cả, đó là điều hiển nhiên. Đặt trong tương quan tình yêu cũng vậy, “Anh” sẽ trở thành vô nghĩa nếu không có “em”. Người đọc có thể nhận thấy có hai thứ sóng. Một là sóng của biển và một là sóng trong lòng. Sóng biển chỉ làm anh nghiêng ngả thân mình còn sóng trong lòng làm anh chao đảo cả tâm trí.
Kết bài: Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ.
Bài viết tham khảo
Xưa nay có muôn vàn bài thơ viết về tình yêu và nỗi nhớ. Có biết bao cái tên nổi trội giữa thi đàn cùng với những tuyệt tác viết về tình yêu: Nhà thơ chân quê Nguyễn Bính với “Tương tư”, “Người hàng xóm”; nữ sĩ Xuân Quỳnh với “Sóng”, “Thuyền và biển”; “Ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu cùng “Tương tư chiều”, “Yêu” hay ta bắt gặp Lưu Quang Vũ có những bài thơ như “Và anh tồn tại”, “Em – tình yêu những năm đau xót và hy vọng”. Ở giữa giàn đồng ca thơ tình muôn điệu ấy ta nhận ra một Hữu Thỉnh nồng nàn, đôn hậu qua bài “Thơ viết ở biển”. “Thơ viết ở biển” là một trong những bài thơ hay, đặc sắc nhất, tiêu biểu cho tập thơ “Thư mùa đông” (Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1995). Có rất nhiều hướng để tiếp cận một văn bản văn học mà ta có thể kể đến như tiếp nhận văn học từ góc độ tác giả, tiếp nhận văn học dưới góc độ đặc trưng văn học hoặc góc độ văn hóa, phân tích tác phẩm văn học theo phương pháp cấu trúc.. song, ở mỗi hướng tiếp cận và nghiên cứu, phân tích ta đều thấy có cái hay riêng của nó. Tiếp nhận tác phẩm “Thơ viết ở biển” dưới góc độ đặc trưng văn học, chúng ta có được cho mình cách lý giải hay, sáng tạo và lý thú về ý tứ bài thơ. Từ đó góp phần kiến tạo nên tác phẩm, khiến cho nó trở nên gần gũi hơn với hiện thực đời sống.
“Anh xa em
Trăng cũng lẻ
Mặt trời cũng lẻ
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
Gió không phải là roi mà đá núi phải mòn
Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím
Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến
Vì sóng đã làm anh
Nghiêng ngả
Vì em..”
(Thư mùa đông, 1994)
Bao trùm toàn bộ bài thơ là cảm giác cô đơn, nỗi nhớ mỏi mòn và niềm khát khao cháy bỏng hạnh phúc đến trong tình yêu đôi lứa với chủ thể trữ tình ở đây là nhân vật “Anh” và “Em”, Hữu Thỉnh đã bắt đầu dòng cảm xúc bằng mệnh đề “Anh xa em” :
“Anh xa em
Trăng cũng lẻ
Mặt trời cũng lẻ
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn.”
Biểu tượng mặt trời và mặt trăng mang rất nhiều ý nghĩa. Trước hết, nó biểu đạt cho sự cân bằng âm dương, mặt trời thuộc dương và mặt trăng thuộc âm. Biểu tượng này còn có ý nghĩa là ngày và đêm khi ánh trăng và mặt trời chiếu xuống trái đất. Hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng “Mặt trăng” và “Mặt trời” trong bài thơ này cũng có ý biểu thị ý niệm về thời gian ngày và đêm, đồng thời hai thực thể ấy cũng tượng trưng cho nhân vật “Anh” và “Em”. Nếu như mặt trời là anh thì trăng sẽ là em. Mặt trời và trăng vốn tạo hóa sinh ra đã lẻ, mặt trời lặn thì trăng mới ló lên, đó là hiện tượng tự nhiên vô cùng bình thường nhưng khi đi vào thơ Hữu Thỉnh, nó lại trở nên bất thường vô cùng. “Đừng ví nhau là mặt trăng với mặt trời/Anh và em mãi cứ là hai nửa” (Không là mặt trăng, mặt trời) Thế nhưng, cho dù ở giữa là một khoảng cách rất lớn, thì ánh sáng của mặt trăng và mặt trời vẫn phản chiếu lên nhau. Đó không chỉ là mối tương quan giữa hai thực thể mặt trời và trăng trong vũ trụ tự nhiên mà còn khiến ta liên tưởng đến bản chất của tình yêu: Anh và em xa cách nhau thì cũng lẻ loi như mặt trời và mặt trăng nhưng chính nỗi cô đơn đó càng làm trọn vẹn, thắm thiết hơn tình yêu. Hữu Thỉnh đã diễn tả sâu sắc nỗi cô đơn, lẻ loi nếu thiếu vắng đi nửa kia của đời mình.
Hai câu thơ tiếp theo bỗng chuyển mạch cảm xúc với cách ngắt nhịp 3/4, 3/5, con chữ bắt đầu dàn trải ra với giọng điệu vô cùng khắc khoải, nghẹn ngào như một lời tự bạch, lời giãi bày:
“Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn.”
Biển và cánh buồm là thi liệu khá quen thuộc trong thơ ca truyền thống: “Cánh buồm bao quản gió xiêu/Ngàn trùng biển rộng, chín chiều ruột đau” (Ca dao) hay “Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa” (Truyện Kiều) “Biển” và “Cánh buồm” ở hai câu thơ đã tạo thành không gian mênh mang của biển cả. Biển là mẹ thiên nhiên vĩnh hằng, kì vĩ; cánh buồm giữa biển thì lại nhỏ bé đơn độc, nó cũng biểu trưng cho sự mong manh của kiếp người. Tách riêng hai câu thơ ấy ra thì ta chỉ thấy đơn thuần miêu tả sự cô đơn của biển cả khi vắng đi cánh buồm, còn khi hợp nhất lại thành một chỉnh thể thì ta lại liên tưởng đến nhân vật trữ tình “Anh” và “Em”. “Biển” và “Cánh buồm” là hóa thân, là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho “Anh” và “Em”. “Cánh buồm” giờ đây đã hóa thành linh hồn của “Biển”, “Biển” tuy dài rộng, mênh mông vô cùng nhưng sẽ trơ trọi nếu không có “Cánh buồm” ra khơi cũng như “Anh” sẽ chẳng là gì cả nếu thiếu đi “Em”. Thông qua hình ảnh “Biển” và “Cánh buồm” vừa đối lập lại vừa sóng đôi cùng nhau, nhà thơ đã gợi nhắc đến sự thủy chung, khát khao được gắn bó trong tình yêu, không thể xa rời nhau dù chỉ một chút.
Đọc “Thơ viết ở biển”, ta cứ tưởng như đang nghe một bản nhạc du dương, từ tốn mà da diết. Giọng điệu thơ cũng day dứt, man mác nỗi buồn, nỗi nhớ sâu thẳm:
“Gió không phải là roi mà đá núi phải mòn
Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím”
Hai câu thơ trên song song tương đồng với nhau cả về ngữ âm và nghĩa. Gérard Manley Hopkins khi còn là sinh viên cũng đã khám phá ra nguyên lý: “Tất cả thủ pháp của thi ca dựa trên nguyên tắc song song” (Toute forme d’artifice se réduit au principe du parallélisme) Nhà thơ đã xây dựng nên cặp hình ảnh tương đồng giữa “Gió” và “anh”, giữa “đá núi” và “Em” cùng với tổ hợp từ rất lạ tạo nên những vần thơ bất hủ “Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím”. Chúng ta dừng lại để suy tư, chiêm nghiệm về câu thơ ấy, để có thể cắt nghĩa cảm xúc của chủ thể trữ tình. Màu sắc là một phương diện của cái nhìn nghệ thuật trong văn chương, làm nên thế giới nghệ thuật của một nghệ sĩ. Những nghệ sĩ có phong cách thường có kiểu sử dụng màu sắc theo một cách riêng, làm nên nét dộc đáo của tác phẩm, của tác giả. Chữ “Tím” ở đây đã khiến cho câu thơ vừa mơ hồ, vừa đa nghĩa. Có lẽ “Nhuộm anh đến tím” ở đây là tím lòng, tím cả tâm hồn. Về phương diện hội họa, màu tím là sự pha trộn và hợp thành của màu xanh và màu đỏ. Tím là màu sắc thiên về các khía cạnh của nội tâm, tìm đến những ngõ ngách riêng tư của con người, diễn đạt những khung trời nhớ nhung, xa vắng, lẫn khuất đâu đó là những hoài niệm, hoài cảm về thời gian. Màu đã xuất hiện nơi nhiều bài thơ. Đoàn Phú Tứ có câu: “Màu thời gian không xanh / Màu thời gian tím ngát” (Màu thời gian) ; còn Anh Thơ, trong Chiều xuân thì viết “Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng/ Bên chòm xoan, hoa tím rụng tơi bời.” Nhà thơ Tố Hữu, với bài thơ Hoa tím viết tặng Nguyễn Tuân lại có câu: “Thủy chung tình bạn chùm hoa tím.” Đối chiếu tương quan giữa các bài thơ ấy, ta thấy được “Tím” ở đây đã không còn đơn thuần là một màu sắc mà nó còn mang ý niệm ẩn dụ cho cảm xúc, cho tâm tư tình cảm của chủ thể trữ tình. “Em đâu phải là chiều mà nhuộm anh đến tím”, câu thơ ấy khắc khoải bật lên nỗi nhớ nhung, nỗi buồn man mác đang thường trực trong tâm trí nhân vật “Anh”.
Sau hàng loạt những hình ảnh giàu mĩ cảm được đẩy đến tận cùng của cảm giác cô đơn và nổi buồn nhớ da diết, bài thơ khép lại bằng hai câu thơ với lối kết cấu câu nhân quả rất ấn tượng, thể hiện niềm khao khát cháy bỏng trong tình yêu và hạnh phúc. Nếu như Xuân Quỳnh mượn hình tượng con sóng để bày tỏ tình yêu mãnh liệt, nồng nàn dù có khó khăn cũng sẽ vượt qua để đến với nhau:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng nhỏ
Con nào cũng tới bờ
Dù muôn vời cách trở.”
Thì Hữu Thỉnh cũng sử dụng hình tượng sóng để ẩn dụ cho một điều hiển nhiên trong tình yêu:
“Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến
Vì sóng đã làm anh
Nghiêng ngả
Vì em..”
“Sóng” giờ đây chẳng phải là thực thể vô tri vô giác mà nó đã chuyển hóa thành sóng lòng, là hình ảnh ẩn dụ cho tâm trạng người con trai khi yêu. Cuộc đời của một con sóng bắt đầu khi nó gợn lên và cũng kết thúc khi nó vỗ vào bờ, cứ tuần hoàn hữu hạn như vậy. Không có con sóng nào mà không vỗ vào bờ cả, đó là điều hiển nhiên. Đặt trong tương quan tình yêu cũng vậy, “Anh” sẽ trở thành vô nghĩa nếu không có “em”. Người đọc có thể nhận thấy có hai thứ sóng. Một là sóng của biển và một là sóng trong lòng. Sóng biển chỉ làm anh nghiêng ngả thân mình còn sóng trong lòng làm anh chao đảo cả tâm trí.
Nhìn vào tổng thể toàn bài thơ, ta có thể thấy được “Thơ viết ở biển” là một chỉnh thể gần như hoàn hảo. Cấu trúc toàn bài thơ như hình thù một con sóng với ba thơ mở đầu chỉ vỏn vẹn ba chữ, cảm xúc như được nén lại; chuyển sang năm câu thơ ở giữa thì dung lượng chữ tăng lên, tiết tấu trầm và chậm lại để phù hợp với lời tự bạch của chủ thể trữ tình;ở ba dòng thơ cuối dung lượng lại thu hẹp dần, giọng thơ lại ngắt quãng, ngắt nhịp “Vì sóng đã làm anh/Nghiên ngả/Vì em..”
Về hình ảnh thơ, các hình ảnh cũng có mối liên hệ lẫn nhau: Mặt trời, trăng, biển, cánh buồm, sóng, gió, núi đá. Mặt trời và trăng; biển và cánh buồm;núi đá và gió đều là những thực thể sóng đôi với nhau ngoài tự nhiên, tượng trưng cho “Anh” và “Em” vậy. Tất cả đều trở nên đơn độc, lẻ loi, mất đi ý nghĩa khi anh xa em. Cả bài thơ là một không gian rộng rãi nhưng bao trùm bởi màu sắc trầm buồn, một sự cô đơn, trống vắng đến mênh mang.
Như vậy, khi cắt nghĩa và lý giải toàn bộ bài thơ dưới góc độ đặc trưng văn học, ta mơ hồ nhận ra cái nghĩa tình, ý niệm mà Hữu Thỉnh muốn gửi gắm: Tình yêu luôn đi liền với nỗi buồn, sự nhớ nhung da diết, cảm giác cô đơn, lẻ loi khi xa nhau và khi yêu ai cũng khát khao say đắm, hướng đến sự trọn vẹn, chung thủy sắc son. Chính những khoảnh khắc xa cách, nhớ nhung ấy mới càng làm trọn vẹn cung bậc cảm xúc của những người đang yêu, khiến cho con người ta trân trọng, hết lòng hơn vì tình yêu!
Hegel từng quan niệm về thơ như sau: “Thi ca là thứ nghệ thuật chung của tâm hồn đã trở nên tự do và không bị bó buộc vào nhận thức giác quan về vật chất bên ngoài; thay vì thế, nó diễn ra riêng tư trong không gian bên trong và thời gian bên trong của tư tưởng và cảm xúc.” Đọc “Thơ viết ở biển” của Hữu Thỉnh để tâm hồn mình có những giây phút lắng đọng, để chiêm nghiệm về triết lý tình yêu. Đó là một bài thơ hay, tinh tế nhưng cũng không kém phần chân thành, da diết đến từ hồn thơ vô cùng đôn hậu, nồng nàn tha thiết: Hữu Thỉnh.