VIẾT VĂN BẢN THUYẾT MINH
Đề bài
ĐỌC – HIỂU (6,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
Cơn gió mùa hạ lướt qua vừng sen trên hồ, nhuần thấm cái hương thơm của lá, như báo trước mùa về của một thức quà thanh nhã và tinh khiết. Các bạn có ngửi thấy, khi đi qua những cánh đồng xanh, mà hạt thóc nếp đầu tiên làm trĩu thân lúa còn tươi, ngửi thấy cái mùi thơm mát của bông lúa non không? Trong cái vỏ xanh kia, có một giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ. Dưới ánh nắng, giọt sữa dần dần đông lại, bông lúa ngày càng cong xuống, nặng vì cái chất quý trong sạch của Trời.
Đợi đến lúc vừa nhất, mà chỉ riêng những người chuyên môn mới xác định được, người ta gặt mang về. Rồi đến một loạt cách chế biến, những cách thức làm truyền từ đời này sang đời khác, một sự bí mật trân trọng và khe khắt giữ gìn, cái cô gái Vòng làm ra thứ cốm dẻo và thơm ấy. Tất nhiên là nhiều nơi cũng biết cách thức làm cốm, nhưng không có đâu làm được hạt cốm dẻo, thơm và ngon được bằng ở làng Vòng, gần Hà Nội.
Tiếng cốm Vòng đã lan khắp tất cả ba kì, và đến mùa cốm, các người của Hà Nội 36 phố phường vẫn thường ngóng trông cô hàng cốm xinh xinh, áo quần gọn ghẽ, với cái dấu hiệu đặc biệt là cái đòn gánh hai đầu cong vút lên như chiếc thuyền rồng…
Cốm là thức quà riêng biệt của đất nước, là thức dâng của những cánh đồng lúa bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ An Nam. Ai đã nghĩ đầu tiên dùng cốm để làm quà sêu tết. Không gì còn hợp hơn với sự vương vít của tơ hồng, thức quà trong sạch, trung thành như các việc lễ nghi. Hồng cốm tốt đôi… Và không bao giờ có hai màu lại hoà hợp hơn được nữa: màu xanh tươi của cốm như ngọc thạch quý, màu đỏ thắm của hồng như ngọc lựu già. Một thứ thanh đạm, một thứ ngọt sắc, hai vị nâng đỡ nhau để hạnh phúc được lâu bền. (…)
Cốm không phải thức quà của người vội; ăn cốm phải ăn từng chút ít, thong thả và ngẫm nghĩ. Lúc bấy giờ ta mới thấy thu lại cả trong hương vị ấy, cái mùi thơm phức của lúa mới, của hoa cỏ dại ven bờ: trong màu xanh của cốm, cái tươi mát của lá non, và trong chất ngọt của cốm, cái dịu dàng thanh đạm của loài thảo mộc. Thêm vào cái mùi hơi ngát của lá sen già, ướp lấy từng hạt cốm một còn giữ lại cái ấm áp của những ngày mùa hạ trên hồ. Chúng ta có thể nói rằng trời sinh lá sen để bao bọc cốm, cũng như trời sinh cốm nằm ủ trong lá sen. Khi các cô gái làng Vòng đỗ gánh, giở từng lớp lá sen, chúng ta thấy hiện ra từng lá cốm, sạch sẽ, và tinh khiết, không có mảy may một chút bụi nào. Hỡi các bà mua hàng! Chớ có thọc tay mân mê thức quà thần tiên ấy, hãy nhẹ nhàng mà nâng đỡ, chút chiu mà vuốt ve. Phải nên kính trọng cái lộc của Trời, cái khéo léo của người, và sự cố sức tiềm tàng và nhẫn nại của thần Lúa. Sự thưởng thức của các bà sẽ được trang nhã và đẹp đẽ hơn, và cái vui cũng sẽ tươi sáng hơn nhiều lắm.
(Một thứ quà của lúa non: cốm, Thạch Lam, Hà Nội băm sáu phố phường,
NXB Đời Nay, Hà Nội, 1943)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định đối tượng chính được nói tới trong đoạn trích.
Câu 2. Trong đoạn trích, tác giả đã gọi cốm là thức quà có đặc điểm gì?
Câu 3. Cái tôi của tác giả được thể hiện như thế nào trong đoạn văn?
Câu 4. Anh/Chị rút ra một bài học ý nghĩa nhất cho bản thân sau khi đọc đoạn trích? Lí giải vì sao?
Câu 5. Từ nội dung đoạn trích, anh/chị có suy nghĩ gì về vai trò của các giá trị văn hóa truyền thống?
LÀM VĂN (4,0 điểm)
Anh/Chị hãy viết bài văn (khoảng 600 chữ) thuyết minh về lối sống nhanh, sống chậm của giới trẻ thời đại 4.0.
Hướng dẫn đáp án chi tiết
ĐỌC – HIỂU
Câu 1. Đối tượng chính được nói tới trong văn bản là: Cốm.
Câu 2. Trong văn bản, tác giả gọi cốm là thức quà: quà thanh nhã và tinh khiết.
Câu 3.
– Cái tôi tinh tế, nhạy cảm;
– Yêu quý, gắn bó với các giá trị truyền thống của dân tộc;
– Có vốn hiểu biết sâu rộng.
Câu 4. Học sinh được tự do rút ra bài học, miễn là tích cực và có liên quan đến nội dung của văn bản. Có thể theo hướng sau:
– Phải biết trân trọng những món ăn mang giá trị văn hóa của dân tộc.
– Phải biết quý trọng công lao của những người làm ra hạt cốm.
– Biết tỏ ra tinh tế, có văn hóa trong thưởng thức các món ăn.
Câu 5. HS trình bày suy nghĩ về vai trò của các giá trị văn hóa truyền thống. Có thể tham khảo các ý sau:
– Làm nên bản sắc, chiều sâu văn hóa của dân tộc.
– Giúp đất nước phát triển một cách bền vững.
– Làm giàu đời sống tâm hồn của mỗi cá nhân.
v.v…
LÀM VĂN
Mở bài: Giới thiệu sự vật, hiện tượng cần thuyết minh, nêu rõ sự tồn tại của sự vật, hiện tượng trong đời sống xã hội: Lối sống nhanh, sống chậm của giới trẻ thời đại 4.0.
Thân bài:
* Nêu thực chất của sự vật, hiện tượng được thuyết minh
– Lối sống nhanh là lối sống khẩn trương, nhạy bén cùng với những biến chuyển, đổi thay của thời cuộc.
– Lối sống chậm là lối sống không bị cuốn vào guồng quay công việc cùng công nghệ thông tin, là lối sống bình yên biết tận hưởng mọi niềm vui của cuộc sống từ những điều nhỏ nhất để từ đó biết cách di dưỡng tâm hồn mình.
* Thuyết minh về nguyên nhân của lối sống nhanh, sống chậm
– Nguyên nhân của lối sống nhanh:
+ Thời đại 4.0 cuộc sống biến chuyển, đổi thay từng giây, từng phút. Đó là thời đại của tốc độ, của thế giới phẳng. Để thích ứng với thời cuộc, con người cần đẩy nhanh tốc độ sống, tâm thế sống của mình.
+ Thời 4.0 là thời đại mà toàn bộ các ngành, lĩnh vực đều chịu ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 – cách mạng công nghiệp tập trung vào phát triển công nghệ kỹ thuật số với sự trợ giúp của kết nối thông qua Internet vạn vật, truy cập dữ liệu thời gian thực và giới thiệu các hệ thống vật lý không gian mạng.
– Nguyên nhân của lối sống chậm:
+ Giới trẻ nhận thức được giá trị cốt lõi của cuộc sống.
+ Hoàn cảnh khách quan của cuộc sống khiến con người không thể sống nhanh.
* Thuyết minh về các mặt tích cực, hạn chế của lối sống nhanh, lối sống chậm
– Mặt tích cực, hạn chế của lối sống nhanh:
+ “Sống nhanh cùng thời đại” là để theo kịp, lĩnh hội, tiếp thu những xu hướng, thành tựu mới nhằm hoàn thiện bản thân, tăng cường hiệu quả lao động, góp phần vào sự phát triển chung của xã hội để không bị tụt hậu. Họ cần tiếp thu nhanh, phản ứng nhanh, hành động nhanh để nắm bắt, tận dụng mọi cơ hội; trở thành một người sống năng động, nhạy bén, linh hoạt. Với giới trẻ của thời đại 4.0 “Sống là không chờ đợi”, là cuộc chạy đua tốc độ, không ai muốn mình trở thành người tụt hậu, kẻ đến sau. Họ cần sống nhanh để theo cùng thời đại.
+ Con người không phải là cỗ máy vô tri, cũng không chỉ sống bằng lí trí dễ rơi vào vô cảm. Sống nhanh khiến con người bỏ qua nhiều điều có ý nghĩa của cuộc sống vì nó nhỏ nhặt, khuất lấp, cần tinh tế cảm nhận.
– Mặt tích cực, hạn chế của lối sống chậm:
+ Sống chậm là sự tận hưởng cuộc sống qua các cung bậc xúc cảm của tâm hồn và trái tim, sống chậm giúp con người tự cân bằng. Sống chậm chính là để di dưỡng tâm hồn mình: để biết lắng nghe, biết cảm nhận, biết thấu hiểu, biết sẻ chia…
+ Sống chậm sẽ khiến con người đánh mất đi sự năng động, tích cực, chủ động. Cũng như, dễ dàng khiến con người bị tụt hậu, lạc hậu so với thời đại.
* Thuyết minh về giải pháp khắc phục hạn chế và phát huy mặt tích cực của sống nhanh, sống chậm.
– Cần nhận biết, đánh giá đúng mức về cách thức sống nhanh và sống chậm của bản thân và người khác trong đời sống xã hội. Phân biệt giữa sống nhanh và sống vội, sống gấp chỉ để hưởng thụ. Phân biệt sống chậm để di dưỡng tâm hồn với sống chậm chỉ là vỏ bọc để chây lười, thụ động, ù lì. Sống nhanh không phải chỉ là lối sống hiện đại, trẻ trung của giới trẻ; sống chậm không có nghĩa là lối sống già nua, lạc hậu của người già. Bất cứ ở lứa tuổi nào, trình độ nào giữa thời đại ngày nay con người cũng cần học sống nhanh và sống chậm.
– Cần cảnh báo một bộ phận giới trẻ ngày nay chỉ quay cuồng sống nhanh không biết sống chậm, thiếu sự nuôi dưỡng, vun đắp cho tâm hồn nên tự đẩy bản thân đối mặt với những áp lực cuộc sống, rơi vào lối sống vô cảm, tự kỉ dẫn đến những hậu quả đáng tiếc cho bản thân, gia đình và xã hội…
– Biết kết hợp hai cách thức sống: sống nhanh và sống chậm, con người mới “Sống” theo đúng nghĩa, cảm nhận trọn vẹn, đầy đủ nhất ý nghĩa và giá trị cuộc sống. Nghệ thuật sống là phải biết sống chậm giữa đời nhanh.
- Kết bài: Nêu ý nghĩa của việc nhận thức đúng về sự vật, hiện tượng được thuyết minh: rút ra ý nghĩa của việc thuyết minh về lối sống nhanh, sống chậm.
Bài viết tham khảo:
“Sống là cả một nghệ thuật”, chính vì vậy mà mỗi người đều có cách sống riêng của mình. Khi xã hội ngày càng phát triển thì hình như cách sống con người khác đi. Họ sống vội, ăn vội, yêu thương vội hoặc sống khép mình, thụ động, ù lì. Bởi vậy, chúng ta cần phải biết chọn cho mình lối sống phù hợp. Bạn sẽ chọn sống nhanh hay sống chậm?
Lối sống nhanh là lối sống khẩn trương, nhạy bén cùng với những biến chuyển, đổi thay của thời cuộc, khác với lối sống chậm là lối sống không bị cuốn vào guồng quay công việc cùng công nghệ thông tin, là lối sống bình yên biết tận hưởng mọi niềm vui của cuộc sống từ những điều nhỏ nhất để từ đó biết cách di dưỡng tâm hồn mình.
Thời đại 4.0 cuộc sống biến chuyển, đổi thay từng giây, từng phút. Đó là thời đại của tốc độ, của thế giới phẳng. Để thích ứng với thời cuộc, con người cần đẩy nhanh tốc độ sống, tâm thế sống của mình. Thời 4.0 là thời đại mà toàn bộ các ngành, lĩnh vực đều chịu ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 – cách mạng công nghiệp tập trung vào phát triển công nghệ kĩ thuật số với sự trợ giúp của kết nối thông qua Internet vạn vật, truy cập dữ liệu thời gian thực và giới thiệu các hệ thống vật lý không gian mạng. Tuy nhiên, giới trẻ nhận thức được giá trị cốt lõi của cuộc sống. Hoàn cảnh khách quan của cuộc sống khiến con người không thể sống nhanh.
“Sống nhanh cùng thời đại” có ý nghĩa tích cực trong việc theo kịp, lĩnh hội, tiếp thu những xu hướng, thành tựu mới nhằm hoàn thiện bản thân, tăng cường hiệu quả lao động, góp phần vào sự phát triển chung của xã hội để không bị tụt hậu. Họ cần tiếp thu nhanh, phản ứng nhanh, hành động nhanh để nắm bắt, tận dụng mọi cơ hội; trở thành một người sống năng động, nhạy bén, linh hoạt. Với giới trẻ của thời đại 4.0, “Sống là không chờ đợi”, là cuộc chạy đua tốc độ, không ai muốn mình trở thành người tụt hậu, kẻ đến sau. Họ cần sống nhanh để theo cùng thời đại. Song con người không phải là cỗ máy vô tri, cũng không chỉ sống bằng lí trí dễ rơi vào vô cảm. Sống nhanh khiến con người bỏ qua nhiều điều có ý nghĩa của cuộc sống vì nó nhỏ nhặt, khuất lấp, cần tinh tế cảm nhận.
Sống chậm là sự tận hưởng cuộc sống qua các cung bậc xúc cảm của tâm hồn và trái tim, sống chậm giúp con người tự cân bằng. Sống chậm chính là để di dưỡng tâm hồn mình: để biết lắng nghe, biết cảm nhận, biết thấu hiểu, biết sẻ chia… Nhưng đôi khi sống chậm sẽ khiến con người đánh mất đi sự năng động, tích cực, chủ động. Cũng như, dễ dàng khiến con người bị tụt hậu, lạc hậu so với thời đại.
Bởi vậy ta cần nhận biết, đánh giá đúng mức về cách thức sống nhanh và sống chậm của bản thân và người khác trong đời sống xã hội. Phân biệt giữa sống nhanh và sống vội, sống gấp chỉ để hưởng thụ. Phân biệt sống chậm để di dưỡng tâm hồn với sống chậm chỉ là vỏ bọc để chây lười, thụ động, ù lì. Sống nhanh không phải chỉ là lối sống hiện đại, trẻ trung của giới trẻ; sống chậm không có nghĩa là lối sống già nua, lạc hậu của người già. Bất cứ ở lứa tuổi nào, trình độ nào giữa thời đại ngày nay con người cũng cần học sống nhanh và sống chậm.
Cần cảnh báo một bộ phận giới trẻ ngày nay chỉ quay cuồng sống nhanh không biết sống chậm, thiếu sự nuôi dưỡng, vun đắp cho tâm hồn nên tự đẩy bản thân đối mặt với những áp lực cuộc sống, rơi vào lối sống vô cảm, tự kỉ dẫn đến những hậu quả đáng tiếc cho bản thân, gia đình và xã hội… Biết kết hợp hai cách thức sống: sống nhanh và sống chậm, con người mới “sống” theo đúng nghĩa, cảm nhận trọn vẹn, đầy đủ nhất ý nghĩa và giá trị cuộc sống. Nghệ thuật sống là phải biết sống chậm giữa đời nhanh.
Cuộc hành trình của mỗi người đều đầy những ngày nắng và những ngày mưa, và không phải lúc nào cũng quan trọng là chúng ta sống nhanh hay sống chậm. Quan trọng nhất là chúng ta sống mỗi khoảnh khắc của cuộc đời mình một cách trọn vẹn và tận hưởng từng giây phút đáng quý đó bởi vì Con người sinh ra không phải để tan biến đi như một hạt cát vô danh. Họ sinh ra để lưu lại dấu ấn trên mặt đất, trong trái tim người khác”. (Xukhômlinxki)