Luyện đề ôn tập bài Chiếc thuyền ngoài xa theo đoạn

 CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA 

                                                                       NGUYỄN MINH CHÂU

 

Đoạn 1:

       “Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. Một người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền. Họ phải lội qua một quãng bờ phá nước ngập đến quá đầu gối. Bất giác tôi nghe người đàn ông nói chõ lên thuyền như quát: “Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”.

Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”.

(Trích Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu,Ngữ văn 12, Tập hai,

NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, tr.73)

Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về cách nhìn nhận cuộc sống của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

HƯỚNG DẪN

    Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về cách nhìn nhận cuộc sống của nhà văn Nguyễn Minh Châu.  
  1. Giới thiệu được tác giả, tác phẩm, nêu vấn đề cần nghị luận  
– Nguyễn Minh Châu là nhà văn khoác người lính- người lính viết văn. Ông rất thành công với nhiều tác phẩm mang cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi trước 1975; sau 1975 lại tiếp tục sáng tác với nhiều trăn trở về cách khám phá hiện thực cũng như phương thức thể hiện. Nhờ những nỗ lực không ngừng của một người lao động nghệ thuật dũng cảm và đầy bản lĩnh, Nguyễn Minh Châu đã có mặt trong hàng ngũ những nhà văn tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học.

– Chiếc thuyền ngoài xa xuất hiện vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX. Truyện ngắn là thành công mới trong phong cách tự sự triết lý.

– Khái quát về nội dung của đoạn đầu (phát hiện thứ hai của nghệ sĩ Phùng).

 
  2. Cảm nhận phát hiện thứ hai của nghệ sĩ Phùng  
2.1. Khái quát chung

– Chiếc thuyền ngoài xa (1983) rút ra từ tập truyện ngắn cùng tên (in 1987). Đây là một trong những truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu mang đậm phong cách tự sự – triết lí của nhà văn.

– Với ngôn từ dung dị, đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của người nghệ sĩ đó về nghệ thuật – cuộc đời.

– Đoạn trích thuộc phần đầu của truyện, là cuộc gặp gỡ giữa người nghệ sĩ nhiếp ảnh với gia đình ngư dân rất tình cờ, bất ngờ, diễn ra nhanh, giàu kịch tính: Người chồng tàn nhẫn, vũ phu, người vợ cam chịu, đứa con trai phản ứng gay gắt Phùng ngạc nhiên, bất ngờ, ngỡ ngàng. Tình huống diễn ra dồn dập rồi tất cả biến mất như” trong truyện cổ đầy quái đản”.

 
2.2. Nội dung:

– Khi còn thuyền đâm thẳng vào bờ, bước ra từ con thuyền đẹp như mơ là hình ảnh người đàn bà thô kệch, mệt mỏi; người đàn ông cao lớn dữ dằn; và một cảnh tượng tàn nhẫn: người đàn ông đánh vợ một cách dã man…

– Sự cam chịu nhẫn nhục đến mức vô lí của người đàn bà: không khóc, không chống trả, không tìm cách chạy trốn.

– Phản ứng dữ dội của cậu con trai: đánh lại bố…

– Thái độ của nghệ sĩ Phùng: ngạc nhiên đến kinh ngạc, sững sờ, dường như không thể tin, vứt máy ảnh chạy tới…

=> Bức tranh bạo lực gia đình đã hoàn toàn thay thế cho bức tranh chiếc thuyền ngoài xa bồng bềnh trên biển sớm mờ sương.

2.3. Nghệ thuật

– Nhà văn kết hợp hai phương thức tả và kể, lời người kể chuyện và lời nhân vật đan xen biến hóa.

– Nhân vật được khắc họa qua ngoại hình, cử chỉ, hành động và ngôn ngữ.

 
3. Nhận xét cách nhìn nhận cuộc sống của nhà văn  
– Cuộc sống vốn phức tạp, bản chất  và hiện tượng không phải bao giờ cũng là một, thậm chí mâu thuẫn đối lập.

– Nghệ thuật thường đẹp bởi được quan sát từ xa trong khi hiện thực cuộc đời bao giờ cũng rất gần và thường là hiện thực khắc nghiệt, phũ phàng…

– Chúng ta đừng bao giờ đơn giản, một chiều, phiến diện khi nhìn nhận cuộc sống và con người

 

 

Đoạn 2

 

      “Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, c…. Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát”.

(Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu,

SGK Ngữ văn 12, NXBGD 2008, tr 72-73)

Cảm nhận phát hiện của nghệ sĩ Phùng được thể hiện ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét tình huống nhận thức trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

HƯỚNG DẪN

 

    Cảm nhận phát hiện của nghệ sĩ Phùng được thể hiện ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét tình huống nhận thức trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu  
  1. Giới thiệu được tác giả, tác phẩm, nêu vấn đề cần nghị luận  
– Nguyễn Minh Châu là nhà văn khoác người lính- người lính viết văn. Ông rất thành công với nhiều tác phẩm mang cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi trước 1975; sau 1975 lại tiếp tục sáng tác với nhiều trăn trở về cách khám phá hiện thực cũng như phương thức thể hiện. Nhờ những nỗ lực không ngừng của một người lao động nghệ thuật dũng cảm và đầy bản lĩnh, Nguyễn Minh Châu đã có mặt trong hàng ngũ những nhà văn tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học.

– Chiếc thuyền ngoài xa xuất hiện vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX. Truyện ngắn là thành công mới trong phong cách tự sự triết lý.

– Đoạn trích Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng(…)lảo đảo ngã dúi xuống cát diễn tả phát hiện của nhân vật Phùng, làm nên thành công nghệ thuật tạo tình huống nhận thức của Nguyễn Minh Châu.

 
  2. Cảm nhận phát hiện thứ hai của nghệ sĩ Phùng  
2.1. Khái quát chung

– Chiếc thuyền ngoài xa (1983) rút ra từ tập truyện ngắn cùng tên (in 1987). Đây là một trong những truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu mang đậm phong cách tự sự – triết lí của nhà văn.

– Với ngôn từ dung dị, đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của người nghệ sĩ đó về nghệ thuật – cuộc đời.

– Đoạn trích thuộc phần đầu của truyện, kể lại bức tranh đời sống mà nhiếp ảnh Phùng trực tiếp chứng khi chiếc thuyền vào đến bờ.

 
2.2. Nội dung:

– Giới thiệu sơ lược về tình huống truyện và phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ Phùng

+ Tình huống được xây dựng trong truyện là tình huống nhận thức.

+ Phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ Phùng là phát hiện về nghệ thuật đầy thơ mộng, lãng mạn.

– Phát hiện (thứ hai) của nghệ sĩ Phùng trong văn bản:

+ Ngược lại với phát hiện trước đó, khi khoảng cách giữa Phùng và chiếc thuyền đã thu hẹp lại, Phùng lần lượt chứng kiến những cảnh tượng vô cùng đau lòng: Cảnh gã đàn ông hàng chài ra sức đánh người vợ khốn khổ một cách tàn bạo, dã man và cảnh thằng Phác – con trai gã đàn ông – chạy tới giật chiếc thắt lưng từ tay cha nó, vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần của cha để che chở cho người mẹ đáng thương.

+ Những cảnh tượng đó khiến cảm giác, cảm xúc trong Phùng hoàn toàn thay đổi: Không còn thấy hạnh phúc tràn ngập tâm hồn nữa mà kinh ngạc, đau lòng, nhận ra ngay sau cảnh đẹp của chiếc thuyển ngoài xa là sự bạo hành của cái xẩu, cái ác.

+ Phát hiện thứ hai của nghệ sĩ nhiếp ảnh đầy nghịch lí. Nó bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. Đó chính là phát hiện về cuộc đời – một- cuộc đời thực trần trụi, đau đớn.

=> Với phát hiện (thứ hai) này, Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm một thông điệp: Nghệ thuật đích thực không thể xa rời cuộc đời, dù cuộc đời đó có đau đớn, trần trụi và mỗi người, đặc biệt là người nghệ sĩ không nên nhìn nhận cuộc sống từ một phía mà phải nhìn từ nhiều phía, nhiều góc độ để cảm nhận được nhiều hơn về nó.

2.3. Nghệ thuật

Thông điệp đó được thể hiện sâu sắc qua tình huống truyện độc đáo, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống và lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa.

 
3. Nhận xét tình huống nhận thức trong tác phẩm.  
– Biểu hiện: Đó là tình huống nhân vật Phùng đang trong những giây phút thăng hoa của cảm xúc, bất ngờ chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ một cách vô lí, dã man. Từ đây, nhận thức, suy nghĩ về con người, về cuộc sống của Phùng có những thay đổi: từ chỗ khám phá cái đẹp của bức tranh thiên nhiên qua cảnh chiếc thuyền ngoài xa, anh đã phát hiện ra những nghịch lí của cuộc đời, để rồi cuối cùng nhận thức được nhiều điều:những vấn đề đầy nghịch lí, nghịch lí giữa cái đẹp của nghệ thuật với sự trần trụi, bi đát của cuộc sống hiện thực. Nghịch lí giữa người vợ tốt bị hành hạ nhưng vẫn không bỏ chồng, nghịch lí giữa sự vũ phu tàn bạo của anh hàng chài với vợ nhưng không bỏ vợ.

– Ý nghĩa:Với tình huống của truyện, nhà văn đã đặt ra một vấn đề rất quan trọng để người đọc suy nghĩ, đó là mối quan hệ giữa văn chương, nghệ thuật với cuộc sống. Nghệ thụật là một cái gì xa vời như chiếc thuyền ngoài xa trong màng sương sớm mờ ảo, còn cuộc sống thì rất cần như con thuyền khi đã vào tới bờ. Hay nói một cách khác, Nguyễn Minh Châu cho rằng nghệ thuật trước hết phải gắn liền với cuộc sống, phải phản ánh chân thật cuộc sống và góp phần cải tạo cuộc sống, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.

 

Đoạn 3

      “Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết làm thế nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền giang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát. Rồi lão lẳng lặng bỏ đi về phía bờ nước để trở về thuyền. Không hề quay mặt nhìn lại, chỉ có tảng lưng khum khum và vạm vỡ càng có vẻ cúi thấp hơn, nom lão như một con gấu đang đi tìm nguồn nước uống, hai bàn chân chữ bát để lại những vết chân to và sâu trên bãi cát hoang vắng.

          Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã.

        – Phác, con ơi!

         Miệng mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy. Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt, nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”.

(Trích Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu)

Cảm nhận bi kịch của gia đình người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên. Từ đó, rút ra thông điệp mà nhà văn Nguyễn Minh Châu gửi gắm qua câu chuyện.

HƯỚNG DẪN

 

    Cảm nhận bi kịch của gia đình người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên. Từ đó, rút ra thông điệp mà nhà văn Nguyễn Minh Châu gửi gắm qua câu chuyện.  
  1. Giới thiệu được tác giả, tác phẩm, nêu vấn đề cần nghị luận  
– Nguyễn Minh Châu là nhà văn khoác người lính- người lính viết văn. Ông rất thành công với nhiều tác phẩm mang cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi trước 1975; sau 1975 lại tiếp tục sáng tác với nhiều trăn trở về cách khám phá hiện thực cũng như phương thức thể hiện. Nhờ những nỗ lực không ngừng của một người lao động nghệ thuật dũng cảm và đầy bản lĩnh, Nguyễn Minh Châu đã có mặt trong hàng ngũ những nhà văn tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học.

– Chiếc thuyền ngoài xa xuất hiện vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX. Truyện ngắn là thành công mới trong phong cách tự sự triết lý.

 
  2. Cảm nhận bi kịch của gia đình người đàn bà hàng chài  
2.1. Khái quát chung

– Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng tìm đến vùng ven biển miền Trung (Trung trung bộ), nơi vốn là chiến trường cũ của anh, để chụp những tấm ảnh phục vụ cho chủ đề thuyền và biển của bộ lịch năm sau. Về lại mảnh đất một thời gắn bó trong cuộc sống đời thường, người nghệ sỹ đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của cuộc sống của người dân làng chài. Sau bao ngày săn ảnh, Phùng đã chớp được một cảnh kì diệu về chiếc thuyền ngoài xa đang thu lưới trong biển sớm mờ sương.

 
2.2. Nội dung:

– Khi chiếc thuyền tiến thẳng vào, Phùng nhìn thấy bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ kia là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cảnh bạo hành gia đình.

+ Thằng Phác muốn bảo vệ mẹ lao vào bố một cách bản năng. Thằng Phác bị bố cho một cái bạt tai khiến nó ngã dúi mặt xuống cát. Phác là nạn nhân bị tổn thương về tình cảm, lệch lạc, méo mó về nhân cách. Hành vi của thằng bé là hoang dại – một mặt đó là hệ quả tất yếu của nạn bạo hành trong gia đình, mặt khác lại thêm dầu vào lửa khiến cho người cha càng điên khùng, quẫn bách hơn, làm cho người mẹ càng bị tổn thương nặng nề hơn (bà đã phải đau đớn vái lạy con mình).

+ Người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy. Thằng bé Phác vẫn chẳng hề hé răng, lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt. Cử chỉ ấy đã cho thấy nhân vật này: cảm thương và ái ngại thay cho người mẹ; muốn được chia sẻ và xoa dịu nỗi khổ đau của người mẹ; sẵn lòng che chở, bênh vực mẹ trước nạn bạo hành.

+ Chỉ bằng vài nét miêu tả ngoại hình về gã đàn ông hàng chài, khi chiếc thuyền đâm thẳng vào bờ, nhà văn đã cho ta biết được cuộc sống đói nghèo, lam lũ, chật chội quẩn quanh hằn in lên dáng vẻ khắc khổ của ông ta: Ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Tảng lưng khum khum và vạm vỡ càng có vẻ cúi thấp hơn, nom lão như một con gấu đang đi tìm nguồn nước uống, hai bàn chân chữ bát để lại những vết chân to và sâu trên bãi cát hoang vắng.

+ Chính hoàn cảnh sống nghèo khó, không lối thoát đã làm cho ông ta thay đổi tâm tính trở thành kẻ vũ phu và coi cái việc đánh vợ con như một sự giải tỏa nỗi ẩn ức, bế tắc trong lòng mình. Người đàn ông này vừa đáng trách nhưng cũng thật đáng thương. Cuộc sống lam lũ làm con người trở nên bế tắc, hành động cùng quẫn.

+ Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã. – Phác, con ơi! Miệng mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy. Người đàn bà hàng chài cảm thấy xấu hổ, nhục nhã, đau đớn khi để con mình phải chứng kiến cảnh ấy. Ôm chầm lấy con, chị lo sợ con cái bị tổn thương. Chắp tay vái lấy vái để xin nó đừng vì thương mình mà trở thành đứa con bất hiếu với cha, làm trái với luân thường đạo lí. Chị là hiện thân cho kiếp người bất hạnh bị cái đói khổ, cái ác và số phận đen đủi dồn đến chân tường, nỗi đau chồng lên nỗi đau.

2.3. Nghệ thuật

– Nghệ thuật trần thuật khách quan, gần gũi, chân thực (kể qua lời nhân vật trong tác phẩm).

– Giọng điệu chiêm nghiệm, suy tư phù hợp với nhận thức.

 
3. Nhận xét thông điệp nhà văn Nguyễn Minh Châu gửi gắm qua câu chuyện  
– Nguyễn Minh Châu cho chúng ta thấy đằng sau bức tranh thuyền và biển tuyệt diệu là cuộc đời đầy khắc nghiệt với những mảnh đời tội nghiệp. Nhà văn muốn thể hiện cái đẹp của nghệ thuật dễ nắm bắt hơn cái đẹp của cuộc sống. Vì cái đẹp của cuộc sống cần có thêm hạnh phúc và tình thương. Và đôi cánh khi cái đẹp của ngoại cảnh làm khuất lấp cái xấu tồn tại ở đời sống.

– Cuộc đời không đơn giản xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí với những mảng sáng tối, xấu đẹp, thiện ác, thật giả. Quan trọng là chúng ta đừng nhầm lẫn giữa hình thức bên ngoài và bản chất bên trong, chúng ta phải có cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống. Nghệ thuật vốn nảy sinh từ cuộc đời nhưng cuộc đời không phải bao giờ lúc nào cũng đẹp như nghệ thuật.

 

Đoạn 4

      “Trong phút chốc, ngồi trước mặt chúng tôi lại vẫn là một người đàn bà lúng túng, đầy sợ sệt, nhưng có vẻ thông cảm với chúng tôi hơn. Mụ bắt đầu kể:

– Từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa….– Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười – vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”.

(Trích Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12,

Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr.75 – 76)

Cảm nhận của anh/chị quá trình chuyển biến nhận thức của nhân vật Phùng trong đoạn trích trên. Từ đó, đánh giá bài học nhân sinh của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

HƯỚNG DẪN

    Cảm nhận của anh/chị quá trình chuyển biến nhận thức của nhân vật Phùng trong đoạn trích trên. Từ đó, đánh giá bài học nhân sinh của nhà văn Nguyễn Minh Châu.  
  1. Giới thiệu được tác giả, tác phẩm, nêu vấn đề cần nghị luận  
– Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới với phong cách nghệ thuật mang tính tự sự – triết lí.

– Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự triết lí của Nguyễn Minh Châu. Với ngôn từ dung dị đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng và những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời. Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập “Bến quê” (1985), sau được đưa vào tuyển tập truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” (1987).

– Phùng là một trong những nhân vật chính của tác phẩm. Đây là kiểu nhân vật tư tưởng, có quá trình thức tỉnh, bừng ngộ về nhận thức. Đoạn trích kể về câu chuyện của người đàn bà hàng chài tại toà án huyện và quá trình suy tư, chiêm nghiệm của nhân vật Phùng. Từ đó thể hiện những nhận thức sâu sắc, đa chiều của người nghệ sĩ về nghệ thuật, cuộc sống, con người.

 
  2. Cảm nhận  
2.1. Khái quát chung

Ban đầu, ở toà án huyện, khi người đàn bà hàng chài từ chối sự giúp đỡ, cũng như mới nghe một phần câu chuyện, Phùng đã bộc lộ cái nhìn đơn giản, phiến diện, chưa thực sự thấu hiểu hết về cuộc sống, con người. Nhưng sau đó, tiếp tục lắng nghe câu chuyện, lời kể, lí lẽ của chị, Phùng đã bừng ngộ về nhận thức, có cái nhìn đa chiều và những chiêm nghiệm sâu sắc, tiệm cận đến chân lí về nghệ thuật, cuộc đời, con người.

 
2.2. Nội dung:

– Về người đàn bà hàng chài:

+ Ban đầu, trong những khoảnh khắc khi chị mới đến toà án huyện, hiện lên trước mắt Phùng là một người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục, lạc hậu, thiếu hiểu biết. Với bộ điệu, dáng vẻ lúng túng, đầy sợ sệt, người đàn bà không chỉ cầu xin không phải bỏ chồng mà chị còn kể lại hoàn cảnh sống của mình: “Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu… Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ… Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão… đưa tôi lên bờ mà đánh…”. Thoạt đầu mới nghe, Phùng đã thốt lên không thể nào hiểu được. Đó là sự cam chịu đến mức vô lí, mù quáng của người đàn bà hàng chài mà anh không thể giải thích và chấp nhận được. Điệp khúc không thể nào hiểu được lặp lại hai lần cho thấy sự ngạc nhiên cao độ, sự bất bình của Phùng trước những điều vô lí trong hành động của người phụ nữ bất hạnh.

+ Sau đó, Phùng tiếp tục lắng nghe, suy ngẫm về những tâm tư, lí lẽ, lời giải thích của người đàn bà hàng chài: các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông; đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa; đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được; ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.

=> Từ đó, anh đã có sự chuyển biến, bừng ngộ trong nhận thức:

      + Phùng hiểu ra nguyên nhân vì sao chị không chịu bỏ chồng, vì sao chị cam chịu, nhẫn nhục khi bị bạo hành. Sự thừa nhận đầy chua chát của Đẩu “Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, – bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, – trên thuyền phải có một người đàn ông… dù hắn man rợ, tàn bạo?”cũng chính là sự thức tỉnh, bừng ngộ của Phùng. Giờ đây, anh đã hiểu ra rằng chị cần một người đàn ông chèo chống khi phong ba bão tố, để làm ăn nuôi nấng đàn con; anh nhận thức được những nghịch lí, bất công trong cuộc đời mà người đàn bà hàng chài phải chấp nhận.

    Phùng phát hiện ra vẻ đẹp khuất lấp, hạt ngọc lấp lánh ẩn sâu trong tâm hồn người đàn bà hàng chài. Đằng sau một người phụ nữ nghèo khổ, thô kệch, cam chịu, nhẫn nhục là vẻ đẹp cao quý của người mẹ giàu đức hi sinh, có tình thương con vô bờ bến; vẻ đẹp của một người vợ vị tha, bao dung, độ lượng; vẻ đẹp của người phụ nữ sắc sảo, từng trải, thấu hiểu lẽ đời, có bản lĩnh sống khoẻ khoắn kiên cường và biết chắt chiu từng khoảnh khắc hạnh phúc bình dị đời thường.

– Về lão đàn ông hàng chài:

+ Ban đầu, trong nhận thức của Phùng, hắn là một người chồng vũ phu, tàn bạo. Phùng đã lí giải tính cách, hành động độc ác của lão ta với cái nhìn phiến diện, mang tính thiên kiến giai cấp khi cho rằng đó là sản phẩm, tàn dư của lính nguỵ . Anh đã hỏi một câu như lạc đề: “Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không?”. Câu hỏi đó bộc lộ quan điểm, cái nhìn đơn giản, thậm chí chưa đúng đắn về con người và hiện thực cuộc sống vốn dĩ đầy phức tạp.

+ Sau đó, khi nghe lời bênh vực của người đàn bà hàng chài đối với chồng, Phùng có cái nhìn đa chiều, đúng đắn hơn. Anh hiểu ra rằng: nguyên nhân tạo nên tính cách vũ phu, căn nguyên dẫn đến hành động bạo hành vợ là do hoàn cảnh gia đình túng quẫn, nghèo đói triền miên, thuyền chật con đông, vất vả cực nhọc với cuộc sống mưu sinh. Vì vậy, người đàn ông hàng chài không chỉ là thủ phạm tàn ác đáng bị lên án mà còn là một nạn nhân của hoàn cảnh sống đầy bộn bề, ngổn ngang thời hậu chiến.

– Về cuộc sống:

+ Ban đầu:

++ Phùng chưa thấu hiểu hết cuộc sống mưu sinh vất vả của người dân hàng chài trên biển cả đầy sóng gió. Anh nhận thức rất đơn giản về hiện thực cuộc sống. Ở đây, tác giả đã để cho nhân vật Đẩu hỏi người đàn bà hàng chài: “Vậy sao không lên bờ mà ở”. Sự nhận thức của Đẩu cũng chính là nhận thức của Phùng. Họ cứ nghĩ rằng lên bờ ở cố định một chỗ sẽ thoát khỏi sóng gió biển khơi, thoát khỏi cảnh nghèo khổ, túng quẫn, bấp bênh.

++ Phùng và Đẩu tin rằng li hôn là giải pháp tốt nhất giúp người đàn bà hàng chài thoát khỏi khổ đau; tình thương, thiện chí, pháp luật sẽ bảo vệ được chị, sẽ đem lại sự công bằng cho xã hội.

+ Nhưng sau đó:

++ Khi nghe chị trải lòng “Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!”, Phùng đã nhận ra những khó khăn trong quá trình tìm con đường, cách thức để giúp người dân hàng chài thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu.

++ Phùng cũng hiểu ra li hôn không phải là giải pháp tốt nhất lúc này; tình thương, thiện chí, pháp luật chưa thể giúp người đàn bà hàng chài thoát khỏi bi kịch gia đình. Lời khẩn cầu của chị “Các chú đừng bắt tôi bỏ nó” một lần nữa đã giúp Phùng nhận thức rõ hơn hiện thực đời sống đầy trái ngang. Cuộc sống vốn dĩ phức tạp, chứa đầy nghịch lí mà con người phải chấp nhận để tồn tại; đằng sau cái tưởng chừng vô lí là cái có lí.

++ Qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài, Phùng cũng nhận ra rằng cuộc sống của chị hay của người dân lao động không chỉ có toàn khổ đau, bất hạnh, éo le, mà cũng có lúc được vui vẻ, hoà thuận. Dẫu có đau khổ, nhọc nhằn nhưng chị vẫn tìm tấy niềm vui, hạnh phúc bình dị để trân trọng, nâng niu. Như vậy, cuộc sống thật phong phú, phức tạp và được tạo nên từ nhiều mảnh ghép, mảng màu khác nhau.

– Về nghệ thuật:

+ Ban đầu, khi con thuyền ở ngoài xa, tức là nghệ thuật và người nghệ sĩ còn cách xa với đời sống thì Phùng mới chỉ thấy được cái hình thức bên ngoài với vẻ đẹp nên thơ, sự tuyệt mĩ của nó. Đó là thứ nghệ thuật thuần tuý, duy mĩ, chưa gắn với đời, chưa vì con người. Nhưng lúc ấy, anh tưởng mình đã khám phá được chân lí của sự toàn thiện. Điều đó cho thấy quan niệm đơn giản, phiến diện của phùng về nghệ thuật.

+ Sau đó, khi con thuyền vào gần bờ, đặc biệt con thuyền qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở toà án huyện, tức là nghệ thuật và người nghệ sĩ đã đến gần với cuộc đời thì lúc đó nghệ thuật mới khám phá được chiều sâu, những góc khuất mảng tối của đời sống con người, nhận thức được bản chất của các hiện tượng và tiệm cận đến những chân lí. Phùng nhận thức sâu sắc hơn về sứ mệnh của nghệ thuật và trách nhiệm, lương tâm của người nghệ sĩ: hãy vì con người, vì cuộc đời…

– Về bản thân và về nhân vật ĐẩuQua câu chuyện của người đàn bà ở toà án huyện, Phùng đã nhận thức được cái nhìn ban đầu của mình và của Đẩu về cuộc đời, con người, nghệ thuật còn đơn giản, phiến diện, thậm chí chưa đúng đắn. Lúc này anh hiểu ra rằng: họ là những người sành về nghệ thuật, am hiểu về pháp luật, về lí thuyết sách vở song lại ngây thơ, non nớt, thiếu hiểu biết trước sự phức tạp của cuộc sống mưu sinh, trước thực tế đời sống thời hậu chiến, trước con người lao động. Từ đó, Phùng đã bừng ngộ để tiệm cận đến chân lí, để thấu hiểu nhiều hơn, có những chiêm nghiệm sâu sắc hơn, nhận thức rõ về trách nhiệm của bản thân – trách nhiệm của người nghệ sĩ

2.3. Nghệ thuật

– Cốt truyện, kết cấu độc đáo;

– Xây dựng nhân vật Phùng với quá trình chuyển biến, thức tỉnh về nhận thức.

– Sáng tạo tình huống truyện nghịch lí có ý nghĩa nhận thức.

– Các chi tiết tiêu biểu, hình ảnh giàu tính biểu tượng.

– Ngôn ngữ đời thường, dung dị, song giọng điệu trần thuật đầy tính triết lí

 
3. Nhận xét bài học nhân sinh của nhà văn Nguyễn Minh Châu  
– Qua quá trình chuyển biến nhận thức của nhân vật Phùng, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã mang đến bài học đúng đắn, sâu sắc, toàn diện, mới mẻ về nhân sinh:

+ Cuộc sống, con người vốn dĩ phong phú, kì diệu song phức tạp và đầy nghịch lí. Vì vậy, hãy có cái nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng; không thể nhìn đơn giản, sơ lược, một chiều mang tính lí tưởng hoá.

+ Nghệ thuật và người nghệ sĩ hãy đến gần với cuộc đời, với con người; người nghệ sĩ không chỉ cần có tài năng mà còn cần có tấm lòng yêu thương, dũng cảm đấu tranh chống lại sự bất công, sẵn sàng bảo vệ những con người bất hạnh và đem lại giá trị tốt đẹp cho cuộc sống… Đó chính là nghệ thuật vị nhân sinh, nghệ thuật chân chính, cái tạo nên giá trị đích thực của một tác phẩm, và khẳng định tầm vóc của một tác giả.

– Bài học về cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn đã tạo nên một truyện ngắn xuất sắc, có chiều sâu nhận thức, có giá trị phát hiện bằng những nghịch lí, có quan niệm mới mẻ. Với triết lí nhân sinh đó, Nguyễn Minh Châu xứng đáng là người mở đường tài năng, tinh anh cho văn học Việt Nam thời kì đổi mới; xứng đáng là cây bút bản lĩnh, tài hoa.

 

Đoạn 5

“Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:

– Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…”

(Trích Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, Tập hai,

NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr.75-76)

Cảm nhận của anh/chị về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét ngắn gọn về cách nhìn cuộc sống của nhà văn Nguyễn Minh Châu

HƯỚNG DẪN

 

    Cảm nhận của anh/chị về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét ngắn gọn về cách nhìn cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu (Nhận xét về tình cảm nhân đạo của nhà văn) trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.  
  1. Giới thiệu được tác giả, tác phẩm, nêu vấn đề cần nghị luận  
– Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới với phong cách nghệ thuật mang tính tự sự – triết lí.

– Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự triết lí của Nguyễn Minh Châu. Với ngôn từ dung dị đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng và những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời. Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập “Bến quê” (1985), sau được đưa vào tuyển tập truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” (1987).

 
  2. Cảm nhận về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên.  
2.1. Khái quát chung

Là nhân vật chính để lại nhiều ấn tượng trong lòng bạn đọc với những suy ngẫm về cuộc đời và nghệ thuật

– Được khắc họa qua tình huống nghệ sĩ Phùng đi đến vùng ven biển miền Trung chụp một tấm ảnh cho bộ lịch năm sau theo yêu cầu của trưởng phòng.

+ Sau một tuần phục kích anh đã bắt gặp một cảnh đắt trời cho: một chiếc thuyền ngoài xa trong sương sớm đẹp như tranh vẽ.

+ Khi chiếc thuyền lại gần anh mới biết chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ ấy có một người phụ nữ thường xuyên bị chồng đánh đập nhưng vẫn kiên quyết gắn bó cả cuộc đời với hắn mà không một lời phàn nàn, kêu ca. Người đọc thấy xót xa, cay đắng nhưng cũng vô cùng cảm phục người đàn bà.

 
2.2. Nội dung:

a. Tên gọi

– Chị không hề có tên. Tác giả chỉ gọi chị là người đàn bà một cách phiếm định. Có lẽ đây là một dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Chị cũng giống như hàng trăm nghìn người đàn bà vùng biển nhỏ bé, vô danh, âm thầm. (giống người vợ nhặt).

b. Số phận

– Ngoại hình:

+ Chạc ngoài 40 tuổi, cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ.

+ Gương mặt mệt mỏi, tái ngắt sau một đêm thức trắng kéo lưới và dường như đang buồn ngủ.

=> Lam lũ, vất vả, nhọc nhằn như tất cả những người đàn bà ở vùng biển nơi con người đang hàng ngày phải đối diện với hiểm nguy, với cuộc sống đói khát bấp bênh.

– Hoàn cảnh sống:

+ Nghèo đói, đông con, cả gia đình chen chúc trên một chiếc thuyền chật chội.

+ Thường xuyên bị chồng đánh đập, hành hạ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng, cứ lúc nào thấy khổ quá là lão chồng lại xách vợ ra đánh, dùng thắt lưng quật tới tấp vào lưng vợ, vừa đánh vừa thở hồng hộc, răng nghiến ken két, miệng luôn nguyền rủa chúng mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ.

+ Dù chị đã cố gắng hết sức che chắn xin chồng đừng đánh trên thuyền, trước mắt con cái nhưng rồi những đứa con vẫn biết sự thật, bà vô cùng xấu hổ, đau đớn, tủi nhục.

=> Không chỉ bị hành hạ về thân xác mà còn bị giày vò về tinh thần.

c. Phẩm chất, tính cách

Cam chịu, nhẫn nhục: Khi bị chồng đánh không kêu van, không chống trả, không tìm cách chạy trốn.

Rất tự trọng. Sau khi biết được hành động vũ phu của chồng đã bị thằng Phác và người khách lạ (Phùng) chứng kiến, chị thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã. Và chị đã khóc.

Bao dung, vị tha:

+ Bào chữa cho chồng: bản chất hiền lành, không đánh vợ. Vì cuộc sống túng quẫn mới lấy việc đánh vợ  để giải tỏa nỗi uất ức trong lòng. Người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục, gắng sức chịu đựng để giúp chồng lấy lại thăng bằng mà sống tiếp những ngày tháng cơ cực.

+ Cầu xin vị chánh án  đừng bắt mình phải li hôn với gã chồng thường xuyên hành hạ chị: Con lạy quý toà… Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó.

Thương con, giàu đức hi sinh

+ Chị lo sợ thằng Phác sẽ có những hành động nông nổi với bố, chị đã gửi con cho bố ruột mình nuôi. Không muốn con nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ, chị xin với chồng mỗi lần đánh chị thì lên bờ mà đánh khi không có mặt con. Đó cũng là một cách ứng xử rất nhân bản, chị không muốn làm ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của những đứa con.

+ Chị hiểu được thiên chức của người phụ nữ: Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!. Hoá ra, chị không thể bỏ chồng vì cuộc sống trên thuyền không thể thiếu một người đàn ông trong những lúc phong ba, bão táp, các con chị phải được nuôi nấng, phải được lớn lên. Vì thế chị đành phải lựa chọn một giải pháp mà người ngoài nhìn vào khó lòng chấp nhận. Chị chịu để chồng đánh như thực hiện một nghĩa vụ. Chị chấp nhận những đòn roi như một phần cuộc đời mình, chấp nhận nó như cuộc sống của người đi biển đánh cá phải đương đầu với sóng to, gió lớn vậy.

+ Thương con nên người đàn bà vô cùng đau khổ khi thấy nó vì thương mẹ mà hận bố, chị đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã.

Thấu hiểu lẽ đời

+ Chị xưng hô: quý toà – con tự nhận mình là thân phận thấp hèn. Khi chánh án Đẩu khuyên chị bỏ chồng. Chị cảm ơn Phùng và Đẩu về lời khuyên ấy và khẳng định: Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của những người làm ăn lam lũ, khó nhọ. Chị quả rất hiểu lẽ đời.

+ Không chỉ hiểu mình, chị hiểu cả tấm lòng của những người phụ nữ hàng chài. Họ biết mình đau khổ nhưng vẫn nhẫn nại, hi sinh, bao dung chịu đau khổ để cho đàn con được dưỡng nuôi, khôn lớn. Bởi người phụ nữ hàng chài không thể sống như những người phụ nữ khác, do hoàn cảnh rất riêng của họ, lúc nào cũng sống trên sóng nước, gia đình nào cũng trên dưới chục đứa con. Câu chuyện của chị ở toà án huyện đã mang lại cho chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng những nhận thức mới mẻ mà trước đó họ chưa từng nghĩ tới.

Biết chắt chiu hạnh phúc đời thường. Trong đau khổ triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt chiu được những nhiềm hạnh phúc nhỏ nhoi. Chị nói: trên thuyền cũng có những lúc vợ chồng, con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻvui nhất là khi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no. Chính vì vậy, khi chánh án Đẩu đề nghị chị li hôn với chồng chị đã nhất định không chấp nhận.

=> Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh. Hình như đó là vẻ đẹp riêng của những nhân vật nữ trong sáng tác của NMC. Đó là những hạt ngọc ẩn giấu mà ông tìm thấy trong lấp láp, bùn đất đời thường.

2.3. Nghệ thuật

– Ngôn ngữ kể chuyện linh hoạt, sáng tạo kết hợp với thủ pháp đối lập giữa ngoại hình và nội tâm, giữa một số phận bất hạnh và tấm lòng nhân hậu, bao dung, thương con hơn tất cả mọi thứ trên đời.

 
3. Nhận xét về cách nhìn cuộc sống của nhà văn  
– Biểu hiện:

+  Bằng việc tạo dựng những tương quan đối lập, tác giả/ Nguyễn Minh Châu đã có cái nhìn hiện thực mới mẻ, sâu sắc: hướng tới khám phá hiện thực ở bề sâu, phát hiện bản chất đời sống. Trong cuộc sống đói nghèo, Nguyễn Minh Châu vẫn nhìn thấy ở người đàn bà hàng chài những hạt ngọc tâm hồn .

+ Từ đó, nhà văn đặt ra những vấn đề mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc: Phải nhìn cuộc sống bằng cái nhìn đa diện, nhiều chiều.

+ Qua cái nhìn hiện thực cuộc sống, tác giả đã thể hiện sự đồng cảm, xót thương với những con người bé nhỏ, bất hạnh.

+ Nguyễn Minh Châu nhìn hiện thực với cảm hứng thế sự, bằng cái nhìn đa chiều để khám phá những nghịch lí của đời sống; cách nhìn hiện thực mang phong cách tự sự – triết lí.

– Ý nghĩa: Cách nhìn hiện thực cuộc sống của tác giả đã làm nên giá trị nhân đạo và sức sống của tác phẩm; thể hiện nét đổi mới của văn học sau năm 1975.

 
4. Đánh giá chung  
– Người đàn bà là chân dung thành công của Nguyễn Minh Châu, để lại ấn tượng mạnh trong lòng mọi người. Đó chính là hình ảnh người lao động khổ cực, sống cuộc đời lầm lũi, bình dị nhưng vẫn ngời lên những phẩm chất tốt đẹp.

– Tác phẩm cũng là những đúc kết thấu đáo về nghệ thuật và con người: về con người, phải nhìn nhận đa chiều, đa diện, không nên đánh giá phiến diện, một chiều; về nghệ thuật: nghệ thuật chân chính phải gắn liền với cuộc đời, xuất phát từ cuộc đời và quay trở lại phục vụ cho cuộc đời.

 

Đoạn 6

Khép lại tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu viết:

             “Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi.

          Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bây giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…”

(Trích Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu, SGK Ngữ văn 12, tập 2,

NXB Giáo dục, tr 77,78).

Cảm nhận của anh/ chị về đoạn trích trên. Từ đó nhận xét quan niệm về nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

HƯỚNG DẪN

 

    Cảm nhận của anh/ chị về đoạn trích trên. Từ đó nhận xét ngắn gọn quan niệm về nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu.  
  1. Giới thiệu được tác giả, tác phẩm, nêu vấn đề cần nghị luận  
– Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới với phong cách nghệ thuật mang tính tự sự – triết lí.

– Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự triết lí của Nguyễn Minh Châu. Với ngôn từ dung dị đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng và những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời. Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập “Bến quê” (1985), sau được đưa vào tuyển tập truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” (1987).

– Chi tiết “Tấm ảnh nghệ thuật trong bộ lịch cuối năm” là chi tiết khép lại truyện ngắn, đồng thời cũng là một trong những chi tiết đắt giá nhất thể hiện được quan niệm về cuộc sống và nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, chi tiết có thể khơi dậy những suy tư, chiêm nghiệm của Phùng cũng như người đọc.

 
  2. Cảm nhận giá trị của tấm ảnh đối với công chúng tấm ảnh qua cảm nhận của Phùng  
2.1. Khái quát chung

 

 
2.2. Nội dung:

a. Giá trị của tấm ảnh đối với công chúng:

– Là một bức ảnh rất nghệ thuật – một cảnh đắt trời cho, một vẻ đẹp toàn bích mà có lẽ đời nghệ sĩ khó có thể gặp lần hai.

– Tấm ảnh được bổ sung vào bộ lịch năm ấy, góp phần nâng cao uy tín cho tác giả của tấm ảnh “trưởng phòng rất bằng lòng”; tấm ảnh có giá trị nghệ thuật cao, được mọi người yêu thích, “được treo rất nhiều nơi nhất là các gia đình sành nghệ thuật”. Không những thế, nó còn có giá trị lâu bền “không những cho bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau”.

=> Sự đánh giá cao của công chúng về tấm ảnh xứng đáng với công sức mà Phùng đã bỏ ra sau nhiều ngày “phục kích”. Nhưng, công chúng họ chỉ là những người yêu nghệ thuật một cách thuần túy, chỉ cảm nhận cái đẹp bên ngoài của tấm ảnh, của nghệ thuật.

b. Tấm ảnh qua cảm nhận của Phùng.

– Khác với công chúng, anh – tác giả của bức ảnh không nhìn nhận một cách hời hợt mà luôn băn khoăn, day dứt, nghĩ suy, trăn trở về bức ảnh: “ngắm kĩ”, “nhìn lâu hơn”.

– Mỗi lần nhìn kĩ vào tấm ảnh đen trắng, người nghệ sĩ thấy hiện lên “cái màu hồng hồng của ánh sương mai”: đó là chất thơ, là vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, cũng là biểu tượng của nghệ thuật.

– Nhìn lâu hơn anh thấyhình ảnh “người đàn bà hàng chài đang bước ra khỏi tấm ảnh”. Đó là hiện thân của những lam lũ, khốn khó, của sự thật cuộc đời.

      + Nỗi ám ảnh về người đàn bà hàng chài từ ngoại hình đến số phận “cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm”

      + Đằng sau vẻ lấm láp của đời thường, ở chị hiện lên vẻ đẹp tâm hồn: giàu lòng thương con, giàu đức hi sinh, vị tha, từng trải, sâu sắc, và thấu hiểu lẽ đời.

      + Hình ảnh “Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân chị dẫm lên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…” là biểu hiện của dòng chảy cuộc sống, số phận của nhân vật trở thành một trong những mảnh ghép “không ai nhớ mặt đặt tên” của xã hội.

-> Hình ảnh người đàn bà làng chài đó chính là một hình ảnh rất thực tế về con người Việt Nam sau chiến tranh: đói nghèo, khổ cực, lam lũ.

=> Nhận thức của Phùng rất sâu sắc, rõ rệt về thực trạng cuộc sống con người, đồng thời thể hiện những trăn trở về một giải pháp để thay đổi cuộc sống ấy.

2.3. Nghệ thuật

– Cách tạo tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống.

– Truyện được xây dựng theo kết cấu vòng tròn: mở đầu là đi tìm hình ảnh, kết thúc là ngắm nhìn hình ảnh mà ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm nhằm nhấn mạnh tính triết lí của truyện.

– Giọng văn trầm lắng, suy tư, nhiều dư vị, nhiều liên tưởng bất ngờ.

– Ngôn ngữ linh hoạt, sáng tạo, đậm chất triết lí.

 
3. Nhận xét quan niệm về nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu.  
– Nghệ thuật không thể xa cách với hiện thực nhọc nhằn, cay cực của con người. Nghệ thuật phải dành ưu tiên trước hết cho con người, phải góp phần giải phóng con người khỏi sự cầm tù của đói nghèo, tăm tối và bạo lực. Người nghệ sĩ phải có tấm lòng biết trăn trở về số phận; phải dũng cảm nhìn thẳng vào hiện thực.

– Không những vậy, một tác phẩm nghệ thuật chân chính phải là tác phẩm thể hiện được chiều sâu, bản chất của hiện thực đằng sau cái vẻ ngoài đẹp đẽ, lãng mạn. Để làm được điều đó đòi hỏi người nghệ sĩ phải có cái nhìn đa chiều, sâu sắc, toàn diện về hiện thực, phải có sự trải nghiệm và quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, gian khổ.

 

Đoạn 7

Trong phần kết thúc truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, nhà văn Nguyễn Minh Châu viết:

          Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi.

         Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ , tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…

(Trích Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu,SGK Ngữ văn 12, tập 2,

NXB Giáo dục, tr 77,78)

Cảm nhận của anh/chị về những khám phá, suy ngẫm của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà văn.

HƯỚNG DẪN

  Cảm nhận của anh/ chị về đoạn trích trên. Từ đó nhận xét ngắn gọn quan niệm về nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu.  
  1. Giới thiệu được tác giả, tác phẩm, nêu vấn đề cần nghị luận  
– Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới với phong cách nghệ thuật mang tính tự sự – triết lí.

– Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự triết lí của Nguyễn Minh Châu. Với ngôn từ dung dị đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng và những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời. Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập “Bến quê” (1985), sau được đưa vào tuyển tập truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” (1987).

– Chi tiết “Tấm ảnh nghệ thuật trong bộ lịch cuối năm” là chi tiết khép lại truyện ngắn, đồng thời cũng là một trong những chi tiết đắt giá nhất thể hiện được quan niệm về cuộc sống và nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, chi tiết có thể khơi dậy những suy tư, chiêm nghiệm của Phùng cũng như người đọc.

 
  2. Cảm nhận giá trị của tấm ảnh đối với công chúng tấm ảnh qua cảm nhận của Phùng  
2.1. Khái quát chung

 

 
2.2. Nội dung:

– Tấm ảnh chiếc thuyền ngoài xa của nhiếp ảnh Phùng có giá trị nghệ thuật cao: Những tấm ảnh tôi mang về… rất bằng lòng. Nó có giá trị lâu bền, được mọi người yêu thích xứng đáng với công sức người nghệ sĩ đã bỏ ra.

– Tấm ảnh trong “bộ lịch năm ấy” là tấm ảnh đen trắng, nhưng “mỗi lần ngắm kỹ” thấy hiện lên “màu hồng hồng của ánh sương mai”; nếu nhìn lâu hơn, bao giờ cũng thấy “người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh”

+ “cái màu hồng hồng của ánh sương mai”, đó là chất thơ, vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, cũng là biểu tượng của nghệ thuật.

+ Và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh”, đó là hiện thân của những lam lũ, khốn khó, là sự thật cuộc đời.

– Những bước đi chắc chắn hòa lẫn vào đám đông của người đàn bà hàng chài thể hiện niềm tin vào con người, tin vào tương lai của Phùng về sự hòa nhập của họ trong hành trình đi lên của cuộc sống.

– Qua đây tác giả muốn nói: người nghệ sĩ phải trung thực, dũng cảm nhìn thẳng và nhìn sâu sắc vào hiện thực và có niềm tin ở con người; hãy rút ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc đời. Khẳng định ‎giá trị tư tưởng: Nghệ thuật chân chính không thể tách rời, thoát li cuộc sống. Nghệ thuật chính là cuộc đời và phải vì cuộc đời.

2.3. Nghệ thuật

– Giọng văn trầm lắng, suy tư, chiêm nghiệm.

– Lối kết thúc mở độc đáo, gợi nhiều suy nghĩ.

– Chi tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa biểu tượng.

– Lối kể chuyện hấp dẫn từ cách lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp làm cho câu chuyện gần gũi, chân thực và có sức thuyết phục

 
3. Nhận xét nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà văn  
– Người kể chuyện là nhân vật Phùng, cũng chính là sự hóa thân của tác giả, tạo điểm nhìn trần thuật sắc sảo, giúp lời kể chuyện trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục

– Sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, sáng tạo phù hợp với việc thể hiện tính cách nhân vật.

– Nghệ thuật khắc họa nhân vật thông qua cách tạo tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về cuộc đời từ dó giúp cho Phùng có sự thay đổi trong nhận thức, suy ngẫm, để anh có cách nhìn đời khác hẳn, anh hiểu sâu thêm về tính cách người đàn bà, chị em thằng Phác, người bạn- đồng đội của mình (Đẩu) và hiểu thêm chính mình.

 

 

MA TRẬN ĐTHI THỬ TÔT NGHIỆP THPT NĂM 2024

Bài thi: NGỮ VĂN

Thời gian làm bài:  120 phút, không kể thời gian phát đề

 

ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)

Đọc văn bản sau:

“(1) Dường như mọi hình thức sống trên hành tinh này đều nỗ lực phát huy tối đa tiềm năng của mình… ngoại trừ loài người.

(2) Một cái cây không bao giờ mọc tới nửa kích thước tiềm năng của nó rồi nói: “Chắc tôi chỉ làm được đến vậy”. Một cái cây sẽ vươn bộ rễ của mình cắm càng sâu vào lòng đất càng tốt. Nó sẽ hút lên càng nhiều chất dinh dưỡng càng tốt, thân vươn càng cao, tán lá xoè càng rộng càng tốt, tới kịch điểm sự cho phép của tự nhiên. Và rồi nó sẽ nhìn xuống chúng ta như thể nhắc nhở chúng ta rằng mỗi người đều có thể trở thành người như thế nào nếu chịu thực hiện tất cả những gì mình có thể.

(3) Tại sao loài người, hình thức sống thông minh nhất trên trái đất, lại không nỗ lực phát huy tối đa tiềm năng của bản thân? Tại sao chúng ta lại tự cho phép mình dừng lại ở giữa cuộc hành trình? Tại sao chúng ta lại không liên tục cố gắng trở thành tất cả những gì mà chúng ta có thể là? Lý do ở đây rất đơn giản: chúng ta được trao cho sự tự do trong lựa chọn.

(4) Trong hầu hết các trường hợp, quyền lựa chọn là một món quà. Nhưng xét từ góc độ thực hiện tất cả những gì chúng ta có thể với những khả năng và cơ hội trước mắt, lựa chọn đôi khi lại là một lời nguyền tai hại chứ không phải là một phép màu ban tặng. Thường thì chúng ta sẽ lựa chọn cách làm việc ít hơn khả năng thực tế. Chúng ta muốn nằm dài nghỉ ngơi dưới bóng râm mát của một cái cây hơn là bắt chước quá trình vật lộn để vươn cao của nó…”

(Trích Những mảnh ghép cuộc đời, Jim Rohn, NXB Lao động, 2022, tr.163-165)

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1. Theo tác giả, loài người và “mọi hình thức sống trên hành tinh này” khác nhau ở điểm nào?

Câu 2. Trong đoạn trích, hành trình sinh trưởng của một cái cây trong tự nhiên được miêu tả ở đoạn (2) đã nhắc nhở con người điều gì?

Câu 3. Tác dụng của việc sử dụng những câu hỏi ở đoạn (3) của văn bản.

Câu 4. Anh/Chị có đồng tình với quan điểm của tác giả “lựa chọn đôi khi lại là một lời nguyền tai hại chứ không phải là một phép màu ban tặng” không? Vì sao?

LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm): Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa của việc nỗ lực phát huy tiềm năng bản thân.

Câu 2. Nghị luận văn học (5,0 điểm)

Trong “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu viết:

Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. Một người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền. Họ phải lội qua một quãng bờ phá nước ngập đến quá đầu gối. Bất giác tôi nghe người đàn ông nói chõ lên thuyền như quát: “Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”.

.. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”.

(Trích Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu,Ngữ văn 12, Tập hai,

NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, tr.73)

Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích trên, từ đó nhận xét cách nhìn cuộc sống của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

 

HƯỚNG DẪN CHẤM

Phần Câu Nội dung Điểm
 

 

 

I

            ĐỌC HIỂU 3.0
1 Loài người và “mọi hình thức sống trên hành tinh này” khác nhau ở điểm:

– Mọi hình thức sống trên hành tinh này đều nỗ lực phát huy tối đa tiềm năng của mình

– Loài người: chưa thực sự nỗ lực phát huy tối đa tiềm năng của mình

* Hướng dẫn chấm:

+ Trả lời được 02 ý như đáp án: 0,75 điểm

+ Trả lời được 01 ý như đáp án: 0,5 điểm.

+ Trả lời sai hoặc không trả lời thì không cho điểm.

0.75

 

2 Hành trình sinh trưởng của một cái cây trong tự nhiên được miêu tả ở đoạn (2) đã nhắc nhở con người: mỗi người đều có thể trở thành người như thế nào nếu chịu thực hiện tất cả những gì mình có thể.

* Hướng dẫn chấm:

+ Trả lời như đáp án: 0,5 điểm

+ Trả lời sai hoặc không trả lời thì không cho điểm.

0.5
3 – Chỉ ra những câu hỏi trong đoạn (3): Tại sao loài người, hình thức sống thông minh nhất trên trái đất, lại không nỗ lực phát huy tối đa tiềm năng của bản thân? Tại sao chúng ta lại tự cho phép mình dừng lại ở giữa cuộc hành trình? Tại sao chúng ta lại không liên tục cố gắng trở thành tất cả những gì mà chúng ta có thể là? (0,25 điểm)

– Tác dụng của việc sử dụng những câu hỏi ở đoạn (3): (0,75 điểm)

+ Nhấn mạnh sự băn khoăn, nỗi trăn trở khi con người không nỗ lực cố gắng, phát huy hết năng lực bản thân để chinh phục được mục tiêu, mơ ước, khát vọng của cuộc đời mình.

+ Tạo điểm nhấn cho văn bản, tạo giọng điệu mạnh mẽ, tha thiết cho lập luận.

* Hướng dẫn chấm:

+ Trả lời được 02 ý như đáp án: 0,75 điểm

+ Trả lời được 01 ý như đáp án: 0,5 điểm.

+ Trả lời sai hoặc không trả lời thì không cho điểm.

1,0

 

4 – Thí sinh bày tỏ quan điểm: đồng tình/ không đồng tình/ đồng tình một phần (0,25 điểm)

– Lí giải (0,5 điểm): Thí sinh có thể lập luận theo nhiều cách khác nhau để bảo vệ quan điểm của bản thân nhưng cần có tính thuyết phục, không vi phạm pháp luật và các chuẩn mực đạo đức xã hội.

Sau đây là một hướng gợi ý:

+ Nếu đồng tình: khi được lựa chọn, con người có xu hướng chọn những gì dễ dãi nhất, né tránh thử thách, cho phép hưởng thụ quá sớm, đôi khi còn thiếu hiểu biết mà lựa chọn sai lầm… ,bỏ lỡ cơ hội khám phá năng lực bản thân, con người không thể trở thành phiên bản tốt nhất của chính mình, khó đạt được những thành công lớn lao.

+ Nếu không đồng tình: Sự lựa chọn giúp con người được chủ động, được sống là chính mình (với năng lực, sở trường, niềm yêu thích của mình), biết chịu trách nhiệm trước những lựa chọn của bản thân…, sự lựa chọn giúp con người tự lập, khẳng định được giá trị của mình.

+ Nếu đồng tình một phần: kết hợp cả 2 ý trên.

* Hướng dẫn chấm:

+ Lí giải thuyết phục, hợp lí: 0,5 điểm

+ Lí giải lan man, không mạch lạc, chưa thuyết phục: 0,25 điểm.

+ Không trả lời/ trả lời sai: 0,0 điểm.

0.75
 

 

II

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

            LÀM VĂN 7.0
1 Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của bản thân về nghĩa của việc nỗ lực phát huy tiềm năng bản thân. 2.0
 

 

 

 

 

 

a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn

Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoặc song hành.

0.25
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Ý nghĩa của việc nỗ lực phát huy tiềm năng bản thân

0.25
c. Triển khai vấn đề cần nghị luận

Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề cần nghị luận theo nhiều cách nhưng cần theo hướng sau:

– Việc nỗ lực phát huy tiềm năng bản thân giúp mỗi người phát huy tối đa những ưu điểm và khả năng của chính mình, tạo nên nguồn sức mạnh để đạt được những kết quả tốt nhất;  đem lại cho con người cuộc sống hạnh phúc vì hiện thực hóa được tiềm năng cá nhân, được sống là chính mình; tự hoàn thiện phát triển bản thân; có những đóng góp lớn cho cộng đồng, xã hội, lan tỏa các giá trị tích cực, tốt đẹp…

– Dẫn chứng: Học sinh chọn 1-2 dẫn chứng tiêu biểu để chứng minh.

* Hướng dẫn chấm:

– Lập luận chặt chẽ, thuyết phục; lí lẽ xác đáng; dẫn chứng tiêu biểu: 1,0 điểm.

– Lập luận chưa chặt chẽ, thuyết phục; dẫn chứng không tiêu biểu: 0,75 điểm.

– Lập luận không chặt chẽ, thiếu thuyết phục; không có dẫn chứng: 0,25- 0,5 điểm. (Học sinh có thể bày tỏ suy nghĩ, quan điểm riêng nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.)

1.0
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp, ngữ nghĩa tiếng Việt.

0.25
e. Sáng tạo

Có cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ riêng sâu sắc về vấn đề nghị luận nhưng cần phù hợp với chuẩn mực đạo đức, pháp luật.

0.25
2 Cảm nhận của anh/chị về trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét tình huống nhận thức trong tác phẩm. 5.0
 

 

 

 

a. Đảm bảo cấu trúc của một bài văn nghị luận

Có đầy đủ Mở bài, Thân bài, Kết bài. Mở bài giới thiệu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề.

0.25
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Cảm nhận về phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong đoạn trích; nhận xét cách nhìn cuộc sống của nhà văn.

0.5
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm

Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:

 
* Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Minh Châu, tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa, đoạn trích. 0.5
* Cảm nhận đoạn trích

– Nội dung:  Phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong đoạn trích (phát hiện thứ hai):

+ Cảnh bạo lực trong gia đình hàng chài: Người chồng đánh vợ bằng chiếc thắt lưng; đứa con chạy tới giật chiếc thắt lưng từ tay cha nó, vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần của cha để che chở cho người mẹ đáng thương; người đàn ông tát thằng bé hai cái  ngã giúi xuống cát.

+Tâm trạng của Phùng: kinh ngạc, đau lòng, nhận ra ngay sau cảnh đẹp của chiếc thuyển ngoài xa là cái xấu, cái ác.

+ Nguyễn Minh Châu gửi đến người đọc thông điệp: Nghệ thuật đích thực không thể rời xa  cuộc đời; người nghệ sĩ phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều,…

– Nghệ thuật: tình huống truyện độc đáo, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống; lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa,…

2.5

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

* Nhận xét cách nhìn cuộc sống của nhà văn:

– Cuộc sống vốn phức tạp, bản chất và hiện tượng không phải bao giờ cũng là một, thậm chí mâu thuẫn đối lập. Nghệ thuật thường đẹp bởi được quan sát từ xa trong khi hiện thực cuộc đời bao giờ cũng rất gần và thường là hiện thực khắc nghiệt, phũ phàng… Chúng ta đừng bao giờ đơn giản, một chiều, phiến diện khi nhìn nhận cuộc sống và con người…

–  Thể hiện quan niệm của Nguyễn Minh Châu về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống; làm nổi bật cảm hứng thế sự của văn học Việt Nam giai đoạn sau năm 1975.

0.5
d. Sáng tạo

Có cách diễn đạt độc đáo; suy nghĩ, kiến giải mới mẻ về nội dung hoặc nghệ thuật của đoạn trích.

0.5
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu

Đảm bảo những quy tắc về chuẩn chính tả, dùng từ, đặt câu của tiếng Việt.

0.25

 

Tổng điểm 10.0

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *