Một số đề và đáp án dành cho kì thi HSG ngữ văn 12

MỘT SỐ ĐỀ THI VÀ ĐÁP ÁN
DÀNH CHO KỲ THI HSG NGỮ VĂN 12
 
Câu 1: (8 điểm)
Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về vấn đề đặt ra trong đoạn thơ sau:
“Chẳng có ai tẻ nhạt mãi trên đời
Mỗi số phận chứa một phần lịch sử
Mỗi số phận riêng, dù rất nhỏ
Chắc hành tinh nào đã sánh nổi đâu ?”
(Chẳng có ai tẻ nhạt mãi trên đời – Evgeny Evtushenko (Nga))
Câu 2: (12 điểm )
Bàn về truyện ngắn, Từ điển Thuật ngữ Văn học (Nhà xuất bản Văn học, 1992) trang 253 có viết:
“Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là những chi tiết cô đúc, có dung lượng lớn và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết.”
Anh (chị ) hãy giải thích và chứng minh ý kiến trên./.
 
…………………Hết…………………
 
HƯỚNG DẪN CHẤM THI VÀ BIỂU ĐIỂM MÔN VĂN
                                                                                                               
                                                                                                               
Giám khảo hội đồng chấm cần lưu ý những điểm sau đây:
Đáp án và thang điểm chỉ là những gợi ý định hướng cho việc đánh giá, cho điểm bài làm của học sinh. Khi chấm cần có sự linh họat.
2.Chấm kỹ lưỡng và chính xác. Khuyến khích cho điểm cao những bài viết có cách tư duy độc đáo, sáng tạo; cảm thụ tinh tế; văn viết giản dị, trong sáng, giàu cảm xúc; kết cấu chặt chẽ, bố cục rõ ràng, ý tứ mạch lạc; làm bật được yêu cầu của đề.
Bài thi được chấm theo thang điểm 20; làm tròn số tới 0,50 điểm .
 

Câu Ý Yêu cầu Điểm
1   Yêu cầu: Học sinh hiểu đúng và đưa ra những ý kiến bàn luận hợp lý về vấn đề tư tưởng đặt ra  trong đoạn thơ. Bố cục bài viết rõ ràng, kết cấu chặt chẽ; diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi về chính tả, dùng từ, đặt câu; khuyến khích những bài làm sáng tạo.
       Có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần nêu được các ý sau:
 
 
  1 Cảm nhận, phân tích ngắn gọn đoạn thơ để phát hiện vấn đề được đặt ra:
– Tôn trọng và đề cao con người cá nhân vì mỗi cá nhân đều có cuộc đời, số phận riêng phong phú, độc đáo (không tẻ nhạt, không hành tinh nào sánh nổi);
– Quan hệ giữa cá nhân và xã hội: mỗi cá nhân mang trong nó một phần đặc tính, lịch sử phát triển của cả công đồng và dù hết sức nhỏ bé nhưng mỗi cá nhân góp phần làm nên sự đa dạng cho xã hội. (“chứa một phần lịch sử”,…).
2,5
  2 Phát biểu suy nghĩ về vấn đề được đặt ra trong đoạn thơ  
    2.1. Giải thích
          – Mỗi con người là một cá thể độc đáo, không lặp lại. Nếu chịu khó tìm hiểu con người, đi sâu vào thế giới nội tâm của họ sẽ thấy mỗi cá nhân – dù thoạt nhìn có vẻ tẻ nhạt, nhàm chán – là một thế giới không cùng, một quyển sách đọc không bao giờ hết. Những nét đặc sắc ấy hợp thành màu sắc phong phú, đa dạng cho xã hội. (dẫn chứng + phân tích)
– Không có từng cá nhân thì không thể có xã hội, cũng không thể có lịch sử phát triển xã hội. Dù không phải là tướng lĩnh tài ba, lãnh tụ xuất chúng hay nhà bác học lỗi lạc, bất kì cá nhân nào cũng có thể góp sức vì sự phát triển chung. (dẫn chứng + phân tích)
 
3,5
    2.2. Rút ra bài học
Hiểu đúng về quan hệ giữa cá nhân và xã hội, nhận thức rõ vai trò cá nhân sẽ giúp ta:
– Tôn trọng giá trị của mỗi con người, dù họ làm những việc rất giản đơn, bình thường hay không có tài năng gì đặc biệt.
– Mỗi người nỗ lực phấn đấu để sống một cuộc đời phong phú, có ích cho xã hội. Mỗi học sinh phải ra sức học tập, trau dồi kiến thức, tu dưỡng đạo đức để trở thành người có ích, có đóng góp cho xã hội,….
– Tăng cường tinh thần đoàn kết để tạo nên sức mạnh chung.
 
2,0
2   Yêu cầu:
– Biết vận dụng kiến thức lí luận văn học kết hợp với kiến thức về tác giả, tác phẩm để giải quyết yêu cầu nghị luận về một vấn đề LLVH.
– Biết kết hợp nhiều thao tác nghị luận để làm sáng tỏ yêu cầu của đề.
– Bài viết có bố cục rõ ràng, lập luận thuyết phục, văn giàu cảm xúc, tinh tế.
Một số ý cơ bản cần nêu được là:
 
  1 Giải thích khái niệm
– Chi tiết trong tác phẩm văn học là những “tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng” (Từ điển thuật ngữ văn học)
– “chi tiết cô đúc, có dung lượng lớn” là những chi tiết đã được chọn lọc, nhào nặn, thông qua sự sáng tạo của nhà văn để có thể chuyên chở những ý nghĩa rộng lớn, sâu sắc mà nhà văn muốn chuyển tải.
– “lối hành văn mang nhiều ẩn ý”: qua cách dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp nghệ thuật,vv… nhà văn tạo được cách diễn đạt riêng, giọng điệu riêng góp phần thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn.
– “những chiều sâu chưa nói hết” của tác phẩm chính là những vấn đề, những suy tư trăn trở, những quan niệm, thái độ, tình cảm,… của nhà văn được gửi gắm phía sau hình tượng, phía sau câu chữ.
 
3
  2 Giải thích
Vì sao chi tiết cô đúc, có dung lượng lớn và lối hành văn nhiều ẩn ý lại là yếu tố quan trong bậc nhất của truyện ngắn?
– Đặc trưng của truyện ngắn: quy mô, dung lượng phản ánh hiện thực “nhỏ”, mỗi truyện ngắn có thể ví như “một lát cắt của hiện thực đời sống” (khắc hoạ một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người); hạn chế về độ dài tác phẩm. Cho nên những chi tiết cô đúc, hàm chứa nhiều ý nghĩa, lối hành văn nhiều ẩn ý là hướng giải quyết tối ưu cho việc chuyển tải nội dung.
– Mỗi tác phẩm có một hệ thống chi tiết nghệ thuật. Có thể đó là một hệ thống chi tiết dày đặc như trong tác phẩm truyện, hoặc chỉ vài nét chấm phá như trong tác phẩm thơ. Nhờ hệ thống chi tiết này mà thế giới nghệ thuật của tác phẩm, từ con người đến cảnh vật hiện ra một cách cụ thể, sinh động, đồng thời cũng góp phần soi tỏ ý nghĩa của tác phẩm.
– Chi tiết có ý nghĩa rất sâu sắc trong việc cắt nghĩa hình tượng nghệ thuật của tác phẩm. Đọc hiểu hình tượng trong tác phẩm không thể không đọc hiểu các chi tiết nghệ thuật. Cần phải nắm lấy chi tiết nghệ thuật quan trọng nhất của tác phẩm, tìm hiểu nó trong mối quan hệ với các chi tiết khác trong tác phẩm để thấy được vai trò, ý nghĩa, tác dụng của chi tiết nghệ thuật ấy trong việc thể hiện nội dung tư tưởng tác phẩm, đóng góp sáng tạo của nhà văn.
3
  3 Chứng minh
Yêu cầu HS:
– Chọn được các chi tiết nghệ thuật tiêu biểu và lối hành văn mang nhiều ẩn ý trong các tác phẩm truyện ngắn;
– Phân tích được vai trò, ý nghĩa nghệ thuật của các chi tiết và lối hành văn mang nhiều ẩn ý đã chọn đối với tác phẩm nói riêng, thế giới nghệ thuật của nhà văn nói chung.
5
  4 Nâng cao
Một nhà văn tài năng cần tạo dựng được những chi tiết nghệ thuật độc đáo, giàu ý nghĩa có sức ám ảnh người đọc và giọng văn riêng cho tác phẩm của mình.
 
1

 
 
 
MỘT SỐ ĐỀ THI VÀ GỢI Ý LÀM BÀI DÀNH CHO HSG NGỮ VĂN 12
 
ĐẾ 1:
 
Câu 1 (8 điểm).
Cá chép con và cua
Cá chép con dạo chơi trong hồ nước. Lúc đi ngang nhà cua, thấy cua đang nằm, vẻ mặt rất đau đớn, cá chép con bèn bơi lại gần và hỏi:
– Bạn cua ơi, bạn làm sao thế?
Cua trả lời:
– Tớ đang lột xác bạn à..
– Ôi, chắc là bạn đau lắm. Nhưng tại sao bạn lại phải làm như thế ?
– Họ hàng nhà tớ ai cũng phải lột xác thì mới lớn lên và trưởng thành được, dù rất đau đớn cá chép con ạ.
– À, bây giờ thì tớ đã hiểu.
(Những mẩu chuyện thiếu nhi chọn lọc – NXB Kim Đồng, 2009)
Anh (chị) có suy nghĩ gì sau khi đọc câu chuyện trên ?
Câu 2 (12 điểm).
Nhận xét về vai trò của chi tiết nghệ thuật trong truyện, có ý kiến cho rằng: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên?
Hãy chọn hai chi tiết đặc sắc trong hai tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân và “Chí Phèo” của Nam Cao để làm sáng tỏ nhận định trên.
 
ĐÁN ÁN
Câu 1 ( 8 điểm)
Yêu cầu về kĩ năng: Nắm vững kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội. Vận dụng nhuần nhuyễn các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận… Diễn đạt trong sáng, bố cục rõ ràng, không mắc lỗi chính tả.
Yêu cầu về nội dung: Bài viết cần làm sáng tỏ những ý sau:
Phân tích khái quát câu chuyện:
– Câu chuyện nhấn mạnh đến cách thức mà cua con “lớn lên và trưởng thành” – đó là “lột xác”. “Lột xác” là trút bỏ lớp vỏ cũ, hình thành và phát triển một lớp vỏ hoàn toàn mới, vừa vặn hơn với cơ thể. Mỗi lần lột xác là loài cua lại lớn hơn. Song quá trình “lột xác” lại rất đau đớn và thường gặp nguy hiểm nữa.  Tuy nhiên, loài cua không thể lớn lên mà không lột xác.
– Điều quan trọng là cách chấp nhận rất tự nhiên của cua con với quá trình lột xác của họ hàng nhà mình, coi như đó là cách duy nhất để lớn lên và trưởng thành.
Bình luận:
– Câu chuyện đã gợi cho ta bài học nhân sinh sâu sắc về quá trình lớn lên và trưởng thành của muôn loài và con người: muốn lớn lên và trưởng thành, muốn đạt đến thành công thì tất cả muôn loài và con người cần phải trải qua chông gai thử thách, qua những quá trình lột xác đau đớn.
– Cuộc đời con người là một hành trình dài, trong đó có những dấu mốc thành công không thể phai mờ, nó đánh dấu sự trưởng thành của mỗi chúng ta trên đường đời. Nhưng để đi đến những thành công ấy, con người đã phải qua quá trình “lột xác” đau đớn. Quá trình này là tự thân, không ai thay thế được chính bản thân ta. Do đó, để “lớn lên và trưởng thành”, con người phải tự thân vận động vượt qua khó khăn, thử thách, chông gai cũng như loài cua, cua con cũng phải tự lột xác mới lớn lên được.
– Thái độ chấp nhận thử thách, khó khăn như một điều tất yếu trong cuộc sống là thái độ cần thiết để con người có thể “lớn lên và trưởng thành” và đạt tới thành công. Vượt qua thử thách cũng là một cách để thể hiện bản lĩnh, ý chí, nghị lực sống của con người, khẳng định ý nghĩa sự sống của mỗi con người.
– Từ quá trình “lột xác” của cua con, câu chuyện cũng đưa ra một quy luật của sự sống: sự sống là một sự phát triển liên tục mà ở đó cái mới thay thế cái cũ là điều tất yếu. Con người cần nhận thức được quy luật của sự phát triển ấy để thích ứng và làm chủ bản thân trong những thử thách và chông gai trên đường đời. Mỗi cá nhân đều cần lột xác để trưởng thành, từ đó thúc đẩy sự phát triển đi lên của xã hội.
*(Lưu ý: Mỗi luận điểm trên đều có phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ. Dẫn chứng phải tiêu biểu, toàn diện, xác đáng)
Mở rộng vấn đề:
– Phê phán lối sống nhu nhược, sợ hãi, không dám đương đầu với thử thách và chông gai, giam mình trong vỏ ốc, cả đời không đạt đến thành công.
– Phê phán lối sống ỷ lại, không tự thân vận động, ngại thay đổi, phụ thuộc vào người khác.
4.Bài học rút ra:
– Con người cần biết dũng cảm đương đầu với khó khăn, trong phong ba bão táp, con người sẽ trưởng thành rất nhanh chóng và đạt đến những thành công trên đường đời.
III. Cách chấm điểm:
Điểm 7-8: Bài viết đáp ứng tốt các yêu cầu trên. Hành văn có cảm xúc, lập luận thuyết phục.
Điểm 5-6: Bài viết đáp ứng được những ý cơ bản, hầu như không mắc lỗi về kĩ năng và diễn đạt.
Điểm 3-4: Bài viết chỉ trình bày được một nửa yêu cầu về kiến thức, còn mắc lỗi  về kĩ năng và diễn đạt.
Điểm 1-2: Bài viết chưa hiểu rõ về vấn đề hoặc không biết cách lập luận, mắc lỗi nhiều về kĩ năng và diễn đạt.
Điểm 0: Bài viết lạc đề hoàn toàn hoặc học sinh không viết bài.
 
Câu 2 (12 điểm)
Yêu cầu về kĩ năng: Viết đúng kiểu bài nghị luận văn học dạng lí luận văn học, vận dụng nhuần nhuyễn các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, so sánh…. Diễn đạt trong sáng, bố cục mạch lạc, rõ ràng. Không mắc lỗi chính tả.
Yêu cầu về nội dung: Học sinh có thể trình bày nhiều cách sáng tạo song cần đảm bảo được những ý cơ bản sau:
Giải thích
– “Chi tiết” là gì? – Ở đây không phải muốn nói đến những chi tiết thông thường cấu thành cốt truyện mà muốn nói đến những chi tiết nghệ thuật – là các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng (Từ điển thuật ngữ văn học).
– Vì sao “chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”? (Vai trò của chi tiết đối với tác phẩm văn học và thể hiện tài năng của nhà văn).
Chi tiết nghệ thuật tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tác phẩm. Chi tiết có khả năng thể hiện, giải thích, làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm.
Chi tiết nghệ thuật gắn với quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người, với truyền thống văn hóa nghệ thuật nhất định.
-> Do đó, “chi tiết nhỏ” có khả năng tạo nên “nhà văn lớn”.
Phân tích và chứng minh
Khái quát:
– Tác giả, tác phẩm: tác giả Nam Cao và tác phẩm “Chí Phèo”, tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm “Chữ người tử tù”.
– Chọn chi tiết đặc sắc trong mỗi tác phẩm: có thể chọn các chi tiết trong “Chí Phèo”: chi tiết tiếng chửi của Chí Phèo ở đầu truyện, chi tiết Chí Phèo tỉnh rượu sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở ở bờ sông, chi tiết bát cháo hành của Thị Nở, chi tiết Chí Phèo ôm mặt khóc rưng rức khi bị thị Nở từ chối… Với “Chữ người tử tù” có thể chọn chi tiết cảnh cho chữ cuối tác phẩm…
– Đánh giá được vị trí quan trọng của các chi tiết trong tác phẩm và trong việc thể hiện tài năng của nhà văn.
Cảm nhận, phân tích cụ thể các chi tiết:
– HS chọn và phân tích hai trong số những chi tiết đặc sắc thuộc hai tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân và “Chí Phèo” của Nam Cao. Bám sát vai trò và ý nghĩa của chi tiết đối với tác phẩm văn học và nhà văn, đồng thời làm rõ ý nghĩa, vai trò của chi tiết với tác phẩm cụ thể.
– Trong quá trình phân tích cần đối sánh để làm nổi bật ý nghĩa của từng chi tiết đã chọn.
Bình luận, đánh giá
– Hai chi tiết đều là những chi tiết nghệ thuật đặc sắc, góp phần không nhỏ tạo nên thành công cho tác phẩm và nhà văn, thể hiện khả năng khái quát hiện thực và sáng tạo nghệ thuật của hai nhà văn.
– Quá trình lao động nghệ thuật của nhà văn là quá trình lao động công phu, chắt lọc từng chi tiết nhỏ trong đời sống để tạo nên những chi tiết nghệ thuật sáng giá. Bởi vậy, nhận định trên hoàn toàn đúng đắn.
III. Cách chấm điểm:
– Điểm 10-12: Bài viết đáp ứng tốt các yêu cầu trên. Hành văn có cảm xúc, lập luận rõ ràng, dẫn chứng thuyết phục…
– Điểm 7-9: Bài viết đáp ứng được những ý cơ bản, hầu như không mắc lỗi về kĩ năng và diễn đạt.
– Điểm 4-6: Bài viết chỉ trình bày được một nửa yêu cầu về kiến thức, còn mắc lỗi về kĩ năng và diễn đạt.
– Điểm 1-3: Bài viết chưa hiểu rõ về vấn đề, chủ yếu kể lể lại các tình tiết. Diễn đạt và kĩ năng viết văn nghị luận yếu.
– Điểm 0: Bài viết lạc đề hoàn toàn hoặc học sinh không viết bài.
* L­­ưu ý:
Tôn trọng những bài viết sáng tạo mà vẫn đảm bảo yêu cầu cơ bản của hướng dẫn chấm.
Tuyệt đối không được đếm ý cho điểm mà phải chú ý đúng mức tới kĩ năng làm bài, khả năng diễn đạt của học sinh..
Điểm toàn bài là tổng điểm của hai câu và cho điểm lẻ tới 0,5.
 
——————————- Hết ———————————
ĐẾ 2:
Câu 1 (8 điểm): Suy nghĩ về câu nói sau:
Đường đời không chỉ có một lối đi
Câu 2 (12 điểm):
Mỗi nghệ sĩ có thể đến với văn chương và cuộc đời bằng con đường riêng của mình. Nhưng… tư duy nghệ thuật dù có đổi mới đến đâu đi nữa thì cũng không thể vượt ra ngoài các quy luật của chân thiện mĩ, quy luật nhân bản. Nhà văn chân chính có sứ mệnh khơi nguồn cho dòng sông văn học đổ ra đại dương nhân bản mênh mông.
(Lã Nguyên, Nguyễn Minh Châu và những trăn trở trong đổi mới tư duy nghệ thuật/ Nguyễn Minh Châu – về tác gia và tác phẩm; NXB GD; Hà Nội; 2007; trang 395)
Anh (chị) hiểu nhận định trên như thế nào? Làm sáng tỏ qua truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam và “Chí Phèo” của Nam Cao.
            …………………………………Hết…………………………………
GỢI Ý
Câu 1 (8 điểm): Đường đời không chỉ có một lối đi
Giải thích (2.0 điểm)
– Lời khẳng định ở chỗ: không chỉ có một lối đi; đã nhấn mạnh: có nhiều lối đi trên đường đời – con đường cuộc đời mỗi người. Cuộc đời nhiều ngã rẽ, nhiều nẻo đường; mỗi con đường dẫn đến  những mục tiêu khác nhau. Có con đường thẳng, phẳng phiu, có con đường chông gai, gồ ghề, trắc trở, gập ghềnh; có nhiều ngả đường dẫn đến đích; vấn đề lối đi nào ngắn nhất, thông minh nhất, đạt mục tiêu sớm nhất thì còn tùy thuộc vào sự lựa chọn của mỗi người.
– Câu nói đặt ra vấn đề lựa chọn đường đi trên đường đời của con người.
Bình luận (5.0 điểm)
– Đây là vấn đề rất quan trọng đặt ra với mỗi người, nhất là những người sắp bước vào đời, đang lựa chọn đường đi cho cuộc đời mình. Tại sao trên đường đời lại có nhiều lối đi? Bởi con đường là do con người tạo ra, người ta đi mãi thành đường. Con đường kết nối những điểm trong không gian, cũng là cái đích cần tới của con người. Tạo ra nhiều con đường cũng tức là tạo ra nhiều cách đi đến đích, tạo ra nhiều sự lựa chọn cho con người.
Ví dụ để lập nghiệp lập thân với thanh niên có nhiều con đường: Ngày xưa để lập nghiệp người con trai có thể trên con đường lập đức hành đạo, lập công, hay con đường lập ngôn. Có người lựa chọn con đường công danh, người chọn con đường văn chương nghệ thuật, con đường võ nghệ…  Thời đại cách mạng cũng mở ra nhiều con đường với người thanh niên Việt Nam thế kỉ 20. Có người lựa chọn đúng đắn con đường của mình; nhưng không ít người lầm đường lạc lối. Lựa chọn con đường sáng – tối, đen – trắng, phải – trái là cả vấn đề nhân cách và ý chí của con người. Ngày nay cũng vậy, có nhiều con đường: học tập thành danh, lao động sản xuất, kinh doanh công nghệ, văn nghệ thể thao… và trên con đường nào cũng có người thành danh nổi tiếng.
– Nhưng lưạ chọn con đường đi nào tùy thuộc vào mỗi người: mục tiêu, ước mơ, khát vọng, ham muốn, hay bản lĩnh, ý chí của con người. Có người chọn đường đi trên đường đời đúng đắn, đi đến đích nhanh chóng dễ dàng? Có người lựa chọn sai con đường của mình dẫn đến những sai lầm đổ vỡ?
– Vấn đề đặt ra: có nhiều con đường đi trên đường đời đến đích, vậy nên con người không nên bi quan chán nản mỗi khi vấp ngã trên đường đời. Có những lúc băn khoăn, chao đảo, đứng ở ngã ba cuộc đời nhiều lối rẽ, không biết đi con đường nào. Lúc ấy hãy tỉnh táo nhận ra con đường đi của riêng mình và quyết tâm dấn bước, đó là điều tiên quyết để lập thân lập nghiệp với mỗi người, nhất là người thanh niên. Và phải chọn được con đường của riêng mình, không nên dẫm lên vết chân người đi trước.
– Phê phán những người hèn yếu, không biết chọn đường đi trên đường đời, hoặc chọn con đường sai lầm hại dân hại nước, hại nhà hại mình; hoặc bỏ cuộc, đầu hàng số phận.
Bài học và liên hệ (1.0 điểm)
– Nhận thức được những ngã rẽ cuộc đời, con đường đúng đắn để đi.
– Quyết tâm thực hiện con đường mình đã lựa chọn, không bỏ dở con đường; có nghị lực bản lĩnh vượt qua mọi trở ngại trên đường đời nhiều chông gai trắc trở; biết chống lại những cám dỗ trên đường đời, biết tránh những xấu xa trên con đường để đi đến đích.
Câu 2 (12 điểm):
Giải thích: (4.5 điểm)
Mỗi nghệ sĩ riêng mình (1.5 điểm)
Câu nói đề cập đến cách tiếp cận, cắt nghĩa, lí giải đời sống bằng văn chương của mỗi người nghệ sĩ: mỗi người có con đường của riêng mình. Vì sao?
+ Vì đời sống là đối tượng khám phá của nghệ thuật, của văn chương. Cuộc đời là nơi xuất phát của văn học.
+ Đứng trước hiện thực cuộc sống phong phú, mỗi nhà nghệ sĩ có những cảm xúc, suy ngẫm, lí giải khác nhau, lựa chọn những mảng đề tài khác nhau, cách xử lí đề tài khác nhau để đặt ra những vấn đề khác nhau. Và đó là con đường riêng họ tạo ra cho mình. Đó cũng là yêu cầu xuất phát từ đặc trưng của VHNT: lĩnh vực của sự sáng tạo. Đó cũng là lương tâm, là trách nhiệm của mỗi người nghệ sĩ. Nam Cao tâm niệm: “Văn chương không cần những người thợ khéo tay…”.
Nếu không tạo ra con đường riêng của mình thì sao? Tác phẩm của họ sẽ trở thành sự sao chép, sẽ chết, sẽ dẫm lên vết chân của người đi trước. Nghĩa là nó sẽ chẳng mang đến chút gì mới lạ cho văn chương.
Tác dụng: Tạo ra con đường riêng của mình người nghệ sĩ sẽ tạo ra sự đa dạng trong sáng tạo nghệ thuật, khẳng định sức sống của mỗi tác phẩm, vị trí, phong cách của nhà văn, cái lí để nhà văn đứng được với cuộc đời.
Có thể lấy ví dụ: Cùng một đề tài, cách xử lí khác nhau ở các nhà văn.
Tư duy NT…. quy luật chân thiện mĩ, quy luật nhân bản (1.5 điểm)
  Đây là vấn đề đổi mới tư duy nghệ thuật – một vấn đề đặt ra như một nhu cầu bức thiết, sống còn của nghệ thuật. Nhà văn luôn phải tự làm mới mình góp phần đổi mới nghệ thuật. Đổi mới cái gì? Đổi mới đề tài, chủ đề, cảm hứng, văn phong… Quan trọng là đổi mới tư duy, cách nhìn nhận của nhà văn trước cuộc đời.
Nhưng mọi sự đổi mới đều không vượt ra ngoài quy luật chân, thiện, mĩ. Cái chân, cái thiện, cái mĩ, cái nhân bản vẫn là cái đích hướng đến của mọi khám phá, sáng tạo nghệ thuật. Quy luật chân thiện mĩ, nhân bản giống như sợi dây neo giữ, là giới hạn mà bán kính sáng tạo  nhà văn quay chiều nào cũng không thể vượt qua. Nói cách khác, nó cũng là một tâm điểm của mọi khám phá sáng tạo nghệ thuật.
Văn học sở dĩ là nhu cầu, là món ăn tinh thần không thể thiếu của con người, vì nó là lĩnh vực đáp ứng nhu cầu sống của con người. Văn học có nhiều chức năng (nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ, dự báo, giải trí…); có nhiều quan niệm cổ kim đông tây, nhưng điểm giao thoa gặp gỡ vẫn cứ là cái chân – thiện – mĩ, những vấn đề mang tính nhân bản nhân văn của đời sống con người. Cái chân, là muốn nói đến chức năng nhận thức của văn học; văn học phải chân thực. Cái thiện là nói đến chức năng giáo dục, cảm hóa của văn học. Cái mĩ, là nói đến chức năng thẩm mĩ, chức năng cơ bản nhất, chất keo kết dính các chức năng khác. Khi đạt tới chân thiện mĩ là văn học đạt tới chiều sâu nhân bản, hướng về con người, vì con người.
Sứ mệnh nhà văn chân chính… đại dương nhân bản mênh mông (1.5 điểm)
Đây là vấn đề trăn trở của nhiều cây viết. Chữ dùng có thể khác nhau, nhưng thực chất vẫn là một. Thạch Lam, Nam Cao, Nguyễn Tuân và nhiều nhà văn khác có những phát biểu về vấn đề này. Đó là vấn đề cái tâm của người cầm bút. Ở đây người nói đặt vấn đề: “khơi nguồn dòng sông văn học đổ ra đại dương nhân bản mênh mông” – ý tưởng độc đáo.  Mọi dòng sông đều đổ về biển rộng, cũng như mọi khám phá sáng tạo đều có đích hướng về, những vấn đề thuộc về con người, nhân sinh, nhân bản. Bởi lẽ, con người là một trung tâm khám phá của văn học nghệ thuật. Văn học có thể viết về mọi vấn đề của đời sống, mọi hình thức sáng tạo, nhưng đều hướng tới là để đặt ra và cắt nghĩa những vấn đề của nhân sinh. Văn học chân chính phải là thứ văn chương vị đời, nhà văn chân chính phải là nhà văn vì con người, tác phẩm mới đạt tới tầm nhân bản.
Chứng minh qua một vài tác phẩm (6.0 điểm)
– Cách đến với cuộc sống của Thạch Lam qua truyện “Hai đứa trẻ”: Chuyện một phố huyện buồn, những đứa trẻ nghèo với tâm hồn nhân ái, giàu mơ ước. Qua đó nhà văn đặt ra nhiều vấn đề sâu sắc mang tính nhân văn, nhân bản: vấn đề khát vọng sống của con người; vấn đề quyền được sống của trẻ em; vấn đề số phận con người và khát vọng đổi thay cuộc sống… Tác phẩm lấp lánh tư tưởng nhân văn theo cách viết của Thạch Lam (3.0 điểm).
– Cách đến với cuộc sống của Nam Cao qua truyện “Chí Phèo”: Chuyện về số phận bi thảm của người nông dân, về khát vọng lương thiện của con người – quỷ dữ. Dù đến muộn trên văn đàn, nhưng Nam Cao vẫn tạo được dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc chính nhờ hướng khám phá và phát hiện đời sống của riêng mình. Chí Phèo sở dĩ trở nên bất hủ chính nhờ tài năng và tâm huyết cũng như phong cách của Nam Cao.
– Cả hai tác phẩm đều chạm tới vấn đề mang tính nhân văn, nhân bản: khám phá vẻ đẹp con người, chất người, tức là đạt tới chân thiện mĩ… Tuy nhiên mỗi tác giả trong mỗi tác phẩm lại có những khám phá nghệ thuật riêng, hướng đi riêng; làm nên giá trị riêng cho mỗi tác phẩm và khẳng định vị trí của mỗi nhà văn trong nền văn học (3.0 điểm).
Kết luận (1.5 điểm): khẳng định vai trò của hướng đi riêng trong khám phá sáng tạo; đặc biệt là cái đích muôn đời của văn chương.
ĐỀ SỐ 3
 
     Câu 1(8 điểm)
Bàn luận về trình độ học vấn và cách ứng xử văn hoá của con người trong cuộc sống hôm nay.
Câu 2 (12 điểm)
          Nghệ thuật miêu tả tâm lí con người là thước đo tài năng người nghệ sĩ.
Hãy phân tích trong sự đối sánh nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ (Thạch Lam)  và nhân vật văn sĩ Hộ trong Đời thừa (Nam Cao) để thấy được những nét riêng của mỗi nhà văn về vấn đề nói trên (theo Ngữ Văn 11, Nâng cao, tập 1)
 
———————Hết———————
 
 
 
 
GỢI Ý
 
     Câu 1 (8 điểm)
        Trên cơ sở hiểu đúng vấn đề về trình độ học vấn, ứng xử văn hóa của con người trong cuộc sống hiện đại hôm nay, biết cách tạo lập văn bản nghị luận xã hội về tư tưởng đạo lí, học sinh có thể trình bày bằng nhiều cách, song về cơ bản cần có những ý sau:
Dẫn dắt, nêu vấn đề nghị luận (0,5 điểm)
Giải thích (2,0 điểm)
Trình độ học vấn là vốn tri thức mỗi người tiếp thu được qua sách vở, mà thước đo là những tấm bằng tốt nghiệp, những chứng chỉ xác nhận học hàm, học vị.
ứng xử văn hoá là cách ứng xử đẹp, thể hiện ở lời nói, hành vi, cử chỉ trong cuộc sống hằng ngày.
-> Hai khái niệm trên bề ngoài là độc lập nhưng thực chất lại có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Bình luận ( 4,5 điểm)
Người có trình độ học vấn thường có cách cư xử rất văn hoá. Vì kiến thức họ nhận được từ sách vở, về thực tế và cách ứng xử luôn hoà thấm trong nhau. Họ học cao, biết rộng, hiểu tâm lí con người nên làm chủ được phát ngôn hành động, cử chỉ của mình trong mọi tình huống. Họ biết tôn trọng mình, tôn trọng người khác. Trong mắt mọi người, họ luôn được mọi người yêu mến, nể trọng,..(Dẫn chúng thực tế minh hoạ…)
    b.Nhưng có một số người có trình độ học vấn nhưng chưa chắc đã có cách ứng xử văn hoá. Vì những người này thường không làm chủ được lới nói, hành vi của mình nhất là trong hoàn cảnh bất thường. Có thể học rộng, tài cao nhưng đôi lúc không ý thức được hành vi của mình là thiếu văn hoá, làm tổn hại đến danh dự, quyền lợi của người khác hay suy nghĩ lệch lạc để biện hộ cho việc khẳng định bản thân trước đám đông, hoặc do tâm lí đố kị, thù hằn ai đó ăn sâu vào tiềm thức nên muốn hạ thấp nhân phẩm, thậm chí lấy đi mạng sống của kẻ đối nghịch, … Cách ứng xử thiếu văn hoá là mầm mống của căn bệnh vô cảm đến lạnh lùng, tàn nhẫn trong xã hội cần được đấu tranh, lên án,…(Dẫn chứng thực tế minh hoạ)
Trong xã hội, lại có người không có trình độ học vấn nhưng cách ứng xử vẫn có văn hoá. Đó là những người do điều kiện không thuận lợi nên không được học hành đến nơi đến chốn nhưng họ biết phân biệt rõ trắng – đen, phải – trái trong cuộc đời. Họ am hiểu tâm lý con người hướng tâm hồn mình và người khác đến chân trời của chuẩn mực đạo đức, của cái Đẹp. Họ có khả năng kiềm chế nóng giận, bức xúc trong hoàn cảnh bất thường. Họ có tấm lòng bao dung, nhân hậu, vị tha. Cuộc sống này có vô vàn những con người như thế, rất đáng để ta quý trọng và học tập,…(Dẫn chứng thực tế minh hoạ)
 
Bài học nhận thức và hành động (1,0 điểm)
– Cần tiếp thu tri thức sách vở, trau dồi kĩ năng sống, kiên định theo lí tưởng sống cao đẹp.
– Đấu tranh với những biểu hiện thiếu văn hoá trong cuộc sống hằng ngày.
Câu 2 (12 điểm)
        Trên cơ sở hiểu đúng yêu cầu của đề, nắm chắc kiến thức về các tác phẩm Hai đứa trẻ, Đời thừa, các tác giả Thạch Lam, Nam Cao, biết cách tạo lập văn bản nghị luận văn bản ở dạng đề đối sánh, học sinh có thể trình bày theo nhiều cách, song về cơ bản cần có những ý sau.
Dẫn dắt, nêu vấn đề nghị luận (0,5 điểm )
Giải thích (2,0 điểm)
Tâm lí, tính cách con người bao giờ cũng là đối tượng phản ánh của văn học. Lịch sử văn học dân tộc xét cho cùng là lịch sử tâm hồn của nhân dân.
Nghệ thuật miêu tả tâm lí là nhà văn sử dụng các phương tiện, biện pháp nghệ thuật để tái hiện thế giới tâm lí phong phú, phức tạp của con người trong tác phẩm của mình.
Thước đo là tiêu chuẩn đánh giá sự vật, hiện tượng nào đó.
Tài năng người nghệ sĩ là khả năng sáng tạo nghệ thuật, cơ sở để hình thành phong cách nhà văn.
-> Nhận định trên thừa nhân chân lí trong sáng tạo nghệ thuật: tài năng của người nghệ sĩ không phụ thuộc vào điều anh ta nói mà hãy xem anh ta miêu tả tâm lí nhân vật ra sao? Người nghệ sĩ lớn bao giờ cũng là một bậc thầy trong việc mêu tả tâm lí.
Phân thích trong sự đối sánh
3.1. Giống nhau (2,0 điểm)
Tác giả: Thạch Lam và Nam Cao là những nhà văn xuất sắc có đóng góp lớn cho công cuộc hiện đại hoá văn học nước nhà (giai đoạn đầu thế kỉ XX đến năm 1945)
Cảm hứng sáng tạo: Họ đều hướng tới những số phận bất hạnh trong xã hội cũ bằng trái tim nhân đạo dào dạt, sâu sắc.
Nghệ thuật miêu tả tâm lí:
– Đều tìm đến thể loại truyện ngắn.
– Đều chú trọng đến việc miêu tả tâm lí con người trong hoàn cảnh cụ thể, không quan tâm nhiều đến việc miêu tả yếu tố ngoại hình.
– Ngôn ngữ giản dị, trong sáng, phù hợp với tâm lí nhân vật.
3.2. Khác nhau (7,0 điểm)
Tác giả:
– Thạch Lam là nhà văn thuộc khuynh hướng văn học lãng mạn.
– Nam Cao là nhà văn thuộc khuynh hướng văn học hiện thực phê phán.
Cảm hứng sáng tác:
– Thạch Lam: Cảm thương vô hạn trước những mảnh đời vô danh, vô nghĩa trong xã hội cũ.
– Nam Cao: Thông cảm sâu sắc trước tấn bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng của người tri thức nghèo trong xã hội cũ.
Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của hai nhà văn
* Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật Liên của nhà văn Thạch Lam.
– Tác giả miêu tả cảm xúc, cảm giác mong manh, tinh tế: lúc chiều tàn khi đêm xuống, Liên lắng nghe lòng mình phát hiện những cảm giác mơ hồ không hiểu.
– Sự nhịp nhàng giữa ngoại cảnh và tâm hồn nhân vật : buổi chiều, cửa hàng hơi tối – đôi mắt Liên ngập đầy dần bóng tối; đêm xuống, tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn- đêm phố huyện yên tĩnh đến mức có thể nghe thấy tiếng hoa bàng rơi khe khẽ; đến đêm khuya, khi tàu đến từ xa, Liên đánh thức An dậy; khi tàu đến rồi vụt qua, Liên dắt tay em đứng lên ngắm nhìn; tàu đi vào trong đêm tối và không còn nghe thấy tiếng xe lửa nữa thì Liên đi nghỉ rồi chìm vào giấc ngủ tĩnh mịch và đầy bóng tối,…
          – Thủ pháp đối lập, thủ pháp được các nhà văn lãng mạn ưa dùng: Đối lập giữa quá khứ rực rỡ và hiện tại buồn chán của Liên; đối lập giữa cái thoáng qua là đoàn tàu thì rực rỡ, tráng lệ và cái hiện tại là bóng tối thì bền vững.
– Lựa chọn hệ thống hình ảnh thi vị nhẹ nhàng, giàu sức gợi, câu văn có nhịp điệu êm mượt, góp phần làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, nhạy cảm của nhân vật.
* Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật Hộ của nhà văn Nam Cao:
– Nam Cao miêu tả rất sâu sắc những giằng xé trong tâm trạng người trí thức nghèo:
+ Hộ có khát vọng cao đẹp nhưng không thể thực hiện khát vọng ấy. Vì thế Hộ rất khổ tâm: Nam Cao đã đi sâu miêu tả thế giới tâm lí đau đớn của Hộ khi không làm gì được để nâng cao giá trị cuộc sống của mình: xấu hổ, đau đớn,…mắng mình là thằng khốn nạn, đê tiện. Khi biết mình không thể đạt được hoài bão vì gánh nặng cơm áo ghì sát đất, những cái tên sau mới trồi ra rực rỡ hơn thì Hộ trở nên thay đổi tâm tính: cau có, gắt gỏng, bực bội. Hộ nhận ra mình đã hỏng, không thể cứu vãn…
+ Hộ không thể lựa chọn dứt khoát giữa nghệ thuật và tình thương. Dám hi sinh nghệ thuật vì tình thương, sống cho tình thương nhưng giấc mơ có một tác phẩm có giá trị cứ âm ỉ, giày vò Hộ. Điều ấy dẫn anh đến bi kịch thứ hai. Hộ chà đạp lên lẽ sống, tình thương rồi lại ân hận vì điều đó. Anh rơi vào bế tắc.
        – Nam Cao khéo léo tạo tình huống để đẩy xung đột nội tâm lên đỉnh điểm. Đó là lần Hộ xuống phố đi lĩnh nhuận bút, gặp Trung và Mão, anh lại quên người vợ hiền, đàn con đang đói khát đợi ở nhà… Kết thúc truyện, Nam Cao để cho nhân vật Hộ tự chất vấn lương tâm,… -> Trước sau, Hộ vẫn bảo vệ lẽ sống tình thương. Đây là cảm hứng chủ đạo xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của Nam Cao.
        – Nam Cao linh hoạt trong việc sử dụng ngôn từ để miêu tả nội tâm nhân vật: có khi dùng lời người kể chuyện; có khi dùng lời nhân vật…
     3.3. Lý giải sự khác nhau (0,5 điểm)
– Do hoàn cảnh sống, sở trường của mỗi nhà văn.
– Do yêu cầu của nghệ thuật: không lặp lại người khác.
 
 
ĐỀ SỐ 4
Câu 1. (8,0 điểm)
Nêu những cảm nhận  và suy ngẫm của anh (chị) về ý kiến sau của R.Targore “Nếu bạn đóng cửa với mọi sai lầm, chân lý cũng bị bạn cho đứng ngoài cửa”
Câu 2: (12 điểm)
Bằng kiến thức của anh (chị) về một số tác phẩm có trong chương trình Ngữ văn 11 hãy làm sáng tỏ ý kiến sau của Sê-khốp
“Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà Văn cả…Nếu anh không có giọng riêng,  anh ta khó trở thành nhà văn thực thụ”
———– Hết ———-
 
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

Câu/ý Nội dung Điểm
Câu 1. 1) Đây là dạng đề mở. Thí sinh có quyền tự do trình bày suy nghĩ của mình theo những hướng khác nhau. Tuy nhiên, cần đạt được một số yêu cầu cơ bản sau:
– Về hình thức và kĩ năng
Trước hết, thí sinh cần phải xác định đây là đề nghị luận xã hội. Dạng đề này cho phép thí sinh tự do lựa chọn các kiểu bài và thao tác tạo lập văn bản khác nhau, nhưng phải phù hợp và nhuần nhuyễn. Đồng thời, thí sinh cũng đựoc tự do huy động các chất liệu khác nhau như: chất liệu thuộc tri thức sách vở, tri thức đời sống và những trải nghiệm của riêng mình. Tuy nhiên, vẫn phải xác định rõ vấn đề ở câu này thuộc về thực tế đời sống chứ không phải trong các tác phẩm văn học.
– Về nội dung
Bài làm cần đạt được những nội dung cơ bản sau:
a)      Giải thích câu nói
–                      Sai lầm: những thất bại, ngộ nhận, sai sót trong cuộc sống.
–                      Đóng cửa: Không chấp nhận, thừa nhận.
–                      Chân lý: Những nhận thức đúng đắn, có ý nghĩa lớn lao, quan trọng
ð    Ý kiến của R.Targo muốn khẳng định về ý nghĩa của những sai lầm trong cuộc sống. Việc biết chấp nhận, thừa nhận sai lầm là cách tốt nhất để tìm ra chân lý trong cuộc sống.
b)Bình luận về ý kiến của R.Targo
– Khẳng định ý kiến của R.Tagore là rất sâu sắc. vì:
+ Những chân lý trong cuộc sống thường gắn với những kiến thức phức tạp, những triết lí sâu sắc đòi hỏi một quá trình tư duy nghiền ngẫm dài nên không dễ gì để tìm ra chân lý. Việc mắc sai lầm trong quá trình đi tìm chân lí là điều khó tránh khỏi.
+ Sau mỗi lần thất bại nếu biết phân tích, tìm nguyên nhân, tìm cách khắc phục thì con người sẽ rút ra được những bài học, kinh nghiệm quý báu để có thể thành công trong những lần sau.
+ Biết đối diện và vượt qua những sai lầm con người sẽ trở nên bản lĩnh, giàu kinh nghiệm sống. Đây là điều kiện quan trọng để có thể tìm được những chân lý có giá trị.
+ Mọi chân lý đều có tính tương đối, đến một thời điểm nảo đó sẽ trở nên lạc hậu hoặc không còn phù hợp vì vậy cần xác định tâm lí dám chấp nhận và vượt qua sai lầm thì con người mới có thể vượt qua chính mình tìm ra những chân lý mới.
Trong quá trình bình luận học sinh cần đưa ra các dẫn chứng xác đáng, phù hợp để chứng minh.
b)      Bài học
–                       Bài học về nhận thức: cần nhận thức được sai lầm, ngộ nhận là điều bình thường trong cuộc sống. Mắc sai lầm không có gì đáng xấu hổ mà điều quan trọng là cần rút kinh nghiệm để thành công. Mỗi người cần xác định tâm lý vững vàng để dám chấp nhận và vượt qua sai lầm của bản thân tránh rơi và tâm lí bi quan, hụt hẫng, sợ đối mặt với sai lầm.
–                      Bài học về hành động: Sau mỗi lần mắc sai lầm cần nghiền ngẫm, phân tích để xem mắc sai lầm ở đâu và tìm cách khắc phục. Cần mạnh mẽ và bản lĩnh để vượt qua sai lầm.
Phần liên hệ bản thân: khuyến khích những cảm xúc chân thành, những câu chuyện cảm động của bản thân học sinh
2) Là dạng đề mở, nên người chấm cũng cần có cái nhìn “mở”. Nghĩa là cần đón nhận nhiều quan điểm khác nhau, nhiều lối nghĩ khác nhau, nhiều lối viết khác nhau, nhiều thể loại và văn phong khác nhau… Không nên câu nệ trong đánh giá.
 
8 điểm
Câu 2: Thí sinh có quyền triển khai bài làm của mình theo những hướng và các cách khác nhau. Tuy nhiên, bài làm cần đạt được một số yêu cầu cơ bản sau:
– Về hình thức và kĩ năng (2,0 điểm)
Thí sinh cần xác định đây là kiểu bài lý luận văn học để triển khai bài làm đúng kiểu văn bản. Thí sinh cần phát huy đồng thời  kiến thức lí luận văn học và kĩ năng phân tích tác phẩm văn học để làm sáng rõ cho luận đề.
– Về nội dung (10,0 điểm)
Bài làm cần đạt được hai nội dung căn bản sau:
Mở bài:
Dẫn dắt để giới thiệu được luận đề
Thân bài:
1/ Giải thích ý kiến:
– Lối đi riêng: Hướng khai thác, phản ánh đời sống in đậm dấu ấn cá nhân của mỗi một tác giả. Có thể là nét riêng trong phạm vi đề tài, chủ đề, cách tiếp cận, cái nhìn riêng biệt…..
– Giọng điệu riêng: Giọng điệu là một yếu tố quan trọng trong việc xác định phong cách của một tác giả. Một nhà văn muốn có phong cách riêng nhất thiết phải có một “giọng điệu” riêng. Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” [1] thì“Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò rất lớn tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc.”
-> Ý kiến của Sê-khốp thực chất bàn về phong cách nghệ thuật với các cấp độ khác nhau. Để trở thành một nhà văn, người cầm bút cần tìm ra cho mình một hướng tiếp cận, khai thác, phản ánh đời sống một cách độc đáo, còn để trở thành một nhà văn tài năng, người cầm bút cần tạo ra cho mình một giọng điệu riêng không lẫn với bất cứ nhà văn nào khác.
2/ Bình luận
            *  Khẳng định ý kiến trên là hoàn toàn xác đáng, sâu sắc và đúng đắn.
*Chứng minh bằng kiến thức lý luận văn học:
Học sinh cần huy động kiến thức lý luận về phong cách nghệ thuật để nhận thấy điều không thể thiếu với mỗi nhà văn chính là phong cách nghệ thuật.
+ Phong cách nghệ thuật là những nét độc đáo trong cả nội dung và hình thức nghệ thuật của một tác phẩm. Với một tác giả, phong cách tạo nên từ sự lặp lại tương đối liên tục của các  nét độc đáo này.
+ Phong cách nghệ thuật thể hiện ở cái nhìn, phạm vi đề tài, chủ đề, các biện pháp nghệ thuật, giọng điệu…
+ Vai trò của phong cách: Làm nên sức sống cho tác phẩm và khẳng định tài năng của tác giả.
* Chứng minh bằng kiến thức văn học
Học sinh có quyền lựa chọn những tác phẩm văn xuôi đã học để chứng minh trong đó cần tập trung làm rõ:
– Lối đi riêng của các tác giả: vd Thạch Lam chọn sự giao thoa giữa hiện thực và lãng mạn, tự sự và trữ tình; Nguyễn Tuân luôn khai thác đời sống ở phương diện văn hóa thẩm mĩ: Nam Cao luôn khai thác người nông dân trong mối quan hệ tính cách- hoàn cảnh để làm bật lên nhân phẩm…
– Giọng điệu riêng của các tác giả: VD Thạch Lam luôn có giọng nhỏ nhẹ, thâm trầm, thấm đẫm chất thơ; Vũ Trọng Phụng luôn có giọng đả kích, châm biếm, sâu cay; Nam Cao có sự hòa trộn giọng điệu để tác phẩm có tính đa thanh, đa giọng….
Kết bài: Khẳng định  ý nghĩa, giá trị của phong cách nghệ thuật
12 điểm

    
 
 
ĐỀ SỐ 5
Câu 1: ( 8 điểm).
Suy nghĩ của anh (chị) về vấn đề đặt ra trong đoạn thơ sau:
“Người chìa tay và xin con một đồng.
Lần thứ nhất con hãy tặng người ấy hai đồng.
Lần thứ hai hãy biếu họ một đồng.
Lần thứ ba con phải biết lắc đầu.
Và đến lần thứ tư, con hãy im lặng, bước đi.”
(“Gửi con” – Bùi Nguyễn Trường Kiên)
 
Câu 2. ( 12 điểm ).
              “Đọc một câu thơ hay, người ta không thấy câu thơ, chỉ còn thấy tình người trong đó”. (Tố Hữu)
Bằng những hiểu biết về Thơ mới, anh/chị hãy trình bày ý kiến của mình về quan niệm trên.
…………….Hết…………………
GỢI Ý:
 
Câu 1(8 điểm)
I. Yêu cầu về kĩ năng.
– Biết cách làm bài nghị luận xã hội, bố cục mạch lạc, rõ ràng, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng cụ thể, sinh động, văn giàu cảm xúc, không mắc lỗi về chính tả, dùng từ, diễn đạt.
II. Yêu cầu về kiến thức.
– Hiểu và đánh giá, bàn luận  thuyết phục vấn đề mà đề bài nêu ra.
– Học sinh có thể có những kiến giải, đánh giá theo quan điểm riêng của mình song cần lôgic, hợp lí và  đảm bảo những ý sau :
Dẫn dắt, nêu được vấn đề cần nghị luận.
Giải thích:
Qua đoạn thơ, người cha nhắc nhở con về việc giúp đỡ người khác trong cuộc sống. Cần giúp đỡ mọi người song phải biết giới hạn, và đôi khi, từ chối cũng là một cách giúp đỡ.
Bình luận:
+ Giúp đỡ người khác là nghĩa cử cao đẹp, cần thiết trong cuộc sống. Vì trong cuộc sống ai cũng có lúc gặp khó khăn, sự giúp đỡ của người khác có giá trị quý báu, góp phần nâng đỡ cả về vật chất và tinh thần, thắt chặt sợi dây nối kết giữa người với người.
+ Tuy nhiên, đôi khi chúng ta cũng cần học cách từ chối lời đề nghị giúp đỡ. Bởi nếu ta quá dễ dãi, ta dễ bị lợi dụng, bản thân người được giúp đỡ cũng ỷ lại, không chịu tự thân vận động. Khi đó việc làm của ta trở thành “phản tác dụng”, chẳng những không thể giúp người mà còn hại người. Sự từ chối, ban đầu có thể gây mất lòng nhưng mặt khác, đó cũng là cách để người đó chủ động, tích cực phát huy khả năng của bản thân, tự mình tháo gỡ khó khăn, vững vàng hơn trong cuộc sống.
(HS cần chú ý phân tích cách đếm số lượng: lần thứ nhất, lần thứ hai… không nhằm chỉ những con số cụ thể mà nhằm nhấn mạnh tính chất tăng tiến, hành động “chìa tay và xin” lặp lại nhiều lần – Đó là khi người nhận thụ động, lười biếng, chỉ trông chờ vào người khác)
Mở rộng:
+ Khi giúp đỡ cần chân thành, tránh tuyệt đối thái độ ban ơn, khinh rẻ người nhận. (Chú ý các từ: tặng, biếu trong lời thơ)
+ Khi từ chối cũng cần kiên quyết tránh cả nể (lắc đầu, im lặng, bước đi)
Liên hệ bản thân: Học cách giúp đỡ người khác, nhiệt tình, đúng mực để sự giúp đỡ ấy phát huy giá trị tốt đẹp.
(Trong khi làm rõ các ý, cần liên hệ với thực tiễn bằng các dẫn chứng sinh động)
III. Cách cho điểm
– Điểm 7-8: Bài viết nắm chắc vấn đề, trình bày một cách thuyết phục các yêu cầu về kiến thức nêu trên. Có kiến thức xã hội phong phú; hành văn mượt mà; kết cấu mạch lạc, lôgic, lập luận sắc sảo, có những phát hiện tinh tế, sáng tạo. Không vi phạm yêu cầu về kĩ năng.
– Điểm 5-6: Học sinh trình bày một cách tương đối các yêu cầu về kiến thức, biết làm bài nghị luận xã hội. Bố cục bài viết sáng rõ, lôgic, dẫn chứng thuyết phục. Có thể chấp nhận vài lỗi nhỏ.
– Điểm 3-4: Hiểu vấn đề nhưng lập luận chưa chặt chẽ, trình bày được ½ yêu cầu về kiến thức, ý văn chưa sáng, còn vài lỗi về diến đạt.
Câu 2. (12 điểm):
Yêu cầu :
*Về kĩ năng: Làm tốt kiểu bài nghị luận văn học với việc vận dụng kết hợp các thao tác giải thích, phân tích, chứng minh, so sánh, bình luận. Bố cục rõ ràng, hành văn trôi chảy, mượt mà, lí lẽ sắc sảo, không mắc lỗi về chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
* Về kiến thức: Trên cơ sở hiểu biết về Thơ mới, đặc biệt là các tác phẩm trong chương trình Ngữ Văn 11, học sinh có thể có những cách kiến giải khác nhau, song cần đảm bảo các ý chính:
Giải thích:
– “Câu thơ hay”: Là sản phẩm lao động sáng tạo của nhà thơ, có khả năng lay động lòng người, có giá trị tinh thần bền vững, có sức sống mãnh liệt trong lòng độc giả, cũng là hình thức tồn tại của những tư tưởng, tình cảm mà nhà thơ muốn gửi gắm.
– “Đọc”: Là hành động tiếp nhận và thưởng thức của người đọc.
– “Tình người”: Là nội dung tạo nên giá trị đặc trưng của thơ.
=> Quan niệm của Tố Hữu đề cập đến giá trị của thơ từ góc độ của người tiếp nhận: Giá trị của thơ là giá trị của những tư tưởng, tình cảm được biểu hiện trong thơ.
Lí giải:
– Đối tượng của thơ là thế giới tâm hồn, tình cảm của con người. Những cảm xúc, rung động, những suy tư, trăn trở… đều có thể trở thành đối tượng khám phá và thể hiện của thơ.
– Với người làm thơ, bài thơ là phương tiện biểu đạt tình cảm, tư tưởng. Chỉ có cảm xúc chân thành, mãnh liệt mới là cơ sở cho sự ra đời một tác phẩm nghệ thuật chân chính. Cảm xúc càng mãnh liệt, càng thăng hoa thì thơ càng có nhiều khả năng chinh phục, ám ảnh trái tim người đọc.
-Với người đọc thơ, đến với bài thơ là để trải nghiệm một tâm trạng, một cảm xúc và kiếm tìm sự tri âm. Do vậy, khi tìm đến một tác phẩm thơ, người đọc quan tâm nhiều tới cảm xúc, tới tình cảm mà nhà thơ kí thác. Tuy nhiên, nói “không thấy câu thơ” không có nghĩa là câu thơ không tồn tại mà hình thức biểu hiện đó đã đồng nhất với nội dung, trở thành dạng tồn tại của nội dung tình cảm.
Chứng minh bằng việc phân tích một vài dẫn chứng thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới (Chú ý: Học sinh trong quá trình phân tích phải làm nổi bật tiếng nói tình cảm, nội dung cảm xúc được thể hiện trong thơ.)
Đánh giá, mở rộng:         
– Ý  nghĩa của câu nói đối với người làm thơ?
– Ý nghĩa của câu nói đối với người đọc thơ?
-Thơ hay là thơ lay động tâm hồn con người bằng tình cảm song để có thơ hay , người làm thơ bên cạnh sự sâu sắc, mãnh liệt của tình cảm, sự phong phú của cảm xúc cần nghiêm túc, công phu trong lao động nghệ thuật. Đây là hai yếu tố không thể xem nhẹ trong sáng tạo và thưởng thức thơ ca.
 
…………..Hết …………
 
ĐỀ SỐ 6:

Câu 1( 8 đ)
Trong cuốn nhật kí Mãi mãi tuổi hai mươi, Nguyễn Văn Thạc viết: “…thời gian trôi, không bao giờ ngoảnh lại và những gì mất đi không bao giờ người ta còn có. Nhưng thời gian vẫn còn thừa thãi, còn rơi vãi trong tay những người đang than thở”.
Suy nghĩ của anh(chị) về lời tâm sự trên.
Câu 2 (12 điểm)
Trên trang sách, cuộc sống tuyệt vời biết bao nhưng cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn niềm sầu muộn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời”
(Theo Nguyễn Văn Thạc – Mãi mãi tuổi 20)
Anh/chị  hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua một số tác phẩm văn học.
 
 

Câu Nội dung Điểm
Câu 1     Suy nghĩ về ý nghĩa của thời gian, thái độ sống 8,0
  ·                     Giới thiệu vấn  đề nghị luận 1,0
     * Giải thích:
-Nguyễn Văn Thạc chỉ ra quy luật của thời gian và cuộc sống con người: thời gian “Không bao giờ ngoảnh lại” “ những cái mất đi không bao giờ người ta còn có”.
-Thời gian đang bị lãng phí,bị mất đi một cách vô ích -> không được sử dụng, không được trân trọng. Người đang than thở: là những người đang kêu than, thổ lộ nỗi buồn rầu đau khổ của mình.Những người này đã bỏ phí thời gian vào việc kêu than.
-> Khảng định: thời gian rất quý giá nó một đi không trở lại vì thế phải trân trọng và sống thật có ý nghĩa, vượt lên trên những đau buồn, nghịch cảnh để sống có ích hơn.
2,0
·                     Bình luận:
-Đây là ý kiến của một liệt sĩ trẻ đã hiến dâng cuộc đời và tuổi thanh xuân cho cách mạng, cho sự nghiệp cứu nước vĩ đại của nhân dân ta. Anh là biểu tượng của vẻ đẹp lí tưởng và khát vọng sống cống hiến. Chính vì vậy đây là lời tâm sự rất thật, rất đáng trân trọng ở mọi giai đoạn lịch sử nước nhà.
-Con người luôn chạy đua với thời gian bởi thời gian trôi đi là không trở lại,bởi con người ai cũng chỉ được sống môt lần cần phải sống sao cho không khỏi ân hận xót xa vì đã sống hoài sống phí.
-Bên cạnh những niềm hạnh phúc cuộc sống còn luôn chứa đựng những nghịch cảnh, những khó khăn có thể khiến con người phải đau khổ. Chúng ta sẽ cần sự sẻ chia song nếu chúng ta đầu hàng số phận, ngồi kêu than với những khó khăn gặp phải mà không đứng lên làm cho tốt đẹp hơn lúc đó ta đã lãng phí thời gian sống vì sống không có ích, sống hoài, sống phí.
– Phê phán những con người sống ích kỉ, nhút nhát, thiếu ý chí ( nhất là một bộ phận giới trẻ ăn chơi, thiếu lí tưởng ước mơ….)
– Ca ngợi và trân trọng những tấm gương luôn vượt qua nghịch cảnh để sống tốt đẹp hơn, ca ngợi những người làm việc , sống hết mình để thời gian sống trở nên đáng quý vì không chỉ làm cho mình họ đã sống cho cả những người xung quanh.
·                     Lưu ýhọc sinh cần lấy dẫn chứng trong thực tế cuộc sống để chứng minh.
4,0
 
Phương hướng rèn luyện của bản thân.
1,0
Câu 2         Làm sáng tỏ một ý  kiến bàn về văn học. 12,0
  ·                     Giới thiệu vấn  đề nghị luận 1,5
 
·                     Cuộc sống được  đề cập trong văn học luôn có hai mặt: vừa có  những hạnh phúc tuyệt vời vừa có những đau khổ  bất tận, vừa có nụ cười trong sáng vừa có giọt nước mắt cay đắng.
·                     Sở dĩ như vậy vì văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống với tất cả mọi chiều kích của nó.
3,0
 
·                     Học sinh phân tích tác phẩm để chứng minh:
·                     Cuộc sống tuyệt vời với cái đẹp, cái nên thơ chính là những giá trị tốt đẹp của cuộc sống: lòng yêu thương, đức hy sinh, sự rung động trước cái đẹp,…
·                     Cuộc sống bi thảm với niềm sầu muộn và giọt nước mắt chính là những mặt hạn chế, tiêu cực. Đó là cái ác, cái xấu, những mặt trái của con người, cái khốc liệt của chiến tranh, …
Tất cả những điều này đều được phản ánh trong văn học.
·                     Văn học không phản ánh cuộc sống một cách đơn điệu, một chiều mà ở góc nhìn đa chiều. Trong mặt tốt, tích cực có cái tiêu cực, hạn chế.
·                     Cái đẹp mà văn học đem lại không phải cái gì khác hơn là cái đẹp của sự thật đời sống được khám phá một cách nghệ thuật.
6,0
 
·                     Khái quát, đánh giá những vấn đề đã nghị luận.
1,5

 
ĐỀ SỐ 7:
Câu 1 (8 điểm)
Chuyện kể rằng, có một vòng tròn rất hoàn mỹ. Nó rất tự hào về thân hình tròn trĩnh đến từng milimet của mình. Thế nhưng một buổi sáng thức dậy, nó thấy mình bị mất đi một góc lớn hình tam giác. Buồn bực, vòng tròn ta đi tìm mảnh vỡ đó. Vì không còn hoàn hảo nên nó lăn rất chậm. Nó bắt đầu ngợi khen những bông hoa dại đang toả sắc bên đường, nó vui đùa cùng ánh nắng mặt trời, tâm tình cùng sâu bọ… Một ngày kia nó tìm được một mảnh hoàn toàn vừa khít và ghép vào. Nó lăn đi và nhận ra mình đang lăn quá nhanh. Đến nỗi, không kịp nhận ra những bông hoa đang cố mỉm cười với nó. Vòng tròn thấy rằng, cuộc sống khác hẳn đi khi nó lăn quá nhanh. Nó dừng lại, đặt mảnh vỡ bên đường rồi chầm chậm lăn đi.
Hãy bình luận về ý nghĩa triết lí của câu chuyện trên .
Câu 2 (12 điểm):
Sách Lí luận văn học (tập 3, Phương Lựu chủ biên – NXB ĐHSP, 2011) viết:
Phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm chất thẩm mĩ thể hiện trong sáng tác của những nhà văn ưu tú.
Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? hãy làm rõ cách hiểu của mình qua một vài sáng tác (thuộc văn học lãng mạn Việt Nam 1930-1945) của một tác giả mà anh (chị) đã học, đọc thêm.
………………………HẾT…………………….
GỢI Ý
Câu 1 (8 điểm)
YÊU CẦU
Đây là một kiểu đề mở nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh. Học sinh có thể trình bày những suy nghĩ riêng của mình. Tuy nhiên, bài viết cần đảm bảo những yêu cầu sau:
Về hình thức
–  Thí sinh có thể sử dụng các thao tác tạo lập văn bản khác nhau nhưng cần phải phù hợp và nhuần nhuyễn. Đồng thời thí sinh cũng được tự do huy động các chất liệu khác nhau thuộc các lĩnh vực: sách vở, đời sống, hoặc những trải nghiệm của bản thân để làm bài. Tuy nhiên bài làm phải xác định rõ vấn đề thuộc về đời sống – xã hội chứ không phải thuộc về lĩnh vực văn học – nghệ thuật
– Bài viết đúng là bài văn nghị luận xã hội, bố cục rõ ràng, trình bày sạch sẽ; lập luận chặt chẽ, diễn đạt trong sáng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp.
Về nội dung
Bài làm cần đạt được những ý cơ bản sau:
– Khái quát được ý nghĩa triết lí cuả câu chuyện về chiếc vòng tròn:
Chiếc vòng tròn là biểu tượng của sự hoàn hảo. Bài học về cái vòng tròn cho chúng ta thấy một điều tưởng như nghịch lí đó là: đôi khi sự khiếm khuyết thiếu hụt chính là biểu hiện chứng tỏ con người là con người với ý nghĩa đúng đắn, nhân bản nhất. Đây chính là triết lí về con người bất toàn. Chính sự bất toàn là động cơ để con người hoà nhập cùng cộng đồng và vươn tới những giá trị tốt đẹp và ngày một hoàn thiện.
– Bàn luận về triết lí trên: đây là một triết lí khá sâu sắc.
+  Triết lí này đã nhìn nhận con người và đời sống ở góc độ nhân bản, con người bao giờ cũng có phần Con và phần Người, phần ưu điểm và hạn chế, tích cực và tiêu cực. Xét từ góc độ triết học, sự tồn tại của hai mặt đối lập và thống nhất trong cùng một cá thể là một tất yếu.
+ Quá trình sống, học tập, lao động, hoà nhập với cộng đồng của con người là một quá trình học hỏi, đấu tranh, vươn đến sự hoàn thiện. Đó chính là ý nghĩa cuộc sống, ý nghĩa tồn tại của mỗi con người.  .
– Mở rộng, nâng cao vấn đề, liên hệ thức tiễn:
+ Trong cuộc sống, mỗi con người cần biết rõ những hạn chế, khiếm khuyết của mình để khắc phục vươn lên, học hỏi mọi người, hoàn thiện bản thân; mặt khác, trong hành trình đó, con người không nên cầu toàn, không nên đòi hỏi bản thân sự hoàn hảo tuyệt đối, vì đó là điều không thể. Nên biết chấp nhận mình để hoà nhập với cộng đồng.
+ Cần có cách nhìn nhận đánh giá con người và ứng xử theo quan điểm nhân bản: đó là biết đề cao những mặt tích cực, độ lượng, chấp nhận và chia sẻ những mặt hạn chế; giúp đỡ nhau cùng hoàn thiện
Câu chuyện về cái vòng tròn là một thông điệp triết lí về sự tồn tại của con người. Đặt trong thời kì hội nhập và phát triển của xã hội hiện nay, triết lí nhân sinh của câu chuyện là bài học sống và ứng xử sâu sắc với tất cả mọi người. Đối với các bạn trẻ đang ở độ tuổi phát triển và hoàn thiện nhân cách thì triết lí trên càng có giá trị thực tiễn trong hành trang vào đời
Câu 2 (12 điểm)
Về hình thức
Biết cách làm bài văn nghị luận văn học, sử dụng kết hợp các thao tác nghị luận giải quyết một vấn đề văn học theo định hướng yêu cầu của đề bài. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; không mắc lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp.
Về nội dung
Có thể trình bày bằng nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo rõ các ý sau:
Nêu cách hiểu của bản thân về nhận định:
Phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm chất thẩm mĩ thể hiện trong sáng tác của những nhà văn ưu tú.
– Khái niệm phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mỹ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay trong văn học dân tộc
– Trong nhận định trên, khái niệm phong cách được đề cập là phong cách nghệ thuật của một nhà văn, không phải bất cứ nhà văn nào cũng có phong cách. Chỉ có những nhà văn có tài năng, có bản lĩnh (nhà văn ưu tú) mới có được phong cách riêng độc đáo.
– Nhà văn có phong cách nhà văn chính là nhà văn phải đem lại một tiếng nói mới cho văn học, đó là sự độc đáo mà đa dạng, bền vững mà luôn đổi mới. Đặc biệt nó phải có tính chất thẩm mĩ nghĩa là đem lại cho người đọc sự hưởng thụ thẩm mĩ dồi dào. Phong cách không chỉ là dấu hiệu trưởng thành của một nhà văn mà khi đã nở rộ thì nó còn là bằng chứng của một nền văn học đã trưởng thành.
– Phong cách nghệ thuật có cội nguồn từ cá tính sáng tạo của nhà văn. Cá tính sáng toạ klà sự hợp thành của những yếu tố như thế giới quan, tâm lí, khí chất, cá tính sinh hoạt… Phong cách của nhà văn cũng mang dấu ấn của dân tộc và thời đại.
– Có thể nhận ra phong cách của nhà văn trong tác phẩm. Có bao nhiêu yếu tố trong tác phẩm thì có bấy nhiêu chỗ cho phong cách nhà văn thể hiện. Cụ thể:
+ Qua cái nhìn, cách cảm thụ  giàu tính khám phá nghệ thuật đối với cuộc đời
+ Qua giọng điệu riêng, gắn liền với cảm hứng sáng tác
+ Nét riêng trong sự lựa chọn, xử lý đề tài, xác định chủ đề, xác định đối tượng miêu tả…
+ Tính thống nhất, ổn định trong cách sử dụng các phương thức và phương tiện nghệ thuật
Các biểu hiện của phong cách văn học không tồn tại tách rời mà bao hàm lẫn nhau hay tồn tại thông qua nhau. Tất cả tạo thành một nguyên tắc xuyên suốt trong việc xây dựng hình thức nghệ thuật, đem lại cho hiện tượng văn học một tính chỉnh thể toàn vẹn.
Làm rõ cách hiểu của bản thân qua một vài sáng tác (thuộc văn học lãng mạn Việt Nam 1930-1945) của một tác giả đã học, đọc thêm.
Học sinh có thể chọn một vài tác phẩm của một cây bút lãng mạn (thơ hoặc văn xuôi): Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Thạch Lam, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Huy Cận…. Tuy nhiên học sinh phải đảm bảo yêu cầu:
– Tác phẩm, tác giả được chọn để minh hoạ là văn học lãng mạn thuộc giai đoạn 1930-1945.
– Phần minh hoạ phải bám sát vấn đề lí luận đã lí giải, phải làm nổi bật nét độc đáo (cái mới) mà tác giả đem đến cho văn học, nghĩa là cách cảm nhận độc đáo về thế giới và hệ thống bút pháp phù hợp với cách cảm nhận ấy được tác giả thể hiện như thế nào trong tác phẩm.
– Quá trình lấy dẫn chứng, học sinh phải nhìn nhận tác phẩm theo nguyên tắc chỉnh thể (vì các biểu hiện của phong cách văn học không tồn tại tách rời mà bao hàm lẫn nhau hay tồn tại thông qua nhau).
ĐỀ SỐ 8:
Câu 1 (8 điểm):
Suy nghĩ của anh (chị) về vấn đề đặt ra trong bài thơ sau:
                     VÔ ĐỀ
                                                 Pimen Panchenko
“Đừng đố kị cũng đừng hợm hĩnh
Bạn tôi ơi hãy làm chủ bản thân
Tự dưới thấp hãy nhìn thông cao vợi
Nhìn mây trời
Chứ không phải thế nhân
 
Còn nếu bạn giữa vinh quang chói lọi
Hãy tự mình vượt qua nó bạn ơi
Tự trên cao hãy nhìn xuống suối
Xuống cỏ hoa
Chứ không phải con người.”
Câu 2 (12 điểm):
Về thơ, Nguyễn Công Trứ tâm sự: “Trót nợ cùng thơ phải chuốt lời”, còn Tố Hữu lại khẳng định rằng “Đọc một câu thơ hay, người ta không thấy câu thơ, chỉ còn thấy tình người trong đó”
Bằng việc phân tích bài thơ “Vội vàng” (Xuân Diệu), anh (chị) hãy trình bày ý kiến của mình về những quan niệm trên.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
Câu 1:
Nội dung bài thơ và vấn đề đặt ra:
– Một số khái niệm:
+ Đố kị: cảm thấy khó chịu, ghét bỏ người có thể hơn mình ở một điều gì đó.
+ Hợm hĩnh: lên mặt, kiêu căng vì cho rằng mình có cái hơn hẳn người khác (tiền của, địa vị…)
+ Làm chủ: khả năng chi phối, điều khiển, quản lý chính bản thân mình.
– Nội dung lời khuyên thứ nhất: không nên đố kị với những người tạm thời hơn mình, cần biết tự chủ bằng bản lĩnh để tạo cho tâm hồn sự thanh thản, an nhiên.
– Nội dung lời khuyên thứ 2: không nên tự đắc với những gì mình đạt được. Chỉ nên xem nó như một nỗ lực, cố gắng để dâng hiến trong muôn vàn những sự dâng hiến khác của bao người.
Lý giải:
– Không nên đố kị với những người tạm thời hơn mình vì sự đố kị khiến tâm hồn ta vẩn đục, nhân cách ta trở nên tầm thường và mất đi sự tỉnh táo, sáng suốt. Cần xác định mục tiêu sống của mình và dồn tâm sức để thực hiện mục tiêu ấy. Nếu có thể, hãy cố gắng phân tích nguyên nhân thành công của người khác để tự rút kinh nghiệm cho mình.
– Không nên chìm đắm, tự thỏa mãn trong vinh quang vì vinh quang, thành công chỉ có ý nghĩa nhất thời, không phải là điều vĩnh viễn tồn tại. Nếu chìm đắm trong vinh quang, tự mãn với thành công là ta đã dừng lại cuộc hành trình đáng ra cần tiếp tục, đã tự giới hạn phạm vi thành công của chính mình. Cần nhìn rộng ra xung quanh để thấy không chỉ thành công của mình mà thấy cả những nỗ lực, cố gắng của người khác.
Bàn luận, mở rộng:
– Cần phân biệt thái độ đố kị, tị hiềm với sự so sánh trên cơ sở ý thức thi đua để phấn đấu vươn lên; cần phân biệt thái độ tự mãn, tự kiêu, ngủ quên trên chiến thắng với niềm tự hào chính đáng.
– Đôi khi, sự đố kị (ở một mức độ nhất định) có thể là động lực để phấn đấu, niềm tự hào khi thấy mình hơn người khác cũng là cảm giác không nhất thiết phải triệt tiêu hoàn toàn bởi nó giúp ta có được sự cân bằng về tâm lý sau rất nhiều cố gắng, nỗ lực.
– Tuy nhiên, để mọi cảm xúc không trở nên thái quá, để cách ứng xử có sự chừng mực, hợp lý, rất cần bản lĩnh, sự hiểu biết để kiểm soát, điều chỉnh bản thân.
Câu 2:
Tìm hiểu vấn đề (6 đ):
– Quan niệm của Nguyễn Công Trứ:
+ Nội dung quan niệm:“nợ” vừa là duyên nợ, vừa là trách nhiệm của người cầm bút với thơ ca; “chuốt” là chỉnh sửa, lựa chọn một cách công phu sao cho đạt tiêu chuẩn cao nhất về mặt thẩm mĩ. Từ ý nghĩa cụ thể của từ dùng, có thể thấy NCT đã đặt ra yêu cầu về trách nhiệm của nghệ sĩ trong lao động thơ ca.
+ Cơ sở quan niệm của NCT: lao động thơ là lao động nghệ thuật – nó đòi hỏi công phu, tâm huyết và sự sáng tạo. Sáng tạo sẽ đem đến cái mới, công phu tâm huyết sẽ tạo nên sự hoàn hảo và chiều sâu. Văn chương tồn tại bởi nội dung tư tưởng song tồn tại bằng ngôn từ nghệ thuật. Nếu chất liệu ngôn từ không được lựa chọn và gọt giũa, sức biểu đạt của nó kém đi sẽ khiến tư tưởng, tâm huyết của nghệ sĩ không thể hiện được trọn vẹn, tính nghệ thuật của tác phẩm giảm sút, sức hấp dẫn nghệ thuật kém sẽ khiến những giá trị còn lại dù có cũng khó phát huy tác dụng. Thơ ca lại càng đòi hỏi điều này vì nó có những đặc trưng mang tính loại biệt (trong phạm vi dung lượng giới hạn, thơ cần biểu đạt một cách sâu sắc, tinh tế tư tưởng, tình cảm, khát vọng bằng hình tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mĩ và có sức mê hoặc mạnh mẽ). “Chuốt lời” vì thế sẽ là sự thể hiện của tài năng, cũng là sự thể hiện trách nhiệm của nhà thơ với thơ và với người đọc.
– Quan niệm của Tố Hữu:
+ Nội dung quan niệm: “câu thơ” là sản phẩm lao động sáng tạo của nhà thơ, cũng là hình thức tồn tại của những tư tưởng tình cảm mà nhà thơ gửi gắm. “Đọc” là hành động tiếp nhận và thưởng thức của người đọc. “Tình người” là nội dung tạo nên giá trị đặc trưng của thơ – là nội dung tình cảm, cảm xúc của thơ. Từ ý nghĩa cụ thể của từ ngữ, có thể hiểu ý kiến của TH đề cập đến giá trị của thơ từ góc nhìn của người thưởng thức, tiếp nhận thơ: giá trị của thơ là giá trị của những tư tưởng tình cảm được biểu hiện trong thơ. Tình cảm, cảm xúc càng sâu sắc mạnh mẽ, càng lớn lao đẹp đẽ sẽ càng khiến thơ lay động lòng người.
+ Cơ sở quan niệm của TH: đặc trưng của thơ là thể hiện tư tưởng qua sự rung động của tâm hồn, qua các cung bậc của tình cảm. Với người làm thơ, bài thơ là phương tiện biểu đạt tình cảm, tư tưởng. Với người đọc thơ, đến với bài thơ là để trải nghiệm một tâm trạng, một cảm xúc và tìm một sự đồng cảm sẻ chia về mặt tình cảm với nhà thơ – sẻ chia những điều đang làm mình trăn trở. Vì thế, khi đến với một bài thơ, người đọc chú ý tới tình cảm, cảm xúc chứ ít chú ý tới hình thức biểu đạt cảm xúc ấy (vốn là công việc của nhà nghiên cứu). Tuy nhiên, nói “không thấy câu thơ” không có nghĩa là “câu thơ” không tồn tại mà là “câu thơ” đã đồng nhất với tình người, là nội dung cảm xúc đã lặn vào trong chính cái hình thức biểu đạt và hình thức trở thành dạng tồn tại, hình thức tồn tại của tình cảm.
– Đánh giá và đề xuất ý kiến: hai ý kiến không hề mâu thuẫn mà là sự bổ sung để mang đến một nhận thức tương đối toàn diện về thơ. Từ hai ý kiến này có thể xác định: thơ hay là thơ lay động tâm hồn con người bằng cảm xúc, tình cảm. Song để có thơ hay, nhà thơ bên cạnh sự sâu sắc của tình cảm, sự phong phú của cảm xúc cần nghiêm túc trong lao động nghệ thuật mà trước hết là lựa chọn, chỉnh sửa và sáng tạo trong sử dụng ngôn ngữ.
Phân tích bài thơ (6 đ):
2.1. Nội dung cảm xúc: là sự thể hiện một tình yêu cuộc sống mãnh liệt
– Niềm say mê cuộc sống khiến XD phát hiện ra một thiên đường trên mặt đất- một thiên đường tràn đầy xuân sắc và vô cùng hấp dẫn.
– Yêu cuộc sống, nhà thơ cũng ý thức sâu sắc về giá trị cuộc sống nên khát khao đảo lộn quy luật cuộc sống, ngăn cản bước đi của thời gian để gìn giữ những vẻ đẹp của sự sống.
– Cũng vì niềm say mê với cuộc sống nên nhà thơ mới hốt hoảng lo âu, thậm chí oán giận thời gian trôi chảy vô tình.
– Tình yêu cuộc sống đã tiếp thêm sức mạnh để nhà thơ không buông trôi theo sự trôi chảy của thời gian, sự phôi pha tàn úa của sự sống mà tăng cường độ sống để sống mạnh mẽ, trọn vẹn và tận độ bằng việc giao cảm và hưởng thụ sự sống.
2.2. Hình thức biểu đạt:
– Lời thơ là lời nói với rất nhiều dấu hiệu ngữ pháp (sử dụng hư từ, hô ngữ…) và hình thức đối thoại giúp nhà thơ thể hiện trực tiếp con người cá nhân, giọng điệu cá nhân mở đường cho sự thổ lộ giãi bày cảm xúc một cách tự nhiên và nồng nhiệt.
– Ngôn ngữ rất giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, đặc biệt rất trẻ trung, hiện đại và đầy táo bạo giúp tác giả chuyển tải bức thông điệp tinh thần một cách độc đáo, gây ấn tượng mạnh mẽ.
 
 
ĐỀ SỐ 9:
    
Câu hỏi 1: ( 8 điểm)
 
Người cậy ở tâm, cây nương ở rễ.” ( Ngạn ngữ Trung Hoa)
 
Trình bày suy nghĩ của anh/ chị về quan niệm trên.
 
            Câu hỏi 2: ( 12 điểm)
 
Nhà văn I.X Tuocghenhev khẳng định:
 
Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác.
 
Anh/ chị hiểu quan niệm trên như thế nào?
Phân tích truyện ngắn “ Hai đứa trẻ” của Thạch Lam để làm sáng tỏ quan niệm đó.
 

              ĐÁP ÁN
Câu hỏi 1
I. YÊU CẦU VỀ KỸ NĂNG
Học sinh biết vận dụng kết hợp các thao tác nghị luận để làm bài văn nghị luận xã hội.
– Tổ chức bài viết rõ ràng, lập luận bài viết chặt chẽ, diễn đạt sáng rõ, lưu loát.
II. YÊU CẦU VỀ NỘI DUNG
Hướng dẫn chấm chỉ nêu những định hướng chính. Học sinh có thể có nhiều cách sắp xếp và tổ chức bài làm theo nhiều hướng khác nhau nhưng cần đáp ứng những kiến thức cơ bản sau:
1. Giải thích quan niệm – Người cậy ở tâm, cây nương ở rễ.
– Câu ngạn ngữ có cách diễn đạt ngắn gọn, súc tích, cân xứng, giàu hình ảnh. Một ý thể hiện “người”, ý còn lại thể hiện “cây”, cây và người có mối liên quan. Làm người thì nhờ ở tấm lòng (hiểu rộng là đạo đức, nhân cách), loài cây thì dựa vào gốc rễ. Câu ngạn ngữ đã khẳng định phẩm chất cần thiết phải có để làm nền tảng tạo nên giá trị của con người – đó là tấm lòng, đạo đức, nhân cách cao đẹp. Ở cây cối, phần quý nhất chính là phần gốc rễ của nó. Cây chỉ có thể sống được, toả bóng mát, cho đời hương hoa quả ngọt khi có bộ rễ vững chắc; con người chỉ đẹp, chỉ thể hiện được giá trị của mình khi giữ được cái nền tảng tâm hồn cao quý.
2. Suy nghĩ về quan niệm:
–  Câu ngạn ngữ là lời nhận xét đúng đắn về giá trị con người thông qua đối chiếu giá trị một thực thể trong thiên nhiên. Từ đó mà mở ra một quan niệm sống tích cực – làm người là phải biết nâng niu, giữ gìn tấm lòng, đạo đức nhân cách tốt đẹp. Trong cuộc sống không có con người nào được đồng loại của mình ngợi ca mà lại thiếu đi cái tâm cao quý, không ai đi gửi gắm niềm tin vào một con người có nhân cách không ra gì.
– Đạo đức, nhân cách cao đẹp là những phẩm chất không thể thiếu để làm nên giá trị của một con người nhưng nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận những yếu tố khác như tài năng chẳng hạn. Nhưng nếu cho rằng tài năng sẽ làm nên giá trị quyết định của một con người e chưa thỏa đáng, bởi tài năng chỉ là lá cành, quả ngọt còn tấm lòng, đạo đức mới là nền tảng vững bền để lá quả kia nương theo, nhờ vào mà đâm chồi nẩy lộc.
– Học sinh biết đưa ra những ví dụ cụ thể để chứng minh được sự đúng đắn của vấn đề.
3. Bài học nhận thức và hành động:
– Từ việc nhận thức về tính đúng đắn của lời khuyên trên, học sinh biết rút ra bài học thiết thực cho bản thân – bên cạnh việc học tập tiếp thu kiến thức khoa học, phải không ngừng rèn luyện đạo đức, nhân cách sống để trở thành người hữu ích.
 
 
 ĐÁP ÁN
       Câu hỏi 2
I. YÊU CẦU VỀ KỸ NĂNG
Học sinh biết vận dụng kết hợp các thao tác nghị luận (đặc biệt là các thao tác giải thích, phân tích, chứng minh) để làm bài văn nghị luận văn học.
– Tổ chức bài viết rõ ràng, lập luận bài viết chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, có chất văn.
 
II. YÊU CẦU VỀ NỘI DUNG
Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải đảm bảo các nội dung cơ bản sau:
1.                      Giải thích quan niệm của I.X Tuocghenhev :
–   Ý tưởng của I.X Tuocghenhev khá rõ. Nhà văn khẳng định yếu tố quan trọng làm nên tài năng của một nhà văn là cách viết, cách thể hiện riêng đầy cá tính sáng tạo (mà I.X Tuocghenhev đã diễn đạt đầy ấn tượng là  tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác). Ở quan niệm của mình, I.X Tuocghenhev  đã đề cao phong cách nghệ thuật của người viết văn (tính độc đáo trong sáng tạo nghệ thuật của nhà văn gắn liền với một quan niệm nhất định về con người và cuộc đời, kéo dài thành vệt đậm đầy cảm hứng trong chuỗi sáng tác của họ).
2.                      Chứng minh cái giọng riêng biệt (phong cách) của Thạch Lam qua truyện ngắn “Hai đứa trẻ”.
– Thể hiện ở việc chọn loại truyện “không có chuyện” (không giàu sự tình, không thiên về cốt truyện, hành động mà chỉ đi sâu vào tâm trạng, không khí). Cốt truyện “Hai đứa trẻ” (như rất nhiều truyện ngắn khác của Thạch Lam) nhẹ nhàng, gần như không có cốt truyện nhưng khó quên. Dưới ngòi bút của Thạch Lam, con người, nhịp điệu cuộc sống hiện ra đều đều không thay đổi, không có gì khiến bạn đọc phải hồi hộp chờ đợi. Tất cả thoang thoảng, man mác và vẩn vơ theo tâm trạng nhân vật Liên. Chính điều đó lại làm nên nét riêng của tác phẩm.
– Thể hiện ở tài miêu tả những nét tinh tế, nhẹ nhàng của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm: tâm trạng của nhân vật Liên trước cảnh chiều về, đêm xuống, canh khuya (lúc chuyến tàu đêm băng qua phố huyện nghèo). Liên vừa nhận ra nét nên thơ, thân thuộc lẫn nét lặng lẽ, man mác buồn của cảnh chiều và đêm; mong ngóng chuyến tàu đổ xuống bao khát khao về ảnh hình một chút thế giới trong mơ tưởng…(học sinh biết so sánh Thạch Lam với Nam Cao và Nguyễn Tuân, hai tác giả cùng thời với Thạch Lam cũng rất thành công trong việc miêu tả tâm lí nhân vật, từ đó làm nổi bật lên nét riêng của Thạch Lam ở phương diện này).
– Thể hiện ở những câu văn và những miêu tả giàu chất thơ: Thạch Lam là con người vừa hiện thực vừa lãng mạn. Chất thi vị của đời sống có mặt trong “Hai đứa trẻ” qua các trang viết về chiều tà, đêm tối.
– Thể hiện ở những nhân vật không có sự phức tạp của nội tâm, cũng dường như không có tính cách gì sắc nét không phân tuyến chính diện phản diện như các tác phẩm của những nhà văn cùng thời, mà là những con người đang lặng lẽ đắm chìm trong tăm tối, buồn bã với những tâm trạng không rõ ràng, những ranh giới tình cảm mong manh. Liên trong “Hai đứa trẻ” là một nhân vật như vậy.
3.                      Đánh giá
– Quan niệm của I.X Tuocghenhev là một quan niệm hoàn toàn đúng đắn về mặt lý thuyết và thực hành sáng tạo văn học. Quan niệm trên phù hợp với quy luật muôn đời của hoạt động nghệ thuật mà Nam Cao tâm đắc: người nghệ sĩ phải “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”.
 
 
 
 
 

 
ĐỀ SỐ 10
Câu 1 (8 điểm)
Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý nghĩa được gợi ra từ bài thơ sau:
“ Một phù thủy
Mở quán hàng nho nhỏ
“Mời vào đây
Ai mua gì cũng có”
Tôi là khách đầu tiên
Từ bên trong
Phù thủy ló ra nhìn
“Anh muốn gì”
“Tôi muốn mua tình yêu
Mua hạnh phúc, sự bình yên, tình bạn…”
“Hàng chúng tôi chỉ bán cây non
Còn quả chín anh phải trồng,
Không bán”!
( “Quán hàng phù thủy” – K.Badijađrô – Thái Bá Tân dịch)
Câu 2 (12 điểm)
Giáo sư Lê Đình Kỵ cho rằng: “Tác phẩm nghệ thuật đạt tới cái đẹp theo nghĩa: mang được sự thật sâu xa của đời sống bên ngoài, đồng thời mang được sự thật tâm tình của con người”
Bằng những hiểu biết về sự nghiệp sáng tác của Nam Cao,  anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
Câu 1
YÊU CẦU VỀ KIẾN THỨC
Thí sinh có thể bộc lộ quan điểm của mình theo những cách khác nhau nhưng cần chân thành, hợp lý, chặt chẽ và thuyết phục. Về cơ bản, cần đạt được một số ý  chính sau:
Phân tích sơ lược bài thơ ( 1.5đ)
– Bài thơ là cuộc đối thoại giữa nhân vật phù thủy và nhân vật Tôi. Phù  thủy đại diện cho sức mạnh quyền năng biến hóa thần kì còn nhân vật Tôi là người khách đầu tiên đang khao khát muốn mua được những thứ mình cần là tình yêu, hạnh phúc, sự bình yên, tình bạn…tại quán hàng mà như phù thủy nói là  “mua gì cũng có”.
– Tưởng như với sức mạnh của phù thủy, nhu cầu của nhân vật Tôi được đáp ứng nhưng cuối cùng người khách đầu tiên ấy đã không được như mong muốn, không phải vì người khách không có tiền hay thứ gì ngang giá để đổi mà là cửa hàng không đáp ứng được
-> Qua đó, bài thơ gửi gắm một triết lí sâu sắc  về vai trò của con người trong việc tạo dựng và vun trồng hạnh phúc cũng như  những điều tốt đẹp của chính bản thân mình.
Bàn luận, mở rộng về ý nghĩa gợi ra từ bài thơ (4.5 đ)
Con người luôn mong muốn có được những điều tốt đẹp, là tình bạn, tình yêu, hạnh phúc, sự bình yên…Nhưng con người thường mong chờ hạnh phúc tự đến hoặc có được một cách dễ dàng
Thế nhưng, hạnh phúc hay những điều tốt đẹp đều không thể mua bán mà chỉ có được khi con người không ngừng nỗ lực, cố găng, tự xây đắp, cũng giống như cây hạnh phúc, cây tình bạn, cây tình yêu…không thể có được ngay cả ở nơi có sự thần kì ngự trị.
Tất cả những giá trị này muốn có được đều phải có thời gian, công sức, đều phải xuất phát từ tình cảm chân thành, không vụ lợi, toan tính….
Bài học nhân thức và hành động ( 2đ)
–  Tự ý thức được vai trò của bản thân trong việc tự tạo ra hạnh phúc và những giá trị tốt đẹp cho chính mình
– Từ đó, không ngừng nỗ lực xây dựng hạnh phúc cho mình bằng những hành động cụ thệ ( Đặc biệt là với thế hệ trẻ)
Câu 2:
YÊU CẦU VỀ KIẾN THỨC
Bài viết có thể triển khai theo nhiều cách nhưng cần đảm bảo những ý cơ bản sau:
Đặt vấn đề ( 0.5đ)
Dẫn dắt và giới thiệu nhận định cần làm sáng tỏ.
Giải quyết vấn đề ( 11đ)
Giải thích: ( 1.5 đ)
“..mang được sự thật sâu xa của đời sống bên ngoài”: Phản ánh được chân thực hiện thực khách quan của đời sống, không phải chỉ là bề ngoài mà ở bề sâu.
“…mang được sự thật tâm tình của con người”: Phản ảnh được chân thực thế giới tâm hồn, tình cảm của con người
Tác phẩm nghệ thuật đạt tới cái đẹp là những tác phẩm phàn ảnh được một cách chân thực, sâu sắc hiện thực khách quan cũng như khám phá được thế giới tâm hồn, tình cảm của con người.
Tiêu chí quan trọng để đánh giá tác phẩm văn học có giá trị
 
Phân tích, chứng minh ( 7.5đ)
* Cơ sở lí luận
Bản chất của văn học là phản ảnh hiện thực khách quan và thể hiện tư tưởng, tình cảm của người nghệ sĩ. “Nhà văn là người thư kí trung thành cùa thời đại”( Banlzac)
Văn học là nhân học”, là khoa học về con người, khám phá con người ở phương diện tâm hồn, tình cảm.. Nội tâm của con người với những trạng thái cảm xúc đa dạng, phức tạp chính  là đích hướng tới của văn học “ Thơ là người thư kí trung thành của những trái tim”
-> Thước đo giá trị của một tác phẩm văn học là ở sự chân thực, sâu sắc trong phản ánh đời sống với những qui luật khách quan và thế giới nội tâm của con người.
 Lưu ý: Ở phần này, học sinh cẩn đưa ra một số dẫn chứng thật ngắn gọn để chứng minh cho cơ sở lí luận
* Chứng minh, làm sáng tỏ nhận định qua sự nghiệp sáng tác của Nam Cao
Về quan niệm sáng tác: Nhà văn phê phán, xem nhẹ thứ văn chương nhạt nhẽo, diễn một vài ý rất nhẹ, rất nông, quấy loàng trong một thứ văn chương bằng phẳng và quá ư dễ dãi -> Từ quan niệm này, Nam Cao đựơc xem là nhà văn tiêu biểu của chủ nghĩa hiện thực với khả năng phản ánh chân thực hiện thực của đời sống khách quan và khám phá bề sâu tâm trạng con ngươi.
Về thực tiễn sáng tác
Cần phân tích được sự đóng góp của những tác phẩm của Nam Cao trên hai phương diện
Khả năng phản ánh bề sâu hiện thực khách quan với những qui luật của nó, cho người đọc một cái nhìn sâu sắc về đời sống. (Ví dụ: “Chí Phèo”,“Sống mòn”..)
-> Nam Cao không chỉ phản ánh mà còn phân tích, lí giải hiện thực ấy và chỉ ra những qui luật.
Khả năng khám phá, phân tích tâm lí của con người.
-> Bậc thầy của nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật.
( Ví dụ “Chí Phèo:, “Đời thừa”, “Sống mòn”..)
(HS cần phân tích cụ thể, chi tiết các dẫn chứng đưa ra nhằm làm sáng tỏ luận điểm)
Đánh giá chung (2.0đ)
–  Với khả năng phản ánh hiên thực khách quan và tâm trạng con người, những sáng tác của Nam Cao đã khẳng định được sức sống lâu bền của mình
–  Nhận định của GS Lê Đình Kỵ có ý nghĩa to lớn trong định hướng sáng tác và tiếp nhận, là một tiêu chí, thước đo giá trị của văn học.
3.Kết thúc vấn đề ( 0.5đ)
Khẳng định lại vần đề  cần làm sáng tỏ
 
ĐỀ SỐ 11:
 
Câu 1: (8 điểm)
Có  người cho : “Ta hãy học theo cách của dòng sông nhìn thấy núi thì đi đường vòng”, nhưng người khác lại cho “Trong rừng có rất nhiều lối di, ta chọn lối đi chưa có dấu chân người”.
Anh/ chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về những ý kiến trên.
Câu 2: ( 12 điểm)
Lamáctin- nhà thơ Pháp- tâm sự : “Thế nào là thơ? Đó không phải chỉ là một nghệ thuật, đó là sự giải thoát của lòng tôi”.
Anh/ chị có suy nghĩ gì về lời tâm sự trên? Hãy dựa vào những hiểu biết về bài thơ Vội vàng ( Xuân Diệu) để làm sáng tỏ những suy nghĩ của mình.
 
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
 
Câu 1 (8điểm)
A- Yêu cầu
I- Kiến thức
Học sinh có thể làm theo những cách khác nhau, nhưng về cơ bản phải làm rõ:
– Giải thích:
+ Dòng sông khi gặp núi thì đi đường vòng: con người khi gặp khó khăn, trở ngại thì nên tìm hướng đi khác dễ dàng hơn.
+ Chọn lối đi chưa có dấu chân người:  con người cần mạo hiểm, dũng cảm đối đầu với thử thách .
+ Bằng cách nói hình ảnh hai câu nói nêu lên những bài học về lẽ sống. Hai ý kiến nêu lên hai cách sống: một cách sống linh hoạt, khôn khéo, một cách sống dũng cảm, mạo hiểm.
–  Bàn luận
+  Trong cuộc sống, khó khăn, thử thách là điều không thể tránh khỏi.
+ Gặp khó khăn lớn, vượt quá khả năng của mình, nên tìm cách giải quyết bằng những hướng khác nhau, thậm chí phải đi đường vòng, phải mất thêm thời gian, công sức. Nếu linh hoạt trong cách giải quyết vấn đề  ta vẫn gặt hái được thành công, đến được đích mình đã định. Không linh hoạt, mềm dẻo, cứ đâm đầu vào đá ta sẽ chuốc lấy thất bại.
+ Nhưng  trong cuộc sống, để  đến được đích mà mình đã chọn, ta phải biết mạo hiểm, dũng cảm, sáng tạo, phải tìm cho mình một lối đi riêng. Lối đi ấy có thể có những rủi ro, nhưng ta phải biết chấp nhận. Chỉ có như vậy ta mới có thể đến  được đích một cách nhanh nhất, có thể biến ước mơ thành hiện thực. Nếu có thất bại đó cũng là bài học quý cho thành công tiếp theo.
+  Hai ý kiến không hề đối lập mà chỉ là những cách thức khác nhau để giúp chúng ta đạt được thành công trong cuộc sống.
+ Trong cuộc sống, chúng ta phải biết linh hoạt,  mềm dẻo nhưng có lúc cần mạo hiểm, dũng cảm, sáng tạo. Nếu vận dụng linh hoạt những phẩm chất ấy trong từng hoàn cảnh cụ thể nhất định ta sẽ biến ước mơ thành hiện thực. Tuy nhiên  khôn khéo, cẩn trọng nhưng không ỉ  lại, lười suy nghĩ, mạo hiểm, dũng cảm không có nghĩa là liều lĩnh,  thấy chết mà vẫn lao vào.
– Liên hệ tới bản thân.
 
Câu 2 (12 điểm)
A- Yêu cầu
I- Kiến thức
Học sinh có thể trình bày vấn đề theo những cách khác nhau, song bài viết phải làm nổi bật được các nội dung chính sau:
– Giải thích
+ Thơ không chỉ là một nghệ thuật: thơ là nghệ thuật kì diệu nhất của ngôn ngữ, hấp dẫn, lay động lòng người bởi cái đẹp của từ ngữ, hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu….
+  Thơ là “sự giải thoát của lòng tôi” : Thơ là tiếng nói tâm hồn, tình cảm của nhà thơ với bao buồn, vui, ước mơ, hi vọng….
+  Thơ không chỉ là sản phẩm kì diệu của nghệ thuật ngôn từ mà thơ là phương tiện giao tiếp, bộc bạch tình cảm của người nghệ sĩ với đời.
– Bàn luận
+ Ý kiến nói lên được đặc trưng cơ bản của thơ.
+ Những nhà thơ lớn là những bậc thầy  về  ngôn ngữ, những bài thơ hay phải có ngôn ngữ cô đọng, hàm súc, giàu cảm xúc, giàu sức gợi, hình ảnh đẹp, phong phú…
+ Nhưng thơ chỉ tràn ra khi các cung bậc cảm xúc trong tâm hồn  nhà thơ dâng trào cao độ, đòi hỏi được giãi bày, chia sẻ, cảm thông….
+ Là tiếng nói tâm hồn nên thơ dễ lay động hồn người. Đó là tiếng lòng đi tìm những lòng “đồng điệu”.
– Bài thơ Vội vàng (Xuân Diệu)
+ Bài thơ hay bởi những cảm xúc được biểu hiện trong một hệ thống ngôn ngữ giàu tính nghệ thuật.
+ Nhưng bài thơ ám ảnh người đọc bởi tiếng nói sôi nổi, mãnh liệt của một hồn thơ yêu đời ham sống, bởi những quan niệm nhân sinh, quan niệm thẩm mĩ mới mẻ.
– Đánh giá:
+ ý kiến nói đúng về tiêu chí của bài thơ hay.
+ Những cảm xúc, tình cảm mãnh liệt chân thành, mang tính thẩm mĩ , cùng sự sáng tạo trong hình thức biểu hiện sẽ làm nên sức sống cho thơ.
+ Đó là bài học quý giá cho những người muốn trở thành thi sĩ, những người yêu thơ muốn thâm nhập thế giới vi diệu, bí ẩn của thơ ca.
 
ĐỀ SỐ 12
Câu 1 (8,0 điểm)
Trong một cuộc thi Thế vận hội được tổ chức ở thành phố Settle, có 9 nhà điền kinh tham gia cuộc thi chạy 100m. Khi cuộc đua bắt đầu được hơn chục mét thì một vận động viên trượt chân, ngã khuỵu xuống. Anh ta đã không thể chạy được nữa và… đã khóc. Tiếng khóc khiến cho 8 người còn lại chạy chậm lại rồi dừng hẳn. Họ nhìn nhau và cùng đi về phía người bị ngã. Họ nâng chàng trai dậy, rồi… cả 9 người cùng tiến về đích. Sau một thoáng ngỡ ngàng, tất cả khán giả chứng kiến cuộc đua hôm ấy đã đứng dậy, vỗ tay rất to và tràng vỗ tay đã kéo dài rất lâu.
(Theo songda.com.vn)
Những suy nghĩ của anh(chị) từ câu chuyện trên?
Câu 2 (12,0 điểm)
Có ý kiến cho rằng: Với Thơ mới, thi ca Việt Nam bước vào một thời đại mới.
Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm rõ điều làm nên dấu ấn của thời đại mới qua một số bài thơ mới đã học trong chương trình.
ĐÁP ÁN VÀ THANG ĐIỂM
Câu 1 (8 điểm)
*Yêu cầu về kĩ năng: Biết cách làm bài nghị luận một vấn đề  xã hội được rút ra từ câu chuyện nhỏ: biết cách lập ý với lập luận chặt chẽ, bố cục rõ ràng, văn viết có cảm xúc…
 *Yêu cầu về kiến thức
1.Ý nghĩa của câu chuyện:
Câu chuyện kể về một người hoạn nạn trong cuộc thi thể thao đã được mọi người giúp đỡ. Những tràng vỗ tay rất tokéo dài rất lâu của khán giả  không phải  cổ vũ cho những  thành tích cao trong thể thao mà là sự ghi nhận cho một tình cảm đẹp và rất cần thiết trong cuộc sống: tấm lòng biết sẻ chia và quan tâm đến người khác. Có thể thấy qua câu chuyện, chiến thắng không phải là tất cả, ý nghĩa thực sự của cuộc sống chính là ở chỗ ta biết giúp đỡ người khác cùng chiến thắng dù có phải chậm một bước.
2.Suy nghĩ
– Con người rất cần sự sẻ chia, đồng cảm vì cuộc sống không xuôi chiều, nhiều những khó khăn, bất trắc, bản thân mỗi người không dễ vượt qua những khó khăn, thử thách ấy.
– Khi được sẻ chia và đồng cảm sẽ con người có được sức mạnh, có nghị lực để vượt qua khó khăn thử thách, nõi buồn, sự khổ đau sẽ vợi bớt, tránh xa được những tội lỗi xấu xa…
– Một người biết đồng cảm, sẻ chia với người khác là một nhân cách tốt, có một tấm lòng nhân hậu, là điều kiện để con người sống giữa cộng đồng, sống giữa cuộc đời.
– Mỗi người cần học cách sẻ chia và đồng cảm; sẻ chia đồng cảm không chỉ ở tư tưởng mà phải trở thành những hành động, việc làm cụ thể của mỗi người; xã hội cần biết tôn vinh, đề cao vẻ đẹp này, cần lên án những thái độ vô cảm, ích kỉ của con người.
HS cần biết kết hợp lí lẽ và dẫn chứng để lập luận trở nên thuyết phục.
Câu 2 (12 điểm)
*Yêu cầu về kỹ năng: Học sinh biết cách làm bài nghị luận một ý kiến bàn về văn học, kết hợp nhuần nhuyễn kiến thức lí luận văn học và khả năng cảm thụ tác phẩm văn học; bố cục bài viết hợp lí, văn viết trong sáng, có cảm xúc.
*Yêu cầu về  kiến thức:
1.Giải thích ý kiến: ý kiến đã khẳng định vai trò, vị trí của thơ mới trong lịch sử văn học Việt Nam.
+Trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc, ở thời kì từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, Thơ mới  thể hiện rõ nét quá trình hiện đại hóa, tạo ra bước chuyển của nền văn học từ  trung đại sang hiện đại, phong trào Thơ mới đã tạo ra nhiều phong cách thơ chưa từng có trong lịch sử văn  học dân tộc, nhiều tên tuổi lớn xuất hiện: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính…; thơ mới cũng tạo ra một lớp công chúng mới…
+Điều quan trọng thơ mới mang đến một nội dung, cảm xúc mới, Hoài Thanh gọi đó là tinh thần thơ mới:  thể hiện cái tôi cá nhân với cách nhìn đời bằng cặp mắt xanh non, trẻ trung tươi mới, đầy ngơ ngác trước thiên nhiên và cuộc sống, phơi trải sự phong phú  của tâm hồn mình (nét nổi bật là sự buồn sầu, cô đơn trước không gian mênh mông, thời gian vô cùng, vô tận)
+Thơ mới còn có sự cách tân về nghệ thuật: mới ở thể thơ, mới về ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu…-> Sự đổi mới về nghệ thuật thực chất  là thể hiện sự  đổi mới trong cách nhìn mới mẻ của cái tôi cá nhân
2.Phân tích, chứng minh
– Cần chọn được những bài thơ mới tiêu biểu trong chương trình.
– Cần phân tích để làm nổi bật những dấu ấn của thời đại mới ở các bài thơ trên phương diện
+Nội dung, cảm xúc: là  tiếng nói của cái  tôi cá nhân cảm nhận cuộc sống, vũ trụ một cách cụ thể trực tiếp, cái tôi với nỗi buồn sầu, cô độc, bơ vơ…
+Nghệ thuật: sự mới mẻ ở thể thơ, từ ngữ, câu thơ, biện pháp tu từ, nhịp thơ, giọng điệu…
-Khuyến khích những bài viết biết cách so sánh (với thơ cũ) để nhấn mạnh nét mới của  thơ mới.
Cách cho điểm
Điểm 10 -12: Kiến thức lí luận vững vàng, có năng lực cảm thụ tác phẩm theo định hướng, diễn đạt có chất văn.
– Điểm 8 – 9: Đáp ứng khá đầy đủ các yêu cầu, có kiến thức, kĩ năng làm văn tốt, cảm thụ chưa thật sâu sắc hoặc lí luận có ý chưa đầy đủ.
– Điểm 6 – 7: Về kiến thức, hiểu chưa đầy đủ nhận định, lí luận sơ sài, phân tích tác phẩm chung chung, mắc một số lỗi diễn đạt.
– Điểm 4 – 5: Chưa đạt yêu cầu về kĩ năng và kiến thức, tuy có hiểu biết về các các phẩm được chọn, còn nhiều lỗi về diễn đạt.
– Điểm dưới 4: Chưa hiểu đề hoặc viết lan man.
—————-Hết—————-
 
 
ĐỀ SỐ 13
Câu 1(8.0 điểm)
Con người ta sớm muộn gì cũng nhận thấy rằng chính họ là người làm vườn cho tâm hồn và đạo diễn cho cuộc đời họ. (Giêm A- len)
Anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến trên.
Câu 2(12 điểm)
Bàn về văn học, Standal viết: “ Văn học là tấm gương phản chiếu đời sống xã hội
Còn Lê Nin cho rằng: “ Nghệ thuật không đòi hỏi người ta phải thừa nhận các tác phẩm của nó như là hiện thực
Anh/ chị hiểu những ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ.
GỢI Ý
A.Yêu cầu chung:
– Học sinh biết cách làm bài nghị luận văn học và nghị luận xã hội.
–  Bố cục hợp lý
– Diễn đạt trong sáng
Yêu cầu cụ thể:
CÂU 1(8,0 điểm)
Giải thích ngắn gọn ý kiến(2,0 điểm)
– “Chính họ là người làm vườn cho tâm hồn”: Cách diễn đạt hình ảnh về khả năng tự giáo dục cũng là trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với quá trình hình thành, hoàn thiện nhân cách của mình.
– “Chính họ…là đạo diễn cho cuộc đời họ”: Cách nói hàm súc, chính xác về khả năng chỉ đạo, tổ chức cuộc đời mình của mỗi cá nhân, cũng là trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với cuộc sống của bản thân trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
– “Con người ta sớm hay muộn gì cũng nhận thấy…”: Khẳng định mỗi con người đều tiềm tàng khả năng tự nhận thức, tự giáo dục bản thân. Nhưng ở mỗi người, năng lực ấy được bộc lộ ở những thời điểm khác nhau của cuộc đời. Có người, ngay từ khi còn trẻ đã có được nhận thức đúng về mình. Nhưng cũng có không ít người phải trải qua chặng đường đời dài lâu mới có được nhận thức như thế.
=> Mượn cách nói giàu hình ảnh, hàm súc mà chính xác, Giêm Alen đã giúp con người nhận ra năng lực tự nhận thức của mình và đặt ra cho mỗi người yêu cầu: không ai khác, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm với quá trình rèn luyện nhân cách, bồi dưỡng tâm hồn, và đóng vai trò quyết định trong việc xây dựng tương lai cho mình.
Bàn luận về ý kiến( 5,0 điểm)
Cuộc đời, quá trình hình thành, hoàn thiện nhân cách của mỗi người chịu tác động của nhiều yếu tố:
      +Yếu tố khách quan (môi trường giáo dục gia đình, trong nhà trường và ngoài xã hội, xu thế phát triển của thời đại, những biến động lịch sử, chính trị…) đóng vai trò ảnh hưởng chi phối .
      +Yếu tố chủ quan (Vốn sống, hiểu biết, bản lĩnh khát vọng, niềm đam mê, năng lực tự nhận thức, khả năng tự giáo dục…) của mỗi cá nhân đóng vai trò quan trọng có tính quyết định.
Để trở thành “người làm vườn” đích thực của tâm hồn mình, là “đạo diễn” đích thực của cuộc đời mình, mỗi cá nhân phải chủ động trang bị cho mình những hành trang cần thiết (xác định nghiêm túc, đúng đắn mình muốn trở thành con người như thế nào? Tự bồi dưỡng kiến thức, rèn luyện những phẩm chất, tính cách phù hợp, nói cách khác: tự mài sắc trí tuệ và luôn làm giàu tâm hồn).
Con người khi trở thành “người làm vườn”đích thực của tâm hồn mình, là “đạo diễn” đích thực của cuộc đời mình, cũng có nghĩa là đã thực sự làm chủ được cuộc đời mình. Khi ấy, con người không còn bị lệ thuộc vào sự “rủi may” của cái gọi là “số phận” hay “định mệnh”.
– Phê phán những cá nhân sống không có trách nhiệm với bản thân, không có ý thức rèn luyện nhân cách, bồi dưỡng tri thức để vươn lên, tự làm chủ cuộc đời mình => Không có trách nhiệm với gia đình, đất nước.
Bài học nhận thức và hành động (1,0 điểm)
Ý kiến có giá trị sâu sắc, đúng đắn về cách sống :
+ Cần nhận thức rõ làm chủ cuộc đời mình là một trong những năng lực vô cùng quan trọng giúp con người, nhất là những người trẻ tuổi hòa nhập và đứng vững để đi đến thành công, có được hạnh phúc trong thời đại hội nhập toàn cầu hiện nay.
+ Từ đó xác định rõ mục đích sống, tự bồi dưỡng kiến thức, trau dồi những phẩm chất tốt đẹp, ý thức được chính mình là người quyết định số phận của bản thân để không ngừng nuôi dưỡng khát vọng vươn lên trong cuộc sống. Có những hành động cụ thể để khẳng định giá trị của bản thân bằng những đóng góp tích cực cho xã hội.
Câu 2: (12 điểm)
Giải thích (2,0 điểm)
– Ý kiến của Standal nghĩa là: Văn học phản ánh hiện thực.
– Ý kiến của Lê Nin nghĩa là: nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng không bê nguyên si hiện thực cuộc sống vào trong tác phẩm. Hiện thực trong tác phẩm là hiện thực phản ánh thông qua lăng kính của tác giả, thể hiện tư tưởng tình cảm, quan niệm thẩm mĩ và tài năng của tác giả.
Như vậy: 2 ý kiến tưởng như trái ngược nhau nhưng thực chất là bổ sung cho nhau. Ý kiến của Lê Nin bổ sung cho ý kiến của Standal để nhấn mạnh chức năng của văn học: Văn học phản ánh hiện thực nhưng đó là hiện thực được nhìn qua lăng kính chủ quan của tác giả thể hiện tâm tư tình cảm của tác giả.
Bình luận (3,0 điểm)
Vấn đề đặt ra từ 2 ý kiến trên là hoàn toàn chính xác vì:
– Văn học bắt nguồn từ cuộc sống, lấy chất liệu từ hiện thực cuộc sống.
– Văn học phản ánh hiện thực không theo cách chụp ảnh, bê nguyên si đời sống vào trong tác phẩm mà hiện thực ấy phải được chọn lọc qua cái nhìn của người nghệ sĩ thể hiện dụng ý nghệ thuật của tác giả. Vì vậy hiện thực trong tác phẩm đôi khi được hư cấu nhưng vẫn được chấp nhận vì nó phản ánh đúng lô gíc tình cảm và thể hiện tư tưởng của nhà văn.
Chứng minh (6,0 điểm)
Học sinh phải vận dụng kiến thức đã học để chứng minh được 2 ý cơ bản sau:
– Văn học phản ánh hiện thực cuộc sống. Dù phản ánh hiện thực gì nhưng đối tượng văn học hướng tới vẫn là con người.
– Không phải hiện thực nào được phản ánh cũng làm nên tác phẩm nghệ thuật. Hiện thực được phản ánh trong tác phẩm phải thể hiện được bản chất xã hội, thể hiện tư tưởng tình cảm của nhà văn và tác động sâu sắc tới độc giả.
Nâng cao (1 điểm)
Văn học phản ánh hiện thực nó đòi hỏi nhà văn phải có vốn sống phải trải nghiệm để có thể phản ánh được bản chất của hiện thực.
– Nhà văn phải là người nhạy cảm, tinh tế và tài năng để có những phát hiện mới mẻ trước hiện thực cuộc sống.
– Người tiếp nhận văn học: cần nhìn nhận hiện thực trong tác phẩm là hiện thực phản ánh tâm tư tình cảm của nhà văn.
ĐỀ SỐ 14
 
Câu 1 (8 điểm)
Trình bày suy nghĩ của anh/chị về quan niệm sống thể hiện trong các câu sau:
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
           Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
(trích Giục giã – Xuân Diệu)
Sống tung sóng gió thanh cao mới
Sống mạnh dù trong một phút giây
(trích Đi – Tố Hữu)
Sống trong đời sống cần có một tấm lòng.
(trích Để gió cuốn đi (ca từ) – Trịnh Công Sơn)
Câu 2 (12 điểm)
Có nhận định rằng: Văn chương không có gì riêng sẽ không là gì cả.
Anh/chị hiểu như thế nào về ý kiến trên ?
Hãy phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh để làm sáng tỏ ý kiến đó.
——————— HẾT ———————
 
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
 
Câu 1 (8 điểm)
 

I. Yêu cầu về hình thức và kĩ năng:  
   – Vận dụng thuần thục cách thức làm bài văn nghị luận xã hội về một tư tưởng, đạo lí: kết hợp các thao tác lập luận một cách nhuần nhuyễn, huy động tốt những kiến thức sách vở, đời sống, những trải nghiệm của bản thân…để bảo vệ cho lập luận của mình.  
   – Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt sáng rõ, trôi chảy ; hạn chế tối đa việc mắc lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp.  
II.Yêu cầu về kiến thức:  
      Cần hiểu đúng ý tưởng của các câu trích ; cũng như dẫn ra được những dẫn chứng thực tế để bảo vệ cho lập luận của mình. Học sinh có quyền đưa ra những ý kiến riêng. Điều quan trọng là cách hiểu và cách bàn luận phải xuất phát từ ý tưởng được dẫn trên đề và phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức chung của xã hội cũng như có sự hợp lí về lập luận.
Bài làm cần thiết đảm bảo định hướng chính sau:
 
1. Giải thích vấn đề: 3.0
– So sánh làm nổi bật quan niệm sống, khát vọng sống tích cực: phải hướng đến một đời sống  tỏa sáng, có ý nghĩa (ngay cả khi “huy hoàng” chỉ diễn ra trong thoáng chốc). Đó là cách sống tận hiến, với khát vọng được làm chuyện lớn lao có ích cho đời cho mình, để có được những giây phút vinh quang, chói sáng… 1.0
– Sống trong sạch cao thượng, mạnh mẽ hào hùng giữa “sóng gió” cuộc đời và hướng theo cái mới. Khác với cách sống cũ: thụ động, buông xuôi, cam chịu, ươn hèn… 1.0
– Sống với một tấm lòng chân thật yêu thương, mở ra phía tha nhân ; sống trong tình thân ái, biết cảm thông, chia sẻ… 1.0
2. Bàn bạc: 4.0
– Không chấp nhận lối sống nhàn nhạt “lờ mờ, lẹt đẹt, luộm thuộm” (chữ của Nguyễn Tuân) vô nghĩa trong suốt đời người chính là thái độ sống đẹp của con người có khát vọng lớn lao.
– “Quăng thân vào gió bụi”, sống “thanh cao”, mạnh mẽ và hướng theo lí tưởng cao đẹp chính là lối sống tích cực, có tránh nhiệm…
– Trải lòng để yêu thương, chia sẻ, “để gió cuốn đi” đến với mọi người gần xa, không tính toán vị kỉ chính là đạo lí rất đáng được ngợi ca.
1.5
 – “Phút huy hoàng” trong cuộc đời thật quý và có ý nghĩa ; nhưng không thể vì thế mà đánh đổi cả phần đời còn lại. Con người không chỉ tỏa sáng trong chốc lát rồi vụt tắt. Đời người có lúc thăng hoa, có lúc trầm lắng và cũng khó tránh khỏi những lúc “le lói” buồn đau. Cũng  có nhiều người sống âm thầm nhưng có ích cho xã hội. Nhưng cái đáng trân trọng là khát vọng được cháy hết mình, được tận hiến cho đời…
– Không phải lúc nào cũng sống mạnh, sống hùng ; có lúc cần lắng lòng trước cái đẹp của thiên nhiên, cuộc sống, tình người…
– Và cũng không phải lúc nào cũng giao đãi với người bằng tình yêu thương, phải biết phẫn nộ và đấu tranh với cái xấu, cái ác. Mở lòng ra với mọi người song phải biết trân trọng giá trị cuộc sống của chính mình.
 
1.5
– Những quan niệm sống khác nhau, có thể bổ sung cho nhau, hướng con người theo một cách sống đẹp đẽ, hoàn thiện từ khát vọng đến hành động và tình cảm. 1.0
    3. Bài học nhận thức và hành động: 1.0
– Nhận thức: Cần tự trang bị cho bản thân một quan niệm sống đúng đắn, đẹp đẽ. 0.5
– Hành động: Mạnh mẽ trong thực hiện những dự định tốt đẹp ; trong sạch trong lối sống ; cao thượng, chân thành trong tình cảm. 0.5
* Lưu ý: Xem xét cả hai yêu cầu về hình thức, kĩ năng và kiến thức để cho điểm.

 
Câu 2 (12 điểm)
Có nhận định rằng: Văn chương không có gì riêng sẽ không là gì cả.
Anh/chị hiểu như thế nào về ý kiến trên ?
Hãy phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh để làm sáng tỏ ý kiến đó.
 

I. Yêu cầu về hình thức và kĩ năng:  
     Học sinh có thể giải thích xong nhận định, sau đó phân tích bài thơ, so sánh đối chiếu,… để làm rõ nét riêng độc đáo của tác phẩm ; hoặc kết hợp các thao tác nghị luận trên cùng một lúc. Kết cấu chặt chẽ, văn viết lưu loát, có hình ảnh và cảm xúc ; hạn chế tối đa việc mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.  
II. Yêu cầu về nội dung:  
    Trên cơ sở những hiểu biết cơ bản về lí luận văn học và những kiến thức thuộc phạm vi đề bài, học sinh có thể trình bày vấn đề theo nhiều cách khác nhau, miễn là làm rõ được các ý chính sau :
 
 
1. Giải thích nhận định: 5.0
– Văn chương là lĩnh vực của cái độc đáo. Mỗi tác phẩm văn chương phải có nét riêng, nét mới ở ý tưởng nghệ thuật cũng như ở hình thức biểu hiện. Mỗi nhà văn phải có một thế giới nghệ thuật riêng, một “chân trời” riêng, một “biên cương” riêng. Nhà văn có phong cách thì mới được người đọc chấp nhận và yêu mến. Phong cách càng độc đáo thì sức hấp dẫn càng lớn. 2.0
– Mới mẻ, độc đáo là điều kiện tồn tại của tác phẩm văn chương. Tác phẩm chương không có gì mới sẽ không được người đọc tiếp nhận. Nhà văn có phong cách nghệ thuật mờ nhạt sẽ bị người đọc quên lãng ; lặp lại mình hoặc lặp lại người khác đều là điều tối kị trong hoạt động sáng tác của nhà văn… 2.0
– Biểu hiện của cái riêng trong văn chương: 1.0
     + Giọng điệu riêng biệt của tác phẩm.
+ Cách nhìn, cách cảm của nhà văn có tính chất khám phá.
+ Yếu tố mới trong nội dung tác phẩm.
+ Sử dụng các thủ pháp nghệ thuật mang dấu ấn riêng
     Lưu ý: Thí sinh có thể triển khai vấn đề theo hai khía cạnh: nội dung và nghệ thuật. Tuy vậy, cần đảm bảo các ý trên.
 
2. Phân tích bài thơ để làm rõ vấn đề nghị luận:    7.0
a/ Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm: 1.0
– Tác giả: 0.5
     + Xuân Quỳnh thuộc thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong chống Mĩ.
+ Tác giả của những thi phẩm nổi tiếng: Hoa dọc chiến hào (1968), Tự hát (1984), Hoa cỏ may (1989)…
+ Thơ Xuân Quỳnh in đậm vẻ đẹp nữ tính, là tiếng nói của một tâm hồn giàu trắc ẩn, hồn hậu, chân thực và luôn luôn da diết trong khát vọng về một hạnh phúc đời thường.
 
– Tác phẩm: 0.5
     + Sóng là bài thơ viết về tình yêu hạnh phúc, trích trong tập Hoa dọc chiến hào, viết năm 1967, tại biển Diêm Điền, Thái Bình.
     + Thơ năm chữ, có cấu tứ độc đáo – mượn sóng để nói đến khát vọng tình yêu.
 
b/ Phân tích: 5.0
– Giọng điệu chung của bài thơ: dào dạt, da diết, khát khao, âu lo, day dứt… Mỗi câu thơ như một con sóng vỗ vào bờ, gợi tả tinh tế nhịp điệu tâm hồn của người phụ nữ đang yêu. 1.0
– Cách nhìn, cách cảm mới mẻ về tình yêu: Qua hình tượng “sóng” và “em”, tình yêu được thể hiện ở nhiều cung bậc, sắc độ: 2.0
     + Những biến động khác thường, nghịch lí trong lòng người phụ nữ đang yêu. (Dữ dội và dịu êm/Ồn ào và lặng lẽ).
+ Khát vọng vươn xa, thoát khỏi sự chật chội, tầm thường ; tìm sự đồng điệu. Yêu là đưa lòng ra biển lớn (Sông không hiểu nổi mình/Sóng tìm ra tận bể).
+ Tình yêu là nỗi khát vọng muôn đời. Yêu là hiện tượng vĩnh hằng (Ôi con sóng ngày xưa/Và ngày sau vẫn thế).
+ Nhu cầu lí giải sự khởi nguồn, khởi điểm của tình yêu. (Em nghĩ về anh em/Em nghĩ về biển lớn/Từ nơi nào sóng lên ?…Khi nào ta yêu nhau).
+ Nỗi nhớ nhung da diết, mãnh liệt. Nó chiếm cả bề rộng và tầng sâu ; khắc khoải trong mọi thời gian, cả trong ý thức và vô thức ; khắc khoải trong mọi không gian. (Con sóng dưới lòng sâu/Con sóng trên mặt nước/Ôi con sóng nhớ bờ/Ngày đêm không ngủ được/Lòng em nhớ đến anh/Cả trong mơ còn thức/Dẫu xuôi về phương bắc/Dẫu ngược về phương nam/Nơi nào em cũng nghĩ/Hướng về anh một phương).
+ Niềm tin về một tình yêu dù cách trở vẫn đến được bến bờ hạnh phúc. (Ở ngoài kia đại dương/Trăm ngàn con sóng đó/Con nào chẳng tới bờ/Dù muôn vời cách trở).
+ Nỗi trăn trở về sự hữu hạn của cuộc đời ; niềm mong mỏi về sự vô hạn trong tình yêu. (Cuộc đời tuy dài thế/Năm tháng vẫn đi qua/Như biển kia dẫu rộng/Mây vẫn bay về xa).
   Lưu ý: Có thể thí sinh nêu cách hiểu khác: Từ tình yêu hiện hữu, suy niệm về cuộc đời, thấy cuộc đời là có thật và dài nhưng có thể đo đếm được bằng năm tháng…
 
– Nét mới trong nội dung: 1.0
        + Tình yêu nồng cháy, mãnh liệt, bí ẩn nhưng giàu nữ tính, đòi hỏi sự thủy chung trong một tình yêu đúng nghĩa, hướng đến cuộc sống chung.
+ Khát vọng tình yêu như một nhu cầu tự nhận thức, khám phá cái tôi bản thể.
 
– Hình thức, kĩ thuật biểu hiện mang đậm dấu ấn riêng: 1.0
        + Kết cấu: kết cấu song hành “sóng” và “em”.
+ Cách biểu hiện vừa mới mẻ vừa truyền thống, đặc biệt là cách sử dụng hình tượng sóng: mỗi trạng thái tâm hồn của người phụ nữ đang yêu đều có thể tìm thấy sự tương đồng với một khía cạnh, một đặc tính của sóng.
+ Thể thơ 5 chữ, các câu nối tiếp gợi liên tưởng từng đợt sóng vào bờ.
 
c/ Đánh giá chung: 1.0
     – Nội dung: Tình yêu trong bài thơ là tình yêu hạnh phúc, gắn liền với cuộc sống chung (không phải tình yêu đau khổ, không phải tình đầu non nớt, vụng dại), với nhiều đam mê khao khát, đòi hỏi chiều sâu trong tình cảm. 0.5
     – Nghệ thuật: Bài thơ hội tụ nhiều nét tiêu biểu trong phong cách nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh.
     Sóng là một đóng góp đặc biệt của Xuân Quỳnh cho thơ ca viết về tình yêu của văn học dân tộc.
0.5
* Lưu ý: Xem xét cả hai yêu cầu về hình thức, kĩ năng và kiến thức để cho điểm.

 
 
ĐỀ SỐ 15
 
Câu 1: (8 điểm)
Trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến sau:
Có một gương mặt đẹp soi vào gương quả là hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc càng trọn vẹn hơn nếu có tâm hồn đẹp để mỗi khi soi vào gương lương tâm sâu thẳm mà lòng không hổ thẹn.”
(Băng Sơn, U tôi -Theo sách Ngữ văn 7, Tập một, NXB Giáo dục 2012, tr.85)
Câu 2: (12 điểm)
Nội tâm nhân vật thường có nét riêng cho thấy những bí ẩn của tâm hồn, phẩm chất, lí tưởng của nhân vật. Đặc biệt là những thay đổi trong ý thức, thái độ sống và tâm lí của nhân vật qua các giai đoạn.”
(Sách Ngữ văn 11 Nâng cao, Tập một, NXB Giáo dục 2008, tr.196)
Từ việc tìm hiểu nhận định trên, hãy phân tích đời sống nội tâm của một nhân vật trong tác phẩm truyện được học (thuộc chương trình Ngữ văn trung học phổ thông) vốn đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng anh/chị.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
 
Câu 1: (8 điểm)
Yêu cầu về kĩ năng
– Nắm vững phương pháp làm bài văn nghị luận xã hội về một vấn đề tư tưởng, đạo lí.
– Đáp ứng các yêu cầu về văn phong.
– Bố cục chặt chẽ, lý lẽ xác đáng, dẫn chứng phù hợp.
– Hạn chế các lỗi diễn đạt, chữ rõ, bài sạch.
Yêu cầu về kiến thức
Học sinh có thể trình bày suy nghĩ theo nhiều cách, miễn sao hợp lí và thuyết phục. Sau đây là một số gợi ý về nội dung:
Giải thích
– Câu nói có hai ý chính: vẻ đẹp của hình thức bên ngoài vốn là một hạnh phúc của con người; những vẻ đẹp của tâm hồn bên trong sẽ càng làm con người hạnh phúc hơn, nhất là khi gắn liền với lương tâm và sự tự trọng.
– Câu nói muốn khẳng định một ý thức, một quan điểm sống: biết quý trọng vẻ đẹp bên ngoài nhưng cần nhất là phải luôn tu dưỡng, rèn luyện đời sống tâm hồn, nhân cách bên trong để xứng đáng là Con Người.
Bình luận
2.1. Phương châm cuộc sống
– Biết trân trọng vẻ đẹp hình thức bên ngoài; đồng thời thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đời sống tâm hồn, nhân cách bên trong;
– Luôn phấn đấu để đạt đến sự hài hòa giữa bên ngoài và bên trong;
– Lấy lương tâm và sự tự trọng, tự tôn làm thước đo giá trị đời sống…
2.2. Sự thận trọng cần thiết
– Không chạy theo hình thức bên ngoài, song cũng không nên bỏ bê để bề ngoài quá lôi thôi, luộm thuộm; cần xác định rõ đâu là điểm dừng của hình thức bên ngoài, không tự biến mình thành nô lệ của hình thức;
– Tu dưỡng, rèn luyện tâm hồn, nhân cách theo chuẩn mực đạo đức, đạo lí xã hội; lấy đó làm mục tiêu phấn đấu hoàn thiện mình, tự tin để cùng tồn tại và phát triển hài hòa với cộng đồng…
2.3. Bài học về nhận thức và lối sống
– Hình thức bên ngoài và phẩm chất bên trong đều có giá trị tôn vinh con người;
– Mỗi người cần không ngừng rèn luyện, tu dưỡng, trau dồi để phát triển và hoàn thiện tâm hồn, nhân cách, trí tuệ của cá nhân, góp phần vào sự phát triển chung của cộng đồng;
– Mỗi người cần lấy lương tâm và sự tôn trọng làm thước đo, làm chuẩn mực đời sống; hướng tới một xã hội có trách nhiệm, có ý thức ngày càng cao…
Câu 2: (12 điểm)
Yêu cầu về kĩ năng
– Nắm phương pháp làm bài nghị luận văn học –  giải thích một vấn đề thuộc lí luận văn học, lấy đó làm định hướng phân tích nội tâm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã được học.
– Bố cục mạch lạc, văn viết đúng phong cách.
– Hạn chế các lỗi diễn đạt, chữ viết cẩn thận, bài làm sạch sẽ.
Yêu cầu về kiến thức
Học sinh cần có kiến thức lí luận văn học về đọc tiểu thuyết và truyện ngắn, kết hợp hiểu biết sâu sắc về nhân vật trong một tác phẩm với những phát hiện theo hướng  yêu cầu của nhận định.
Sau đây là một số gợi ý:
Tìm hiểu nhận định
– Nội tâm là một phương diện biểu hiện của nhân vật. Nhân vật có vai trò là yếu tố quan trọng hàng đầu trong thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết.
(Các yếu tố khác: ngoại hình, hành động, biến cố, ngôn ngữ, các mối quan hệ với các nhân vật và với hoàn cảnh xung quanh).
– Nội tâm giúp người đọc thấy rõ “những bí ẩn của tâm hồn, phẩm chất, lí tưởng” của nhân vật; nội tâm của mỗi nhân vật do đó thường đặc sắc, có nét riêng, nét khác biệt so với các nhân vật khác trong tác phẩm và cả với nhân vật đồng dạng trong các tác phẩm khác.
– Nhà văn luôn chú ý xây dựng “những đổi thay trong ý thức, thái độ sống và tâm lí của nhân vật qua các giai đoạn” nhằm làm nổi bật nhân vật và góp phần thể hiện ý đồ  sáng tác của mình.
* Nhận định trên vừa nêu lên vai trò của nội tâm trong việc thể hiện nhân vật vừa xác định cá tính sáng tạo mà nhà văn thể hiện qua việc xây dựng đời sống nội tâm nhân vật, để lại dấu ấn riêng trong tác phẩm và trong đời sống văn học. Qua đó, giúp bạn đọc có ý thức thêm về yếu tố này khi đọc tiểu thuyết và truyện ngắn.
Phân tích nội tâm nhân vật trong tác phẩm văn học
Học sinh chọn tác phẩm được học trong chương trình Ngữ văn (cấp trung học phổ thông), phân tích nhân vật theo hướng nhận định đã nêu. Chú ý các điểm cơ bản sau đây:
– Chọn được nhân vật thực sự có giá trị trong việc thể hiện đời sống nội tâm;
– Phân tích được nét riêng trong nội tâm nhân vật, qua đó làm rõ “những bí ẩn của tâm hồn, phẩm chất, lí tưởng” của nhân vật.
– Chỉ ra “những đổi thay trong ý thức. thái độ sống và tâm lí của nhân vật qua các giai đoạn” để khẳng định giá trị của nhân vật cũng như ý đồ sáng tác của nhà văn.
* Lưu ý: Học sinh phân tích nhuần nhuyễn các chi tiết biểu hiện đời sống nội tâm nhân vật, luôn có sự gắn kết với nhận định.
ĐỀ SỐ 16
 
Câu 1. (8,0 điểm):
                                     BỨC TRANH TUYỆT VỜI
 
Một họa sĩ suốt đời mơ ước về một bức tranh đẹp nhất trần gian. Ông đến hỏi vị giáo sĩ để biết được điều gì đẹp nhất. Vị giáo sĩ trả lời:
 – Điều đẹp nhất trần gian là niềm tin, vì niềm tin nâng cao giá trị con người.
Họa sĩ cũng đặt câu hỏi  tương tự với cô gái và được trả lời:
-Tình yêu là điều đẹp nhất trần gian, bởi tình yêu làm cho cay đắng trở nên ngọt ngào; mang đến nụ cười cho kẻ khóc than; làm cho điều bé nhỏ trở nên cao trọng, cuộc sống sẽ nhàm chán biết bao nếu không có tình yêu.
Cuối cùng họa sĩ gặp một người lính mới từ trận mạc trở về. Được hỏi, người lính trả lời:
 – Hòa bình là cái đẹp nhất trần gian, ở đâu có hòa bình, ở đó có cái đẹp.
 Và họa sĩ đã tự hỏi mình:  Làm sao tôi có thể cùng lúc vẽ niềm tin, hòa bình và tình yêu ?  
… Khi trở về nhà, ông nhận ra niềm tin trong ánh mắt của các con, tình yêu trong cái hôn của người vợ. Chính những điều đó làm tâm hồn ông tràn ngập hạnh phúc và bình an. Họa sĩ đã hiểu thế nào là điều đẹp nhất trần gian. Sau khi hoàn thành tác phẩm, ông đã đặt tên cho nó là : Gia đình. 
(Theo Phép nhiệm màu của đời, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh)
Anh (chị) suy nghĩ gì về ý nghĩa của câu chuyện trên.
 
Câu 2. (12 điểm):
 Thơ là tấm lòng nhưng trước hết thơ phải là cuộc sống.
                       (Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại – Hà Minh Đức).
Anh (chị) hiểu vấn đề trên như thế nào ? Hãy làm sáng tỏ bằng việc phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh  để làm sáng tỏ vấn đề lí luận trên.
 
HƯỚNG DẪN
I.Câu 1 (08 điểm):
Yêu cầu về kĩ năng:
Biết cách làm một bài nghị luận xã hội đúng và trúng yêu cầu của đề bài. Bài viết có bố cục rõ ràng mạch lạc, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục, không sai các loại lỗi.
B.Yêu cầu về kiến thức:
Có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải đảm bảo các ý cơ bản sau:
– Ý nghĩa câu chuyện: Trong cuộc sống có nhiều giá trị tinh thần tốt đẹp làm nên những “bức tranh” đẹp phong phú đa dạng của đời sống trong xã hội loài người, trong đó gia đình là  một trong những “bức tranh tuyệt vời nhất”.
– Những suy nghĩ được gợi lên từ câu chuyện:
+ Mỗi người, từ hoàn cảnh và điều kiện chủ quan và khách quan của mình có thể có những quan niệm, cảm nhận khác nhau về vẻ đẹp cuộc sống (niềm tin, tình yêu, hòa bình…những giá trị cơ bản mang tính nhân loại).
+ Tuy nhiên, gia đình tốt đẹp chính là nơi gieo mầm, nuôi dưỡng, hội tụ những giá trị tinh thần cao quý đó. Vì gia đình là nơi xuất phát của mọi tình yêu thương (tình mẫu tử, tình cha con, tình vợ chồng, tình anh em, lòng vị tha, đức hi sinh…); là chỗ dựa tinh thần vững chắc của mỗi người (nơi sum họp, chở che, niềm an ủi, động viên…) là thế giới ấm áp, bình yên, hạnh phúc. Mỗi cá nhân tốt, đẹp mỗi giai đình tràn ngập tình yêu và hạnh phúc là cơ sở quan trọng để xã hội tốt đẹp.
– Nêu bài học:
+ Để có một gia đình đẹp nhất trần gian, mỗi người phấn đấu không ngừng để gia đình  thực sự là tổ ấm nồng nhiệt yêu thương, ân cần chia sẻ, nhường nhịn, hi sinh, thủy chung, tình nghĩa, chân thành, trung thực,  hòa thuận, tin tưởng… nơi mỗi cá nhân thực sự được là chính mình và ngày càng trở nên Người hơn.
+ Biết quý trọng, giữ gìn, bảo vệ gia đình, nhất là trong xã hội hiện đại, đồng thời cũng phải biết trân trọng, quí trọng những gia đình khác, những giá trị nhân bản, nhân văn khác của xã hội loài người, phấn đấu sống trọn vẹn cả tình riêng lẫn nghĩa chung, biết sáng tạo, có đóng góp không chỉ cho gia đình mà cả cho xã hội…
Câu 2 (12 điểm):
Yêu cầu về kĩ năng:
       Biết cách làm một bài nghị luận văn học đúng và trúng yêu cầu của đề bài. Bài viết có bố cục rõ ràng mạch lạc, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục, viết có cảm xúc, không sai các loại lỗi.
B.Yêu cầu về kiến thức:
Có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải đảm bảo các ý cơ bản sau:
a) Giải thích:
– Thơ là tấm lòng: Đặc trưng cơ bản của thơ tiếng nói tình cảm mãnh liệt, qua sự thể hiện tấm lòng  của mình nhà thơ nói lên tiếng lòng, tư tưởng của con người thời đại mình, thậm chí của nhiều thời, mọi thời.
– Thơ là cuộc sống chính đặc trưng phản ánh hiện thực cuộc sống một cách tập trung cô đọng. Hiện thực đời sống là cội nguồn của sáng tạo thơ.
-Nhà thơ phải gắn bó máu thịt với cuộc sống, rung động chân thành mãnh liệt trước những vấn đề cốt thiết của cuộc sống muôn mặt và hạnh phúc của con người, của thời đại, chỉ có như vậy, thơ mới thành tiếng nói đồng tình, đồng ý, đồng chí…
– Nhận định trên đúng nhưng chưa đủ tiếng lòng nhà thơ phải chọn được một giọng điệu, thể thơ, tứ thơ, ngôn ngữ, hình ảnh nhịp điệu, nhạc điệu… phù hợp, và mang dấu ấn riêng của nhà thơ.
– Muốn hiểu được một bài thơ phải hiểu bối cảnh lịch sử mà bài thơ ra đời, nắm vững đặc trưng thể loại, phong cách tác giả và cũng cần phải có ít nhiều năng lực cảm thụ thơ.
b) Phân tích Sóng để chứng minh:
– Vài nét cơ bản về Xuân Quỳnh (một trong những nữ nhà thơ tiêu biểu của thơ Việt  thời cả nước đánh Mĩ, là nhà thơ của hạnh phúc đời thường thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn luôn khao khát tình yêu, gắn bó hết mình với cuộc sống hàng ngày. Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh vừa nồng nhiệt, táo bạo, vừa tha thiết đắm say, dịu dàng, hồn nhiên, giàu trực cảm mà sâu lắng trải nghiệm suy tư) và hoàn cảnh ra đời của Sóng.
– Âm điệu của bài thơ là âm điệu của những con sóng biển cũng là sóng lòng miên man vô hồi vô hạn trong trái tim thi sĩ được tạo nên bởi thể thơ ngũ ngôn (linh hoạt phóng túng khi ngắt nhịp, phối âm) và cách tổ chức ngôn từ, hình ảnh gợi nên  nhịp sóng biển và sóng lòng với nhiều sắc thái cung bậc.
– Tứ thơ: cuộc hành trình khởi đầu là sự chối bỏ cái chật chội nhỏ hẹp để vươn tới một tình yêu bao la, vô biên tuyệt đích và khát khao được được sóng hết mình, được bất tử bằng tình yêu, trong tình yêu. Đây đâu chỉ riêng là khát vọng của riêng Xuân Quỳnh.
– Hình tượng sóng bao trùm xuyên suốt bài thơ với hai lớp nghĩa tả thực và biểu tượng. Nghĩa tả thực sinh động cụ thể với nhiều trạng thái mâu thuẫn, nghĩa biểu tượng như có hồn người biết bộc bạch giãi bày khi sôi nổi bồng bột, khi kín đáo sâu sắc, đắm say-tỉnh táo, nồng nhiệt – âm thầm…
– Bài thơ còn có hình tượng em trong quan hệ tuy hai mà một, một mà hai soi chiếu nhau, khi phân đôi làm nổi bật sự tương đồng, khi hòa nhập tạo sự âm vang cộng hưởng.
– Sự vận động của hình tượng sóng qua từng khổ thơ: sóng và tâm trạng phức hợp nhiều đối cực của người phụ nữ khi yêu; sóng và khát vọng tình yêu; sóng và khao khát truy nguyên cội nguồn tình yêu; sóng và nỗi nhớ trong tình yêu…; sóng và khát vọng được sống mãi trong tình yêu.
-Tất cả nhằm thể hiện khát vọng tình yêu, tha thiết, mãnh liệt, trong sáng, thủy chung, giản dị, chân thành, táo bạo… của một nhà thơ từng nếm trải sự đổ vỡ trong tình yêu nhưng vẫn tin vào tình yêu và hạnh phúc.
 
ĐỀ SỐ 17
 
Câu 1. (4 điểm)
Em hiểu thế nào về tính phi ngã, tính ước lệ trong Văn học trung đại Việt Nam?
Câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu:
Chở bao nhiêu đạo, thuyền không khẳm
                         Đâm mấy thằng gian, bút chẳng tà”
nói đến một đặc điểm nội dung gì của Văn học trung đại Việt nam?
 
Câu 2. (4 điểm)
Sắp tới em tham gia một cuộc thi viết ngắn bàn về thái độ sống với chủ đề:  “Người ta lớn hơn, vì biết cúi xuống”.
Hãy viết tham luận của mình trong khuôn khổ 500 từ.
 
Câu 3. (12 điểm)
Phân tích bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký” của Nguyễn Du.
Bản phiên âm:
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Bản dịch thơ:
Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh chết còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
(Bản dịch của VŨ TAM TẬP-
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du, NXB Văn học,
Hà Nội, 1965)
 
—HẾT—
 
HƯỚNG DẪN
Câu 1. 4 điểm
Đề chỉ yêu cầu nêu “cách hiểu” nên HS có thể không diễn đạt chính xác, chỉ cần nêu được như sau:
– Tính phi ngã : là sự coi nhẹ biểu hiện cá tính của con người ở cả hai đối tượng: chủ thể sáng tác và hình tượng nghệ thuật. Đây là hệ quả của thói quen sùng cổ và phần nào chịu ảnh hưởng của những quy ước xã hội trong chế độ cũ, làm hạn chế khả năng sáng tạo của tác giả, đồng thời làm cho cá tính nhân vật trong nhiều TP trở nên rập khuôn, lặp lại. Cái tôi trở nên thiếu sức sống, bị hòa lẫn trong cái phổ biến, lệ thuộc các giá trị và lợi ích của cộng đồng, của giòng họ, của đất nước…
HS có thể nêu dẫn chứng; có thể mở rộng so sánh biểu hiện cái tôi trong VH giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX. (1,5 điểm)
– Tính ước lệ: là biểu hiện của nghệ thuật nói chung, diễn tả con người và đời sống bằng các các hình thức có sẵn, các điển tích, các hình ảnh tượng trưng quen thuộc. Tính ước lệ một mặt phản ánh hiện thực một cách khái quát, súc tích; mặt khác cho thấy được chân dung văn hóa của người viết, nhằm hạn chế những cách nói năng dung tục, trần trụi, suồng sã. (1,5 điểm)
HS chỉ cần nêu được: Câu thơ trên là một quan niệm nghệ thuật của tác giả nhưng đồng thời nói đến chức năng giáo huấn và tính chiến đấu của văn học: Văn dĩ tải Đạo. Văn học được viết ra không chỉ để nói về cái Tâm, cái Chí của con người mà còn để “chở Đạo”, để “diệt tà”. (1 điểm).
(Nếu HS nói đến Nội dung yêu nước /nhân đạo thì tùy theo diễn đạt, giám khảo cho 0,5 điểm).
Câu 2. 4 điểm
Yêu cầu chung
Về nội dung
Hiểu được nghĩa khái quát: Câu trên thể hiện một thái độ sống rất bình thường nhưng cũng rất khó thực hiện được. Con người có thể lớn hơn bản thân mình và đồng loại bằng nhiều cách, nhưng biết sống khiêm nhường (cúi xuống) thì được tôn trọng hơn (lớn hơn).
Diễn đạt, trình bày: mạch lạc, súc tích; dẫn dắt các ý hợp lý, từ dùng chọn lọc; văn phong phù hợp với hình thức một tham luận.
Yêu cầu cụ thể. HS nêu được các ý sau:
Cúi xuống không phải là hành vi mà là một cách hành xử giữa người với người; Không nên nghĩ rằng cúi xuống đồng nghĩa với sự nhẫn nhục hay luồn cúi, thấp hèn; đó là biểu hiện của lối sống khiêm nhường, giản dị và khoan dung (DC: những người biết sống cúi xuống đều là những người luôn được tôn kính, ngưỡng vọng) (1 điểm)
(Nếu HS không diễn đạt được như trên, hiểu Cúi xuống là thái độ yêu thương, quan tâm người khác thì cho 0,5 đ).
Cúi xuống là để hiểu người hơn, là để nâng người khác lớn lên; Cúi xuống cũng là để hiểu mình hơn, để tự nâng mình lên;
Câu nói trên không nhằm khuyến khích người ta chỉ biết cúi xuống mà nhằm nhắc nhở người ta biết cách ứng xử cần thiết để lớn hơn. (1đ)
Liên hệ – Tham gia bàn luận về thái độ sống
– Tuổi thanh niên luôn có ý thức khẳng định mình và cũng tràn đầy khát khao, ý chí. Đó là một thuộc tính tâm lý thông thường và rất đáng trân trọng.
–  Nhưng tuổi trẻ cũng dễ mắc những nhược điểm: tự phụ, tự mãn, hiếu thắng, đôi khi thiếu nhường nhịn, không khiêm tốn
–  Vì quá tự tôn nên đôi khi không chấp nhận thành công của người khác, không chịu học tập người khác.
– Vì thế, thái độ khiêm nhường bao giờ cũng được mọi người coi trọng, như là một biểu hiện của văn hóa và đạo đức của mọi thời.
Các ý nhỏ này 2 điểm, tùy theo mức độ để xem xét.
 
Câu 3. 12 điểm
* Yêu cầu chung:
– HS nắm được suy nghĩ của Nguyễn Du qua câu chuyện nàng Tiểu Thanh, về nỗi bất hạnh của những người có tài văn chương nghệ thuật. Từ đó có thể hiểu thấu tâm sự sâu kín làm ông “thổn thức” suốt cuộc đời mình. Nhân vật phụ nữ tài sắc nhưng bất hạnh không chỉ là đối tượng cảm thông mà còn là đối tượng để nhà thơ ký thác nỗi niềm tâm sự của tầng lớp nghệ sĩ như mình; HS phát hiện được tài năng của Nguyễn Du trong việc sử dụng thành công một thể thơ hàm súc và ngôn ngữ ước lệ để biểu lộ tư tưởng nhân đạo cao cả của mình (1 điểm).
– Đạt các tiêu chuẩn về hành văn, từ ngữ, chính tả: mức độ cao: (1, 5 điểm)
* Yêu cầu cụ thể: HS có thể làm bài bằng nhiều hình thức khác nhau nhưng phải bảo đảm nêu được giá trị tư tưởng  (là chủ yếu) và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
* Các ý chính– Có thể phân tích lần lượt theo bố cục cắt ngang của bài thơ.
Cái nhìn đầy ưu tư từ một hiện tượng: “hoa uyển tẫn thành khư” và suy nghiệm về một nỗi đau: cảnh vật hoang phế tượng trưng cho cái đẹp bị mai một, biến dạng trong kiếp bể dâu. Chú ý chữ “ điếu” trong từ “độc điếu” , nên hiểu là thương cảm, thương xót, bản dịch đã cố gắng làm toát lên tinh thần của chữ này.()
Sự tương đồng về thân phận kiếp người hồng nhan và tài hoa nghệ sĩ: họ luôn phải chịu “liên và lụy” trong cuộc đời ô trọc biến suy. Chú ý cách dùng hình ảnh hoán dụ, tượng trưng “son phấn” và “văn chương” và giọng điệu xót xa ngậm ngùi trong hai câu thực.(2đ)
Bất lực trước những sự thật đau lòng, nghiệt ngã “cổ kim hận sự thiên nan vấn” và vẫn dấn thân chấp nhận “phong vận kì oan” như là một nghiệp chướng , một thân phận đã sớm buộc vào.. Từ thương người, Nguyễn Du tự thương thân, tự ý thức về giá trị bản thân. Cách dịch “Cái án phong lưu…phần nào khiên cưỡng, thiếu chiều sâu. Đây là biểu hiện của sự thức tỉnh của cái Tôi trong VH. (2đ)
Dự cảm về một tấm lòng tương tri trong hậu thế cũng là một cách thể hiện tâm trạng hoài nghi với đương thời. Chú ý chữ “khấp” trong bản phiên âm, được hiểu là khóc thầm, thương xót, đồng cảm, rất phù hợp với chữ “điếu” trong câu thứ hai. ()
* Các ý nâng cao:
Từ thân phận nàng Kiều, Đạm Tiên, Tiểu Thanh, nhà thơ vận đến số mệnh của mình cùng nhiều kẻ tài hoa khác, “chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”, “Trời kia đã bắt….phong trần phải phong trần”. Những người này cách ông có thể hàng trăm năm như Tiểu Thanh, mà cũng có thể hàng ngàn năm như Đỗ Phủ, Khuất Nguyên…(0,5đ)
Bài thơ được viết theo cấu trúc “vật cảm thuyết” với việc chọn 3 yếu tố Cảnh-Sự-Tình. Tuy nhiên, Nguyễn Du có một ý tưởng riêng khi xây dựng cấu trức tam hợp này theo tỷ lệ 1/2/6. Dành 6 câu thơ nói về tình. Điều đó lý giải sự trĩu nặng của suy tư nhà thơ về đề tài này.( 0,5đ)
HS liên hệ: biểu hiện “cái Tôi” trong thơ Nguyễn Du và nhiều nhà thơ khác báo hiệu sự vân động của “cái Tôi” trong VH hiện đại sau này. (0,5 đ).
 
ĐỀ SỐ 18
 
Câu 1 (3,0 điểm)
Câu chuyện của hai hạt mầm
Có hai hạt mầm nằm cạnh nhau trên một mảnh đất màu mỡ. Hạt mầm thứ nhất nói: Tôi muốn lớn lên thật nhanh. Tôi muốn bén rễ sâu xuống lòng đất và đâm chồi nảy lộc xuyên qua lớp đất cứng phía trên…
Tôi muốn nở ra những cánh hoa dịu dàng như dấu hiệu chào đón mùa xuân… Tôi muốn cảm nhận sự ấm áp của ánh mặt trời và thưởng thức những giọt sương mai đọng trên cành lá.
Và rồi hạt mầm mọc lên.
Hạt mầm thứ hai bảo:
– Tôi sợ lắm. Nếu bén những nhánh rễ vào lòng đất sâu bên dưới, tôi không biết sẽ gặp phải điều gì ở nơi tối tăm đó. Và giả như những chồi non của tôi có mọc ra, đám côn trùng sẽ kéo đến và nuốt ngay lấy chúng. Một ngày nào đó, nếu những bông hoa của tôi có thể nở ra được thì bọn trẻ con cũng sẽ vặt lấy mà đùa nghịch thôi. Không, tốt hơn hết là tôi nên nằm ở đây cho đến khi cảm thấy thật an toàn đã.
Và rồi hạt mầm nằm im và chờ đợi.
Một ngày nọ, một chú gà đi loanh quanh trong vườn tìm thức ăn, thấy hạt mầm nằm lạc lõng trên mặt đất bèn mổ ngay lập tức.

(THẢO NGUYÊN, Nguồn: Hạt giống tâm hồn – Từ những điều bình dị – First News và NXB Tổng hợp TPHCM phối hợp ấn hành)

Suy nghĩ của anh (chị) về  vấn đề đặt ra trong câu chuyện trên?
Câu 2 (7,0 điểm)
Bàn về lao động nghệ thuật của nhà văn, Mác-xen Pruxt cho rằng:
            Một cuộc thám hiểm thực sự không phải ở chỗ cần một vùng đất mới mà cần một đôi mắt mới”.
Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng hiểu biết về truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao và bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng, hãy làm rõ quan niệm nghệ thuật của Mác-xen Pruxt.
 
………………………….Hết…………………………
 
HƯỚNG DẪN
Câu 1 (3,0 điểm)
Về kĩ năng
Biết cách làm bài văn nghị luận xã hội, lập luận chặt chẽ, có sức thuyết phục, văn viết mạch lạc, trong sáng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ hoặc đặt câu.
b.Về kiến thức
Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các nội dung cơ bản sau:

  Nội dung Điểm tối đa
1. Giới thiệu câu chuyện và quan niệm sống tích cực mà truyện gợi ra: Sống phải có ước mơ cao đẹp, dám đương đầu với những khó khăn thử thách để thực hiện ước mơ. 0,25 đ
2. Giải thích 0,5đ
  – Tóm tắt thật ngắn gọn truyện: Hạt mầm thứ nhất muốn lớn lên, bén rễ, đâm chồi nảy lộc, nở hoa dịu dàng nên đã mọc lên. Hạt mầm thứ hai sợ đất sâu tối tăm, sợ chồi non bị côn trùng nuốt, sợ trẻ con vặt hoa nên nằm im, chờ đợi, kết cục bị gà mổ tức khắc.
– Mượn câu chuyện hai hạt mầm, tác giả đã nêu lên và khẳng định một quan niệm nhân sinh đúng đắn, tích cực: Con người sống phải có ước mơ (mong muốn những điều tốt đẹp trong tương lai), dám đối đầu với khó khăn để biến ước mơ thành hiện thực và tỏa sáng. Sống không có ước mơ, hèn nhát, sợ hãi, thụ động… chỉ nhận được sự thất bại, thậm chí bị hủy diệt.
 
3 Lí giải vấn đề 1,25 đ
  – Cuộc sống rất đa dạng và phong phú: có cơ hội cho con người lựa chọn nhưng cũng lắm thử thách gian nan. Hành trình sống của con người là không ngừng vươn lên để sáng tạo, in dấu ấn trong cuộc đời. Khó khăn không hoàn toàn là trở lực mà chính là động lực thôi thúc hành động, đạt tới thành công.
– Ước mơ tạo nên bản lĩnh, là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn giúp con người vượt qua khó khăn “xuyên qua đá cứng” để sống và tận hưởng hương vị, vẻ đẹp của cuộc đời; là động lực thôi thúc con người tìm tòi, khám phá, đóng góp sức mình làm cho cuộc sống trở nên tươi đẹp hơn.
– Cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người có ước mơ, khát vọng và nỗ lực vượt khó, chinh phục mọi thử thách để sinh tồn và phát triển.
– Sợ hãi trước cuộc sống, không dám làm bất cứ điều gì, chỉ biết thu mình trong vỏ bọc hèn nhát, thụ động chờ đợi con người sẽ trở nên yếu hèn.
– Cuộc sống không ước mơ, không dám đương đầu với thực tế là cuộc sống vô vị, nhàm chán, sống thừa, sống vô ích, con người sẽ chỉ nhận được thất bại, thậm chí có thể tan biến trong cuộc đời.
(Trong quá trình lí giải cần chọn dẫn chứng minh họa)
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
4. Bàn luận
– Bên cạnh những người có ước mơ, không ngừng vươn lên để sáng tạo, cũng còn không ít người sợ hãi, né tránh gian khổ, khó khăn. Bên cạnh những ước mơ chính đáng, phù hợp với mục tiêu cao đẹp của cộng đồng cũng còn có ước mơ vụn vặt, tầm thường, vị kỉ.
– Biểu dương những người có ước mơ, có nghị lực vươn lên. Phê phán những người sống không có ước mơ, thụ động, ngại khó ngại khổ, không có ý chí, nghị lực.
(dẫn chứng minh họa)
0,75đ
5 Liên hệ rút ra bài học về nhận thức và hành động. 0,25 đ

 
Câu 2 (7,0 điểm)
Về kĩ năng
– Biết cách làm bài văn nghị luận văn học, bố cục rõ ràng, sử dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận…
– Văn viết mạch lạc, trong sáng, có cảm xúc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.
Về kiến thức
Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các nội dung cơ bản sau:

  Nội dung Điểm
1 Giới thiệu được vấn đề nghị luận và truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao, bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng. 0,5đ
2 Giải thích ý kiến 1,5đ
  – Giải thích từ ngữ
+ “Cuộc thám hiểm thực sự”: Quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc,   gian khổ và đầy bản lĩnh của nhà văn để sáng tạo nên tác phẩm đích thực.
+ “Vùng đất mới”: Hiện thực đời sống chưa được khám phá (đề tài mới).
+ “Đôi mắt mới”: Cái nhìn, cách cảm thụ con người và đời sống mới mẻ.
→ Hàm ý câu nói: Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, điều cốt yếu là nhà văn phải có cái nhìn và cách cảm thụ độc đáo, giàu tính phát hiện về con người và đời sống.
– Bàn luận
+ Để tạo nên tác phẩm nghệ thuật đích thực, nhà văn phải có tài năng, tâm huyết, có bản lĩnh và phải biết lao động nghệ thuật nghiêm túc, gian khổ giống như“cuộc thám hiểm thực sự”. Nếu dấn thân vào“vùng đất mới” mà nhà văn không có cách nhìn, cách cảm thụ đời sống mới mẻ thì cũng không thể tạo nên tác phẩm nghệ thuật có giá trị đích thực.
+ Dù viết về đề tài đã cũ nhưng bằng cái nhìn độc đáo, giàu tính khám phá, phát hiện, nhà văn vẫn thấu suốt bản chất đời sống, mang lại cho tác phẩm giá trị tư tưởng sâu sắc.
+ Nếu nhà văn có“đôi mắt mới”, biết nhìn nhận con người và đời sống giàu tính khám phá, phát hiện lại tiếp cận với một“vùng đất mới”, thì sức sáng tạo của nhà văn và giá trị của tác phẩm càng độc đáo, càng cao. Vì thế, coi trọng vai trò quyết định của“đôi mắt mới” nhưng cũng không nên phủ nhận ý nghĩa của“vùng đất mới” trong thực tiễn sáng tác.
+ Để có cái nhìn và cách cảm thụ độc đáo nhà văn phải bám sát vào hiện thực đời sống; trau dồi tài năng, bản lĩnh (sự tinh tế, sắc sảo…); bồi dưỡng tâm hồn (tấm lòng, tình cảm đẹp với con người và cuộc đời…); xác lập một tư tưởng, quan điểm đúng đắn, tiến bộ.
           (Trong quá trình bàn luận có thể lấy dẫn chứng minh họa)
 
4. Phân tích, chứng minh 4,5đ
   – Truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao
+ Đề tài: Cuộc sống của người nông dân nghèo Việt Nam thời kì trước Cách mạng tháng Tám. Đây là đề tài quen thuộc, được nhiều nhà văn khai thác và đã xây dựng được những hình tượng điển hình như trong: Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan),…
+ Cũng viết về cuộc sống của người nông dân thời kì trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao không chỉ đề cập đến nỗi khổ đau về vật chất của người nông dân mà còn xoáy sâu vào bi kịch tinh thần đau đớn: Bi kịch bị tha hóa, bị cự tuyệt quyền sống làm người lương thiện.
+ Nhà văn trân trọng phát hiện phẩm chất tốt đẹp của con người. Khẳng định bản chất lương thiện của con người không bao giờ mất đi cho dù họ có bị hủy hoại và tàn phá cả nhân hình lẫn nhân tính…
– Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng
Khác với các thi sĩ cùng thời, khi viết về đề tài người lính (anh bộ đội Cụ Hồ) thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, Quang Dũng thể hiện một cách nhìn mới, một“đôi mắt mới”:
         + Nhà thơ không né tránh hiện thực mà nhìn thẳng vào cuộc chiến khốc liệt để làm nổi bật những hi sinh, mất mát.
+ Con đường Tây Tiến hiện ra vừa dữ dội, hùng vĩ vừa thơ mộng, mĩ lệ một thời.
+ Bức tượng đài người lính Tây Tiến (xuất thân từ tầng lớp trí thức Hà Nội) hào hoa, lãng mạn, đậm tinh thần bi tráng.
– Đánh giá khái quát
Nếu có“đôi mắt mới”, cách nhìn mới thì cho dù có viết về“vùng đất cũ” nhà văn vẫn tạo ra được những áng thơ, thiên truyện độc đáo, có giá trị, có phẩm chất và cốt cách văn học, có sức lay động lòng người, có khả năng sống mãi với thời gian.
2,0đ
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
2,0đ
 
 
 
 
 
 
 
 
 
0,5đ
4. Kết luận vấn đề 0,5đ

 
ĐỀ SỐ 19
 
Câu 1 (8,0 điểm):
Anh Hai
(Lý Thanh Thảo)
Ăn thêm cái nữa đi con!
Ngán quá, con không ăn đâu!
Ráng ăn thêm một cái, má thương. Ngoan đi cưng!
Con nói là không ăn mà. Vứt đi! Vứt nó đi!
Thằng bé lắc đầu quầy quậy, gạt mạnh tay. Chiếc bánh kem văng qua cửa xe rơi xuống đường sát mép cống. Chiếc xe hơi láng bóng rồ máy chạy đi.
Hai đứa trẻ đang bới móc đống rác gần đó, thấy chiếc bánh nằm chỏng chơ xô đến nhặt. Mắt hai đứa sáng rực lên, dán chặt vào chiếc bánh thơm ngon. Thấy bánh lấm láp, đứa con gái nuốt nước miếng bảo thằng con trai:
Anh Hai thổi sạch rồi mình ăn.
 Thằng anh phùng má thổi. Bụi đời đã dính, chẳng chịu đi cho. Đứa em sốt ruột cũng ghé miệng thổi tiếp. Chính cái miệng háu đói của nó làm bánh rơi tõm xuống cống hôi hám, chìm hẳn.
Ai biểu anh Hai thổi chi cho mạnh – Con bé nói rồi thút thít.
Ừa. Tại anh! Nhưng kem còn dính tay nè. Cho em ba ngón, anh chỉ liếm hai ngón thôi!
(Trích “Bốn mươi truyện rất ngắn”, NXB Hội nhà văn 1994)
Câu chuyện trên gợi cho anh (chị) suy nghĩ gì?
Câu 2 (12 điểm):
Thơ là thơ đồng thời là hoạ, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng
                                                                                              (Sóng Hồng)
Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
HƯỚNG DẪN
Câu 1 (8,0 điểm):
Yêu cầu về kĩ năng:
Biết cách làm một bài nghị luận xã hội đúng và trúng yêu cầu của đề bài. Bài viết có bố cục rõ ràng mạch lạc, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục, không sai các loại lỗi.
Yêu cầu về kiến thức:
Có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải đảm bảo các ý cơ bản sau:
* Nêu vấn đề nghị luận.
* Giải quyết vấn đề nghị luận:
– Phân tích ngắn gọn ý nghĩa của câu chuyện:
+ Thí sinh có thể hiểu, cảm nhận câu chuyện ở những vấn đề sau: vấn đề giàu nghèo, đồng cảm và chia sẻ, đặc biệt là tình cảm anh em ruột thịt…
+ Câu chuyện cho ta một bài học sâu sắc về tình người: lòng yêu thương, sự đùm bọc, nhường nhịn, chia sẻ.
– Bàn luận:
+ Tình cảm anh em ruột thịt là vô cùng thiêng liêng cao đẹp (dù hoàn cảnh nghèo khổ nhưng vẫn thương yêu, đùm bọc nhau…).
+ Thực tế cuộc sống, nhiều người không biết trân trọng tình cảm anh em; vì lợi ích cá nhân mà chà đạp lên những luân thường đạo lí (vì tiền sẵn sàng tranh chấp, bán đứng tình anh em…).
+ Trong xã hội, đôi khi cuộc sống của con người dư thừa về vật chất khiến họ không biết trân trọng những gì mình có.
* Liên hệ bản thân và rút ra bài học.
 
Câu 2 (12,0 điểm):
Yêu cầu về kỹ năng:
Biết làm kiểu bài nghị luận văn học, phân tích, chứng minh văn bản Tây Tiến của Quang Dũng để làm sáng tỏ một vấn đề lí luận văn học. Lập luận chặt chẽ, bố cục rõ ràng, diễn đạt lưu loát có cảm xúc, ngôn ngữ chọn lọc, không mắc các loại lỗi.
Yêu cầu về kiến thức:
Có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau:
* Giới thiệu vấn đề nghị luận.
* Giải thích ý kiến:
Thơ là thơ : Thơ trước hết phải là chính nó, nghĩa là phải mang đầy đủ những đặc trưng riêng khác với bất kì loại hình nghệ thuật nào: truyện, kịch… Thơ là phương thức trữ tình, là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc được thể hiện bằng một cấu tạo ngôn ngữ đặc biệt.
– Thơ đồng thời là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng:
+ Thơ là họa: Họa có nghĩa là hội họa, đặc trưng ngôn ngữ thơ giàu tính tạo hình, thơ có thể gợi lên trong tâm trí người đọc những hình ảnh, chi tiết sống động, chân thực như bản thân sự sống vốn có.
+ Thơ là nhạc: Nhạc là âm nhạc. Ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính. Tính nhạc của thơ thể hiện ở: thể thơ, cách gieo vần, ngắt nhịp, thanh điệu,…
            + Thơ còn là chạm khắc: Khả năng tạo dựng hình khối, đường nét sống động, chân thực của ngôn ngữ thơ ca.
=> Sóng Hồng đã khẳng định tính chất kì diệu của thơ ca: thơ là thơ nhưng thơ còn có màu sắc, đường nét của hội hoạ, thanh âm của âm nhạc và hình khối của chạm khắc. Tuy nhiên, tất cả những biểu hiện ấy phải được thể hiện theo “một cách riêng” nghĩa là nhà thơ phải có phong cách nghệ thuật riêng.
* Chứng minh qua bài Tây Tiến:
– Chất thơ của Tây Tiến:
+ Bài thơ thể hiện cảm xúc mãnh liệt của Quang Dũng: nỗi nhớ đơn vị cũ, nhớ thiên nhiên núi rừng, con người Tây Bắc.
+ Ngôn ngữ thơ hàm súc, đa nghĩa, có tính biểu cảm cao.
Tây Tiến cũng là bài thơ giàu chất hoạ, chất nhạc và điêu khắc:
+ Chất hoạ: Bức tranh thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ, bí ẩn, dữ dội, mà mĩ lệ  thơ mộng trữ tình.
+ Chất nhạc: phép đối, điệp âm, sử dụng từ láy, cách ngắt nhịp, phối thanh Bằng – Trắc… => tạo nên giọng điệu gân guốc, mạnh mẽ khi nói về con đường hành quân gập ghềnh, trắc trở; giọng điệu êm đềm man mác khi nói về thiên nhiên thơ mộng trữ tình; giọng thơ vui tươi, khoẻ khoắn khi tái hiện kỉ niệm về tình quân dân thắm thiết trong đêm liên hoan.
+ Đường nét của điêu khắc: chạm khắc bức tượng đài về người lính Tây Tiến sống động, chân thực, mang vẻ đẹp lẫm liệt, kiêu hùng, hào hoa, lãng mạn mà bi tráng.
– Bài thơ Tây Tiến thể hiện phong cách riêng, độc đáo của Quang Dũng: bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng, hồn thơ bay bổng và ngôn ngữ sáng tạo, tinh tế, tài hoa.
* Đánh giá chung
– Ý kiến của Sóng Hồng đã khẳng định sức sống và vẻ đẹp của thơ ca.
– Bài thơ Tây Tiến xứng đáng là một trong những thi phẩm xuất sắc của nền thi ca cách mạng Việt Nam.
 
ĐỀ SỐ 20
 
Câu 1:
“Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình.”(Đời thừa – Nam Cao)
Từ quan niệm trên, anh /chị hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ về “kẻ mạnh” trong mối quan hệ giữa người và người.
 
Câu 2:
“Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người” (Nguyễn Minh Châu-Phỏng vấn đầu xuân 1986 của báo Văn nghệ)
1.Giải thích ý  kiến trên.
2.Chọn và phân tích một số tác phẩm văn học yêu thích trong chương trình trung học phổ thông môn ngữ văn để làm sáng tỏ ý kiến trên.
 
Đáp án:
Câu 1: (8 điểm)
Viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ về “kẻ mạnh” trong mối quan hệ giữa người và người.
a. Yêu cầu về kĩ năng.
– Nắm phương pháp làm bài văn nghị luận xã hội.
– Bố cục và hệ thống ý sáng rõ.
– Biết vận dụng phối hợp nhiều thao tác nghị luận (giải thích, chứng minh, bình luận… ).
– Văn trôi chảy, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục.
– Không mắc lỗi diễn đạt; không sai lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp; trình bày bài rõ ràng.
b. Yêu cầu về kiến thức.
-Giới thiệu được vấn đề nghị luận.
-Giải thích: (2 điểm)
+Kẻ mạnh không phải là kẻ chứng tỏ sức mạnh bằng những hành động độc ác, chà đạp người khác. Người mạnh là người dùng sức mạnh, khả năng của mình để giúp đỡ, yêu thương người khác. (1 điểm)
+Người mạnh là người có tài năng và biết dùng khả năng, tài năng ấy để gánh vác trách nhiệm, hi sinh, giúp đỡ (bảo bọc, yêu thương, quan tâm, chia sẻ khó khăn … ) người khác. (1 điểm)
-Bình luận: ( 6 điểm)
+Bênh vực kẻ yểu, đó là phẩm chất cao quý đáng được tôn vinh ở “kẻ mạnh” (2 điểm)
+Lên án, phê phán những kẻ sống bất nhân, lấy sức mạnh, tài năng của mình chà đạp người khác. (2 điểm)
(Lưu ý : HS cần có dẫn chứng để làm sáng tỏ ý)
-Bài học nhận thức và hành động:
+Lời nhận định là một phương châm sống cao đẹp, nâng đỡ con người hướng thiện, nói lên trách nhiệm của con người đối với cuộc sống .(1 điểm)
+Rèn luyện lối sống: dùng tài năng, khả năng của mình để làm những việc tốt đẹp.
(1 điểm)
Câu 2: (12 điểm)
Yêu cầu chung về kĩ năng
– Nắm phương pháp làm bài nghị luận văn học.
– Bố cục và hệ thống ý sáng rõ.
– Biết vận dụng phối hợp nhiều thao tác nghị luận (giải thích, chứng minh, bình luận, mở rộng vấn đề… ).
– Văn trôi chảy, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục.
– Không mắc lỗi diễn đạt; không sai lỗi chính tả, dùng từ; trình bày bài rõ ràng.
b. Yêu cầu về kiến thức
1.Giải thích: ( 4điểm)
a.Nhận định đặt ra mối quan hệ giữa văn học và đời sống.
-Nhận định của Nguyễn Minh Châu đã khắc họa thiên chức của văn chương chính là tấm gương phản ánh trung thành hiện thực cuộc sống khách quan qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Dù được sáng tác bằng bất cứ thể loại nào và trong bất cứ thời đại nào, ngòi bút của các nhà văn luôn hướng đến cuộc sống với tất cả những nỗi niềm, dù là vui tươi yêu đời hay đau khổ đến phẫn uất của con người. Đây cũng chính là mảnh đất cội nguồn màu mỡ đã được các nhà văn đào sâu và khai phá tự muôn thuở của văn chương.(1 điểm)
Cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời. (1 điểm)
b.Trong sáng tác văn học tâm điểm là con người.
– Tác phẩn văn học lấy con người làm đối tượng phản ánh thay cho hiện thực đời sống. Mặc dù không phủ nhận văn chương gắn với cái chung, với cộng đồng nhưng ý kiến trên còn muốn thể hiện một quan niệm văn chương trước hết phải là câu chuyện của con người, với muôn mặt phức tạp phong phú với tất cả chiều sâu của nó. (1 điểm)
-Nhà văn có tình yêu thương tha thiết với con người, mang một mối quan hoài thường trực về số phận và những nỗi đau khổ của con người ở xung quanh  mình. Nhà văn muốn dùng ngòi bút của mình tham gia trợ lực cho con người trong cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, đồng thời luôn đặt niềm tin vào con người, ở khả năng thức tỉnh và hướng thiện của mỗi người. Tư tưởng nhân bản là cơ sở vững chắc của mọi tìm tòi, khám phá sáng tạo của nhà văn. (1 điểm)
Chọn một số tác phẩm trong chương trình để làm rõ nhận định trên. ( 8 điểm)
Câu 1 (8 điểm):
Người Do Thái có một chuyện vui cười nói về vai trò của tri thức và của cải như sau: Có hai học giả nói chuyện với nhau. Một người nói: “Tri thức và tiền bạc cái nào quan trọng hơn?” Người kia trả lời: “Tất nhiên là tri thức quan trọng hơn!“. Vị học giả đáp lại: “Vậy tại sao người có tri thức lại phải làm việc cho người giàu có nhiều tiền bạc. Người giàu có lại không phải phục vụ người có tri thức!?”.
Từ câu chuyện trên, trình bày suy nghĩ của anh/ chị về tri thức và tiền bạc trong cuộc sống hôm nay
Câu 2 (12 điểm):
Nhà phê bình văn học người Nga Biêlinxki từng viết:
Tác phẩm văn học sẽ chết nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay niềm vui sướng hân hoan, nếu nó không đặt ra câu hỏi hay trả lời những câu hỏi.”
Anh, chị hiểu như thế nào về ý kiến trên?
Hãy chọn và phân tích một vài tác phẩm đã học trong chương trình Ngữ Văn 11 để làm rõ ý kiến của mình.
—HẾT—
Câu 1 (8 điểm):
Người Do Thái có một chuyện vui cười nói về vai trò của tri thức và của cải như sau: Có hai học giả nói chuyện với nhau. Một người nói: “Tri thức và tiền bạc cái nào quan trọng hơn?” Người kia trả lời: “Tất nhiên là tri thức quan trọng hơn!“. Vị học giả đáp lại: “Vậy tại sao người có tri thức lại phải làm việc cho người giàu có nhiều tiền bạc. Người giàu có lại không phải phục vụ người có tri thức!?”.
Từ câu chuyện trên, trình bày suy nghĩ của anh/ chị về tri thức và tiền bạc trong cuộc sống hôm nay
(Lào Cai)
Kỹ năng
– Nắm chắc thao tác bình luận một vấn đề xã hội.
– Biết vận dụng kiến thức thực tế.
– Bố cục rõ ràng, mạch lạc, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng phong phú, văn có cảm xúc.
Kiến thức
Đây là một vấn đề mang tính chất gợi mở, HS có thể trình bày theo cách riêng của mình. Khuyến khích sự sáng tạo, cá tính của học sinh dựa trên lập luận xác thực, có tính thuyết phục.
Giải thích:
Tri thức: Hệ thống các thông tin, các tài liệu, các cơ sở lý luận, các kỹ năng khác nhau, đạt được bởi một tổ chức hay một cá nhân thông qua các trải nghiệm thực tế hay thông qua sự giáo dục đào tạo. Tri thức giành được thông qua các quá trình nhận thức phức tạp: quá trình tri giác, quá trình học tập, tiếp thu, quá trình giao tiếp, quá trình tranh luận, quá trình lý luận…
– Người có tri thức: là người có trình độ học vấn, có hiểu biết sâu rộng về một  hay nhiều lĩnh vực của cuộc sống, có kiến thức được thu nhận từ sách vở hay cuộc sống.
– Tiền bạc: Chỉ của cải vật chất. Người có tiền bạc được xem là người giàu có, có điều kiện để đáp ứng, thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống, tiền bạc là phương tiện giúp con người có cuộc sống sung túc, thoải mái, tiện nghi…
– Tri thức và tiền bạc đều có vai trò quan trọng trong cuộc sống của mỗi con người. Song yếu tố nào quan trọng hơn, yếu tố nào chi phối yếu tố còn lại là nỗi băn khoăn của 2 vị học giả trong câu chuyện. Lời đáp kết thúc câu chuyện có vẻ nghiêng về vai trò của tiền bạc: Người có tri thức phải làm việc, phục vụ cho người giàu có nhiểu tiền bạc. Tiền bạc có thể sai khiến, điều khiển cả tri thức.
Bình luận, chứng minh:
Không thể phủ nhận vai trò của cả tri thức và tiền bạc trong cuộc sống của con người, chúng đều là những yếu tố con người tự cổ chí kim muốn được sở hữu, và làm đầy thêm.
+ Vai trò của tiền bạc: Tiền bạc là phương tiện, là công cụ để thỏa mãn những nhu cầu vật chất và cả tinh thần của con người, của cải tiền tài giúp cho con người có được cuộc sống đầy đủ, thoải mái, tiện nghi, người nắm trong tay tiền bạc có thể làm được nhiều việc thiện ích cho mình và cho người. Nhu cầu có được sự giàu có về vật chất, tiền bạc là nhu cầu, mong muốn chính đáng của con người. Để có được của cải , tiền bạc cho bản thân, con người phải nỗ lực học tập, lao động… không ngừng để biến tri thức, kỹ năng, sự cần cù, sáng tạo của mình thành tiền tài vật chất cụ thể phục vụ cho cuộc sống của bản thân.
+ Vai trò của tri thức: Tri thức không chỉ là sở hữu của cá nhân, nó là kết quả tích lũy của cả loài người trong hàng ngàn năm tiến hóa và phát triển, dựng xây. Tri thức giúp mỗi con người có hiểu biết, có thể lý giải được các hiện tượng khi đối diện với tự nhiên, xã hội…do đó giúp con người có thể  tồn tại, phát triển. Tri thức giúp nhân loại tạo nên những phát minh vĩ đại, những thành quả lớn lao.. Tri thức giúp cho chúng ta có thể thực hiện những ước mơ, hoài bão của bản thân; giúp chúng ta tự tin khi đối diện với những khó khăn. Ngược lại, không có tri thức hoặc không chịu tích lũy tri thức sẽ khiến cho con người trở nên lạc hậu, gặp khó khăn, thất bại trong cuộc sống. Tri thức là sức mạnh. Người có tri thức luôn được xã hội kính nể, trọng vọng.
– Tri thức và tiền bạc đều là những tài sản có giá trị. Tri thức là tài sản vô hình và vô giá, không thể đo đếm được. Tiền bạc là tài sản hữu hình và có thể đong đếm được.Tri thức chỉ có thể đầy thêm. Tiền bạc có thể vơi đi. Đầu tư và tri thức không bao giờ thua thiệt. Đầu tư vào tiền bạc nhiều rủi ro. Có tri thức có thể kiếm được tiền bạc. Có tiền bạc chưa chắc đã mua được tri thức. Tiền bạc có thể khiến người khác nể sợ. Tri thức khiến người khác kính phục. Thực chất, tri thức quan trọng hơn tiền bạc như vị học giả thứ nhất khẳng định. Sở dĩ ông ta bị đuối lí trước lập luận hồi đáp của vị học giả thứ hai, bởi vì vị này đã đánh đồng hai khái niệm hoàn toàn khác biệt: Tri thức và người có tri thức, tiền bạc và người giàu có nhiều tiền bạc. Người có tri thức không thể không hiểu giá trị của tiền bạc, nên có thể làm việc cho người giàu có để đem lại lợi nhuận cho bản thân là chuyện đương nhiên. Ngược lại, người giàu có nhiều tiền bạc không đối lập với kẻ có tri thức, ngược lại, chính họ đã biến kho tri thức kinh nghiệm phong phú vô tận của nhân loại trở thành trí tuệ của bản thân mình, họ không chỉ biết giá trị của đồng tiền mà còn biết sử dụng nó để hợp tác với những người có tri thức, biến nó thành vật chất tiền bạc để phục vụ cho bản thân và cộng đồng. Nhờ có tri thức, cao hơn là nhờ có trí tuệ, con người tạo ra của cải vật chất tiền bạc cho bản thân, làm giàu cho xã hội, làm cuộc sống của mình trở nên tiện nghi, xã hội ngày càng hiện đại, văn minh hơn. Bản thân những của cải vật chất phục vụ cho cuộc sống, sinh hoạt của chúng ta ngày hôm nay cũng là sản phẩn của trí tuệ ngày càng trở nên mẫn tiệp, thông thái của con người.
– Bàn bạc, mở rộng, liên hệ thực tế:
+ Tri thức, trí tuệ làm nên giá trị con người chứ không phải tiền bạc. Nhưng con người tiếp thu tri thức, phấn đấu rèn luyện hình thành nên 1 bản lĩnh trí tuệ, nhằm tạo ra tiền bạc, của cải, phục vụ cho bản thân và cộng đồng, thì đó là nguyện vọng, mong muốn đúng đắn, chân chính của mỗi cá nhân.
+ Người giàu có nhiều tiền bạc không hoàn toàn đồng nghĩa với người có trí tuệ được trọng vọng. Bởi vật chất tiền tài họ có được có thể không xuất phát từ lao động chân chính. Tri thức phải gắn liền với nhân cách, sự giàu sang phải gắn liền với đạo đức, điều đó mới tạo nên giá trị của con người thực sự.
+ Phê phán hiện tượng xã hội chạy theo bằng cấp mà không coi trọng trí tuệ thực lực. Lên án những người quá coi trọng đồng tiền, tìm cách làm giàu bất chấp mọi thủ đoạn, sử dụng đồng tiền với mục đích xấu xa…
Bài học nhận thức và hành động:
– Nhận thức đúng đắn vai trò của đồng tiền và tri thức đối với bản thân và xã hội.
– Tích lũy tri thức để làm giàu cho bản thân: cả về trí tuệ, nhân cách và cuộc sống vật chất.
– Kiếm tiền và sử dụng tiền bạc một cách hiệu quả, thiết thực, giúp ích cho bản thân và cộng đồng để trở thành người có trí tuệ và đạo đức chân chính.
III. Biểu điểm.
– Điểm 7 – 8: Bài viết nắm chắc vấn đề, đáp ứng tốt những yêu cấu của kiểu bài nghị luận xã hội, có ý kiến sắc sảo, có kiến thức xã hội phong phú.
– Điểm 5 – 6: Bài viết hiểu vấn đề, biết làm bài nghị luận xã hội, dẫn chứng sinh động, không mắc lỗi.
– Điểm 3 – 4: Hiểu vấn đề nhưng lập luận chưa chặt chẽ, ý vẫn chưa sáng, còn vài lỗi về diễn đạt.
– Điểm 1 – 2 : Hiểu vấn đề lơ mơ, chưa làm rõ quan niệm, chưa chú ý minh hoạ bằng dẫn chứng cụ thể, diễn đạt còn nhiều lỗi.
– Điểm  0 : Không viết gì, hoặc không hiểu gì về đề.
Câu 2 (12 điểm):
Nhà phê bình văn học người Nga Biêlinxki từng viết:
Tác phẩm văn học sẽ chết nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay niềm vui sướng hân hoan, nếu nó không đặt ra câu hỏi hay trả lời những câu hỏi.”
Anh, chị hiểu như thế nào về ý kiến trên?
Hãy chọn và phân tích một vài tác phẩm đã học trong chương trình Ngữ Văn 11 để làm rõ ý kiến của mình.
(Chu Văn An-Hà Nội)
Yêu cầu về kĩ năng:
– Biết cách làm bài nghị luận văn học
– Diễn đạt trong sáng, bố cục rõ ràng, kết cấu chặt chẽ.
Yêu cầu về kiến thức:
Học sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau. Về cơ bản, cần nêu được các ý sau:
Giải thích ( 2 điểm)
Tiếng thét khổ đau, niềm vui sướng hân hoan: sự phong phú và mãnh liệt của cảm xúc.
Đặt ra câu hỏi hay trả lời những câu hỏi: sự sâu sắc trong tư tưởng của tác phẩm trong việc đưa ra và trả lời những câu hỏi trong cuộc sống.
=> Nhận định suy tư về sức sống và sự bất tử của tác phẩm văn học.
Bình luận ( 9 điểm)
a) Vì sao sức sống của tác phẩm văn học lại phụ thuộc vào sự mãnh liệt của cảm xúc?
– Đối tượng phản ánh của văn học là toàn bộ thế giới. Nhưng trung tâm của nó, mối quan tâm hàng đầu của nó vẫn là con người bởi “văn học là nhân học” (M.Gorki). Khi quan tâm đến con người, văn học lại đặt trọng tâm vào thế giới tâm hồn với đủ mọi cung bậc của nó.
→ Tác phẩm văn học là bách khoa toàn thư về thế giới tâm hồn con người. Chính sự phong phú của cảm xúc giải thích vì sao tác phẩm văn học luôn là người bạn tri âm với mỗi con người trong toàn bộ cuộc đời của mình. Nói cách khác, tác phẩm văn học sống với buồn vui của con người và qua đó, văn học tìm thấy sức sống của nó.
– Tác phẩm văn học trước tiên là sang tác, rung động của một cá nhân. Nhưng khi những cảm xúc đó đạt đến giới hạn sâu xa nhất, đến cường độ mãnh liệt nhất (“tiếng thét”, “hân hoan”) thì nó lại tác động tới mẫu số chung của mọi người. Khi ấy, tình cảm riêng của mỗi cá nhân trở thành trải nghiệm chung của con người ở nhiều thế hệ, nhiều thời đại.
→ Sự mạnh mẽ, mãnh liệt trong cảm xúc giúp tác phẩm văn học có khả năng lan truyền và cộng hưởng với cảm xúc của người đọc, tạo ra sức lan tỏa trong không gian, thời gian. Từ đó, làm nên sức sống lâu bền, sự bất tử của tác phẩm văn học.
HS đưa dẫn chứng cụ thể, phù hợp.
b) Vì sao sức sống của tác phẩm văn học lại phụ thuộc vào việc đặt ra câu hỏi hay trả lời những câu hỏi?
– Văn học có thể đặt ra và trả lời những câu hỏi bao quát trên tất cả mọi bình diện khác nhau trong đời sống con người. Tuy nhiên, thấm thía và sâu xa nhất vẫn là về sự tồn tại, sự trải nghiệm của con người trong cuộc đời.
– Trả lời câu hỏi rất quan trọng nhưng nhiều khi và thường khi văn học chỉ là đặt ra những câu hỏi. Vì câu trả lời chỉ có một mà cuộc đời rất nhiều cảnh ngộ, nhiều số phận cho nên khó có câu trả lời trọn vẹn cho tất cả mọi con người. Tuy nhiên, những câu hỏi chung vẫn luôn luôn tồn tại (về tình yêu, về niềm tin,..). Nó giúp mài sắc những cảm nhận của chúng ta về cuộc đời, khơi gợi và đánh thức ở chúng ta những khát vọng sống. Mỗi tác phẩm lớn lại là một câu hỏi lớn.
HS lấy dẫn chứng cụ thể để làm sáng tỏ.
c) Mối quan hệ hai chiều giữa sự phong phú mãnh liệt của cảm xúc với việc đặt ra hay trả lời những câu hỏi trong tác phẩm văn học
– Sự phong phú mãnh liệt của cảm xúc là cội nguồn sâu xa để chúng ta quan tâm tới những câu hỏi, bận tâm về câu hỏi, thôi thúc chúng ta tìm kiếm câu trả lời.
– Sự hiểu biết sâu sắc về thế giới, khả năng biết đặt ra những câu hỏi đã khiến cảm xúc của chúng ta trở nên tinh tế hơn, mãnh liệt hơn.
Mở rộng vấn đề (1 điểm)
Làm thế nào để tác phẩm văn học có một sức sống bất tử?
– Nhà văn: trau dồi vốn sống, sống sâu sắc với thế giới nội tâm của mình, lao động công phu, nỗ lực không ngừng trong hoạt động sáng tạo.
– Bạn đọc: tiếp nhận tác phẩm bằng toàn bộ thế giới tinh thần của mình trên tinh thần đối thoại, đồng sáng tạo với nhà văn.
III. Biểu điểm:
– Điểm 11 – 12: đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trên, bài viết sâu sắc độc đáo, diễn đạt lưu loát, câu văn giàu hình ảnh, cảm xúc.
– Điểm 8 – 10: Nội dung đầy đủ, có thể còn thiếu một vài ý nhỏ, bố cục rõ ràng, diễn đạt trôi chảy, câu văn có hình ảnh, cảm xúc.
– Điểm 5 – 7:  Bài làm còn thiếu ý. Văn chưa hay nhưng rõ ý. Mắc không quá 7 lỗi chính tả, dùng từ, viết câu.
– Điểm 3 – 4: Trình bày ý còn sơ sài, kết cấu không rõ ràng, còn nhiều lỗi diễn đạt (>7 lỗi).
– Điểm 1 – 2: Không hiểu đề, không có kĩ năng nghị luận, mắc quá nhiều lỗi diễn đạt.
Lưu ý: Giám khảo vận dụng linh hoạt biểu điểm. Có thể thưởng điểm cho những bài viết có sáng tạo nếu điểm toàn bài chưa đạt tối đa. Điểm cho lẻ đến 0,25.
 
 
 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *