Điểm nhìn nghệ thuật, Phương thức kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn

ĐIỂM NHÌN NGHỆ THUẬT, PHƯƠNG THỨC KỂ CHUYỆN, NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN NGẮN

LÝ THUYẾT

ĐIỂM NHÌN NGHỆ THUẬT

Khái lược về điểm nhìn nghệ thuật

       Điểm nhìn là vị trí, chỗ đứng để xem xét, miêu tả, bình giá sự vật, hiện tượng trong tác phẩm. Trong tác phẩm tự sự, tương quan giữa nhà văn và chủ đề trần thuật hay giữa điểm nhìn của người trần thuật với những gì anh ta kể là điều đặc biệt quan trọng. Điểm nhìn trần thuật được xem như một camera dẫn dắt người đọc vào mê cung văn bản ngôn từ. Khi nghiên cứu điểm nhìn nghệ thuật, người ta chia điểm nhìn thành các loại như điểm nhìn tác giả, điểm nhìn nhân vật, điểm nhìn không gian, điểm nhìn thời gian, điểm nhìn tâm lí, điểm nhìn tư tưởng,…

– Khái niệm: Nguyễn Thị Thu Thủy trong cuốn sách Điểm nhìn và ngôn ngữ trong truyện kể đã khẳng định điểm nhìn trong truyện kể chi phối tới quá trình quan sát và kể lại: “Điểm nhìn là vị trí, xuất phát điểm mà từ đó hiện thực được quan sát và kể lại”. Tác giả Nguyễn Thị Hoài An trong luận án tiến sĩ của mình khẳng định “Điểm nhìn nghệ thuật trong tự sự là vị trí, chỗ đứng nhất định để nhìn nhận, xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng …và sau đó kể, miêu tả, thể hiện chúng bằng hình thức của một tác phẩm nghệ thuật ngôn từ”. Cần lưu ý rằng vị trí, chỗ đứng không chỉ là vị trí trong không gian, thời gian mà còn là tầm nhận thức, trình độ, văn hóa, lứa tuổi, giới tính, trải nghiệm… của người kể chuyện. Từ điểm nhìn nghệ thuật người kể chuyện xác định thông tin trọng tâm (tiêu điểm) để kể, miêu tả và thể hiện thái độ, bình luận. Mối quan hệ giữa chủ thể của điểm nhìn với truyện và tiêu điểm sẽ quyết định ngôi kể trong truyện”.

Tầm quan trọng của điểm nhìn nghệ thuật: Tác phẩm văn học nào dù là thơ hay truyện cũng xuất phát từ điểm nhìn cụ thể. Không thể không có tác phẩm văn học nếu không có điểm nhìn và điểm nhìn góp phần quan trọng tạo nên giá trị tác phẩm. Tác giả Nguyễn Thái Hòa trong Điểm nhìn trong lời nói giao tiếp và và điểm nhìn trong nghệ thuật trong truyện đã khẳng định điểm nhìn điểm bắt đầu và chi phối sâu sắc đến tác phẩm. Đồng thời ông cũng nhận thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa điểm nhìn với người kể, tác phẩm và người đọc: “Điểm nhìn nghệ thuật là điểm xuất phát của một cấu trúc nghệ thuật, hơn thế nữa là một cấu trúc tiềm ẩn được người đọc tiếp nhận bằng thao tác suy ý từ các mối quan hệ phức hợp giữa người kể và văn bản, giữa văn bản và người đọc văn bản, giữa người kể và người đọc hàm ẩn”

– Mối quan hệ của điểm nhìn với đối tượng được nói đến trong tác phẩm: Điểm nhìn của chủ thể có điểm rơi vào khách thể. Từ điểm nhìn nghệ thuật, chủ thể của điểm nhìn quan sát, kể lại, miêu tả và bình luận khiến đối tượng được nói đến hiện lên sống động. Nhìn chung, khi phân tích tác phẩm theo điểm nhìn nghệ thuật chúng ta phải trả lời cho các câu hỏi: Người trần thuật là ai? Anh ta miêu tả cái gì? Và dưới cái nhìn của anh ta thì cái được miêu tả hiện ra như thế nào? Từ đó, điểm nhìn nghệ thuật trong tác phẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp người đọc thâm nhập sâu vào tác phẩm trên bình diện nghệ thuật, khám phá một cách sâu sắc giá trị nội dung, tư tưởng mà nhà văn muốn gửi gắm ở đứa con tinh thần của mình.

– Điểm nhìn thể hiện phong cách nhà văn: Về bản chất  điểm nhìn nghệ thuật luôn xuất phát từ điểm nhìn của tác giả và mỗi tác phẩm truyện đều ẩn chứa trong đó hình tượng tác giả. Từ việc phân tích điểm nhìn nghệ thuật của tác phẩm, người đọc còn có thể tìm ra được nét riêng độc đáo trong phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn.

Phân loại điểm nhìn nghệ thuật

– Theo vị trí quan sát của người kể, có thể phân theo điểm nhìn kể chuyện như: điểm nhìn bên ngoài, bên trong; điểm nhìn không gian (xa, gần), điểm nhìn di động (từ đối tượng này sang đối tượng khác), điểm nhìn thời gian (quá khứ, hiện tại, tương lai), điểm nhìn luân phiên (trong, ngoài). Sự luân phiên điểm nhìn này cho thấy sự linh hoạt của các kiểu tổ chức miêu tả và bình luận trong cốt truyện.

– Tuy nhiên, điểm nhìn người kể chuyện thường được phân chia thành ba loại chính: điểm nhìn toàn tri (vô điểm nhìn), điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn bên trong. Ngoài ra, còn có thể kể đến kiểu điểm nhìn di động. Dựa trên tầm nhìn, vai trò của người kể chuyện và mối quan hệ giữa điểm nhìn với tiêu điểm, ngôi nhân xưng, hình thức ngôn ngữ người ta xác định các tiêu chí nhận diện điểm nhìn trong tự sự như sau:

2.1. Các tiêu chí nhận diện tác phẩm kể chuyện theo điểm nhìn toàn tri

– Về tầm nhìn và vai trò của người kể chuyện: Người kể chuyện có khả năng biết hết về câu chuyện, biết nhiều hơn nhân vật và là chủ thể của điểm nhìn. Người kể chuyện không chỉ có vai trò kể lại câu chuyện mà còn có thể bình luận, điều khiển nhân vật.

– Về ngôi, nhân xưng:

+ Người kể chuyện thường không xuất hiện (hàm ẩn) hoặc hiếm khi là người kể chuyện tường minh xưng “tôi”.

+ Nhân vật thường ở ngôi thứ ba.

– Về tiêu điểm kể chuyện: Người kể chuyện có cái nhìn biết hết nên nhân vật có thể được kể từ bên ngoài (ngoại hình, lời nói, hành động) vào bên trong (nội tâm) một cách rõ nét.

– Về ngôn ngữ kể chuyện: chủ yếu là lời người kể chuyện, là lời kể gián tiếp.

2.2. Các tiêu chí nhận diện tác phẩm kể chuyện theo điểm nhìn bên ngoài

– Về tầm nhìn và vai trò của người kể chuyện: Người kể chuyện mặc dù vẫn là chủ thể của điểm nhìn nhưng biết ít hơn nhân vật, chỉ có khả năng nhìn nhận từ bên ngoài mà không biết gì về nội tâm bên trong của nhân vật. Người kể chuyện ít có khả năng đánh giá, phán đoán và không có khả năng điều khiển nhân vật.

– Về ngôi, nhân xưng:

+ Người kể chuyện không xuất hiện trong tác phẩm, hoàn toàn giấu mình.

+ Nhân vật thường ở ngôi thứ ba.

– Về tiêu điểm kể chuyện: Nhân vật chỉ có thể được kể từ bên ngoài bằng ngoại hình, lời nói, hành động.

– Về ngôn ngữ kể chuyện: Ngôn ngữ gián tiếp, chủ yếu là ngôn ngữ người kể chuyện. Trong một số tác phẩm ngôn ngữ đối thoại của nhân vật được coi trọng và chiếm một tỉ lệ cao.

2.3. Các tiêu chí nhận diện tác phẩm kể chuyện theo điểm nhìn bên trong

– Về tầm nhìn và vai trò của người kể chuyện: Chủ thể của điểm nhìn là nhân vật. Người kể chuyện có thể là nhân vật kể chuyện mình hoặc nhập thân vào nhân vật để kể chuyện nên chỉ có thể nhìn nhận, kể chuyện, bình luận, lí giải, phán đoán bằng tầm nhìn của một nhân vật.

– Về ngôi, nhân xưng: Người kể chuyện đồng thời là nhân vật, có thể xuất hiện trong tác phẩm ở ngôi thứ nhất (với trường hợp người kể chuyện là nhân vật kể chuyện mình) hoặc ngôi thứ ba (với trường hợp người kể chuyện nhập thân vào nhân vật để kể chuyện).

– Về tiêu điểm kể chuyện: Tiêu điểm kể chuyện là nội tâm của nhân vật nên truyện kể thường ít sự kiện, ít nhân vật, ít hành động, lời nói.

– Về ngôn ngữ kể chuyện: Ngôn ngữ kể chuyện là lời kể trực tiếp với trường hợp người kể chuyện là nhân vật kể chuyện mình hoặc nửa trực tiếp với trường hợp người kể chuyện nhập thân vào nhân vật để kể chuyện.

2.4. Điểm nhìn di động: Là kiểu kể chuyện mà người kể chuyện tựa vào nhiều điểm nhìn khác nhau để kể chuyện: Trong tác phẩm người kể chuyện di chuyển từ điểm nhìn này sang điểm nhìn khác để kể chuyện. Tiêu biểu cho phương thức kể chuyện này là tác phẩm Đời thừa. Ban đầu, người kể chuyện kể chuyện kể từ điểm nhìn của Từ với đối tượng được quan sát và kể, miêu tả là nhân vật Hộ. Sau đó, người kể chuyện lại xuất phát từ điểm nhìn của nhân vật Hộ để quan sát, kể và miêu tả về nhân vật Từ. Điểm nhìn di chuyển như vậy cung cấp một cái nhìn đa chiều về cuộc sống mòn mỏi của người trí thức trong xã hội cũ.

PHƯƠNG THỨC KỂ CHUYỆN

Trong nghệ thuật kể chuyện hiện đại, căn cứ vào điểm nhìn nghệ thuật có thể chia thành ba phương thức trần thuật.

Phương thức kể chuyện thứ nhất: Người kể chuyện giấu mình, không xuất hiện nhưng lại biết tất cả và kể về các nhân vật, sự kiện … Nhân vật là đối tượng được kể nên thuộc ngôi thứ ba (hắn, y, thị, nó, anh, cụ…).

Phương thức kể chuyện thứ hai: Nhân vật tự kể chuyện mình xưng tôi, thuộc ngôi thứ nhất kể chuyện về chính mình, về những gì mình biết. Vai trò của anh ta trong tác phẩm vừa là nhân vật vừa là người kể chuyện.

Phương thức kể chuyện thứ ba: Người kể chuyện giấu mình nhưng chuyển điểm nhìn trần thuật cho nhân vật, điểm nhìn là điểm nhìn nhân vật, lời kể theo giọng điệu của nhân vật thuộc ngôi thứ ba còn gọi là lời nửa trực tiếp. Về bản chất điểm nhìn nghệ thuật luôn xuất phát từ điểm nhìn của tác giả và mỗi tác phẩm truyện đều ẩn chứa trong đó hình tượng tác giả. Tuy nhiên, đặc điểm nghệ thuật của mỗi tác phẩm khi đến với người đọc lại có những hiệu quả khác nhau. Hai phương thức trần thuật thứ nhất và thứ hai chịu chi phối sâu sắc hơn từ điểm nhìn tác giả, còn phương thức trần thuật thứ ba lại cho ấn tượng chủ yếu từ điểm nhìn nhân vật.

III. NGÔN NGỮ TRONG TRUYỆN NGẮN

Ngôn ngữ là một bộ phận của cấu trúc tác phẩm. Ngôn ngữ tác phẩm văn học xây dựng trên cơ sở ngôn ngữ tự nhiên nhưng nó không chỉ phục tùng quy luật ngôn ngữ mà còn phục tùng quy luật ngôn ngữ tác phẩm với tư cách là hệ thống năng lượng, ngôn ngữ không chỉ là chất liệu mà còn là phương tiện kết hợp với hệ thi pháp – cũng là một năng lượng vật chất – tạo nên giá trị tác phẩm.

Truyện ngắn thường khai thác những câu chuyện trong đời sống thường ngày. Những câu chuyện vụn vặt được nhà văn nhào nặn, sử dụng chất liệu ngôn từ và các thủ pháp nghệ thuật để sáng tạo ra truyện. Do đó, ngôn ngữ truyện ngắn trước hết là ngôn ngữ đời sống, bắt nguồn từ đời sống. Ngôn ngữ truyện ngắn chứa đựng nhiều phong cách, nhiều giọng nói xen lẫn nhau, hòa hợp nhau, tranh luận nhau và cả đối chọi nhau. Nó mạnh mẽ, khỏe khoắn và đầy sức sống,… Nếu như ngôn ngữ thơ ca bay bổng, có nhạc điệu thì ngôn ngữ truyện ngắn lại mang đến mọi sắc điệu, cung bậc của cuộc sống. Bởi lẽ đó, ngôn ngữ truyện ngắn có khi du dương ngân nga, cũng có khi thô ráp một cách trần trụi.

Bên cạnh những đặc điểm chung của văn xuôi tự sự, ngôn ngữ truyện ngắn có những đặc điểm riêng. Chính những nét riêng này làm nên tính chất của từng thể loại. Truyện ngắn khác với  truyện vừa, tiểu thuyết ở độ cô đọng và kết tinh. Sự cô đọng, nhân vật, sự kiện, thời gian, không gian như  vậy bắt buộc truyện ngắn phải có một hình thức ngôn ngữ phù hợp.

Ngôn ngữ trong truyện ngắn nhiều khi đối thoại, tự tranh cãi. Ngôn ngữ đối thoại khiến cho truyện ngắn là một trong những hình thức nghệ thuật có khả năng mở rất lớn. Đây là một nét độc đáo  đặc trưng của truyện ngắn hiện đại. Đối thoại là một dạng phát ngôn trực tiếp, mang tính cá thể khá cao của nhân vật khi tham gia giao tiếp. Trong truyện ngắn, hình thức đối thoại được sử dụng rộng rãi và có vai trò quan trọng trong việc biểu đạt nội dung. Có kiểu đối thoại theo hình thức phân vai, có kiểu lời thoại được nhấn mạnh nhờ những chỉ dẫn của người trần thuật nhằm gian lược hoạt động giao tiếp. Tuy nhiên, người trần thuật vẫn có thể biến lời thoại thành lời của bản thân. Đây là một dạng phát ngôn đặc biệt, thể hiện tính chất nhiều giọng của ngôn ngữ truyện ngắn (nhất là truyện ngắn đương đại). Mặt khác, với thế mạnh của một hình thức tự sự cỡ nhỏ nhưng lại có sức khái quát lớn, truyện ngắn luôn là một thể loại chủ công trong việc khám phá và cải tạo hiện thực cuộc sống. Ngôn ngữ truyện ngắn hiện đại có những đặc điểm sau:

Ngôn ngữ giàu chất hiện thực, đời thường, phương ngữ

Trong văn học hiện đại, nhiều nhà văn hầu như chối từ ngôn ngữ kiểu cách, nghi thức. Việc sử dụng ngôn ngữ giàu tính hiện thực, bình dị cho phù hợp với hướng khai thác cuộc sống ở góc nhìn đời tư, số phận cá nhân trong các mối quan hệ phức tạp sau chiến tranh là hành trình tất yếu. Ngôn ngữ truyện vì thế gần với đời sống sinh hoạt hàng ngày, rút ngắn khoảng cách giữa tác phẩm với dòng chảy cuộc sống đương đại. Hướng sử dụng ngôn ngữ này ở mức độ thích hợp sẽ khắc họa cuộc sống tự nhiên, chân thực, sinh động, nhiều màu sắc hơn. Ngôn ngữ nhân vật cũng thoát ly khỏi tấm áo chỉn chu của văn học giai đoạn trước, là tiếng nói suồng sã, mang màu sắc khẩu ngữ, đời thường. Ngôn ngữ giản dị giúp cho nhân vật trở nên chân thực, sống động và gần gũi. Truyện ngắn sử dụng thoải mái thành phần khẩu ngữ, tạo ra những “xô lệch cú pháp” có chủ ý, lối diễn đạt phóng khoáng; từ đó lôi cuốn độc giả một cách tự nhiên vào câu chuyện của con người trong và sau chiến tranh chất chứa nhiều bất hạnh, tâm trạng… như có thể gặp họ ở bất cứ đâu trong cuộc sống. Ngôn ngữ trần thuật cũng theo xu hướng đơn giản, hồn hậu như lời ăn tiếng nói hàng ngày: “Căn hộ tập thể toen ngoẻn có tám mét vuông ở tận cuối dãy nhà cấp bốn, sát bức tường rào. Ai muốn vào nhà chị cũng chiềng mặt trước hàng chục cặp mắt hau háu dòm qua những khung cửa sổ tối thui và phải chui qua cơ man nào là dây phơi chăng như mạng nhện” (Những giấc mơ có thực – Vũ Thị Hồng). Trong nhiều truyện ngắn khác có thể nhận thấy ngôn ngữ trần thuật như vậy: Miền cỏ hoang (Trần Thanh Hà), Có một đêm như thế (Phạm Thị Minh Thư), Huyền thoại (Chu Văn), Mã Đại Câu – người quét chợ Mường Cang (Ma Văn Kháng)… Trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại, nhà văn sử dụng ngôn ngữ mang chất khẩu ngữ, thô mộc gắn liền với miêu tả con người với tính cách, số phận cá nhân, cá tính sinh động hơn. Có thể thấy sự gia tăng các đại từ nhân xưng kiểu: y, thị, mụ, lão, gã, u, mày, tao… được sử dụng để tạo sự gần gũi, thân mật, hài hước, giễu nhại, bông đùa… Câu chuyện về con người và chiến tranh trở nên tự nhiên, tạo cảm giác chân thực và dễ tin hơn. Từ đó cho thấy sự mở rộng quan niệm về ngôn ngữ văn chương, mọi ngôn ngữ đời sống đương đại ùa vào tác phẩm. Nhà văn viết về những vấn đề chiến tranh, thời hậu chiến với tâm thế, cách thức mới mẻ, hấp dẫn.

Ngôn ngữ đậm chất triết lý, trữ tình   

Truyện ngắn phát hiện các vấn đề hiện thực trong chiều sâu triết học và nhu cầu chiêm nghiệm trước cuộc sống dẫn đến giảm ngôn ngữ kể, tả, tăng ngôn ngữ bình luận, phân tích. Vì vậy, truyện ngắn tăng cường sử dụng các từ ngữ mang sắc thái triết lý, suy tư. Bởi khi chiến tranh dần lùi xa, nhà văn hướng đến nghiền ngẫm hiện thực, những gì đã và đang xảy ra để tìm những vấn đề có ý nghĩa nhân bản, nhân sinh sâu sắc. Khi có thời gian nhìn lại, đặt trong thế đối sánh những gì được và mất, quá khứ và hiện tại, chiến tranh và hòa bình, chiến công và mất mát, hạnh phúc và thương đau… gợi lên nhiều điều thấm thía. Truyện ngắn gợi nhiều ngẫm ngợi, đọng lại những trăn trở, dằn vặt của nhà văn chứ không chỉ là miêu tả, trần thuật. Truyện Cỏ lau (Nguyễn Minh Châu) mang đầy ngôn ngữ triết lý sau những trải nghiệm của nhân vật: “Rồi cũng như mọi người khác, tôi vẫn không thể đi trốn khỏi được số phận, tôi không thể đi trốn khỏi được cuộc đời mình một khi mà tôi đang còn sống… Chẳng lẽ trên mảnh đất tha ma này, chiến tranh đã trở thành một thứ định mệnh”. Hoàn cảnh của người lính trở về với những éo le buộc họ phải đối diện. Những trăn trở của Lực cũng là của bao nhiêu con người khác khi ra khỏi vòng xoáy chiến tranh.

Nói như Frank O’Connor, “thể loại gần nhất với thơ trữ tình là truyện ngắn”. Vì vậy ngôn ngữ truyện ngắn vốn mang chất trữ tình. Tuy nhiên, trong kháng chiến, ngôn ngữ truyện ngắn mang chất trữ tình lạc quan vượt lên trên hiện thực khốc liệt. Khi hòa bình, ngôn ngữ trữ tình trải nghiệm, trầm lắng khi viết về cuộc sống sau chiến tranh đầy những điều phức tạp, bộn bề. Điều dễ nhận thấy trong truyện ngắn về chiến tranh là dấu ấn cảm xúc đậm nét làm cho ngôn ngữ thấm đượm chất trữ tình trong những trang văn miêu tả con người và thiên nhiên. Nỗi đau đớn, tủi nhục của bà mẹ trước sự thờ ơ lạnh lùng của đứa con được miêu tả: “Dòng nước mắt đã đặc quánh lại, đọng dọc theo các nếp nhăn không biết tự bao giờ đã hiện lên cứ như những nét tạc ngang dọc chằng chịt trên khuôn mặt bà đến bây giờ đã trở nên im lìm, bất động, có cái gì cách biệt và siêu thoát như khuôn mặt của một bức tượng gỗ cũ kỹ từ trăm năm để lại” (Mùa trái cóc ở miền Nam – Nguyễn Minh Châu). Tâm trạng cô đơn, thảng thốt của Mùi khi tỉnh dậy sau cơn ác mộng giữa rừng Trường Sơn đủ các cung bậc: “Cô chỉ là một thực thể nhỏ bé mà phải chống chọi với bao nỗi niềm uy hiếp… Nỗi nhớ chồng da diết kèm theo nỗi lo sợ đến cháy lòng… Nỗi niềm tràn đầy cứ như một thứ chất lỏng trong lòng muốn san sẻ cùng ai mà bốn bề chỉ nín thinh” (Truyền thuyết về Quán Tiên – Xuân Thiều). Không chỉ vậy, thiên nhiên cũng được miêu tả quen thuộc, gần gũi, gợi những nỗi niềm riêng tư của con người. Thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng nhân vật người lính bên kia chiến tuyến trở lại mảnh đất chiến trường xưa: “Dòng sông Ba mơ màng với những cánh buồm lộng gió nhẹ nhàng xuôi ngược. Đôi bờ thấp thoáng cỏ lau, hoa vàng của mướp, những nương bắp trổ cờ. Nó trở thành thung lũng hoa vàng dù trong lòng đất một thời chứa đựng máu xương và nước mắt. Bởi chiến tranh nào cũng có kết quả của nó” (Thung lũng hoa vàng – Huỳnh Thạch Thảo). Thiên nhiên và con người như có sự giao cảm tinh tế, dự cảm điều chẳng lành bởi ngôn ngữ được chắt lọc: “Năm cô gái sống trong lo âu mà rừng thì cứ lầm lỳ trải đầy thảm lá rụng. Ánh đỏ của thảm lá hắt lên cả bầu trời ánh ỏi, khiến cho đêm của họ cũng mang màu đỏ” (Người sót lại của Rừng Cười – Võ Thị Hảo). Thêm vào đó, những lời bình luận ngoại đề xen vào mạch truyện cũng chiếm vai trò đáng kể trong việc tạo thành diện mạo ngôn ngữ đậm chất trữ tình trong truyện ngắn về chiến tranh.

3. Ngôn ngữ mang tính đối thoại, sử dụng nhiều ngôn ngữ độc thoại

Trong văn học TK XX đến nay, nhà văn quan niệm mỗi con người không chỉ gồm những yếu tố ngoại hình mà còn chứa đựng thế giới nội tâm sâu kín. Nhiệm vụ của văn chương là phản ánh, đánh giá thế giới bên trong con người. Vì vậy, thủ pháp độc thoại nội tâm được sử dụng một cách hữu hiệu, trở thành nét nghệ thuật tiêu biểu. Cùng tái hiện những ý nghĩ của nhân vật, có tính chất hướng nội song độc thoại vẫn gắn liền với hành động hơn so với độc thoại nội tâm. Tuy nhiên, ranh giới của nó đôi khi cũng khó phân định. Ngôn ngữ độc thoại nói chung cho phép nhà văn “viết chính tả cho ý nghĩ”, khai phá thế giới bên trong nhân vật với những suy tư của chính người kể chuyện và nhân vật về các vấn đề, giá trị. Do đó, có thể tái hiện một cách nguyên vẹn, trung thực giọng điệu, từ ngữ, suy nghĩ thầm kín của nhân vật. Có thể thấy trong truyện ngắn từ sau 1975 đến nay về chiến tranh, cùng với việc thiên về sử dụng cốt truyện tâm lý, tình huống bi kịch, tâm trạng, tự ý thức, trần thuật từ ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong…, việc sử dụng nhiều ngôn ngữ độc thoại và độc thoại nội tâm như một hệ quả tất yếu. Ngôn ngữ trong truyện ngắn Việt Nam có sự biến đổi linh hoạt, giàu chất đời thường, triết lý, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại được sử dụng nhiều… tạo nên hiệu quả biểu đạt mới mẻ, hấp dẫn. Ngôn ngữ truyện ngắn thường cô đọng, súc tích. Văn phong trong truyện ngắn đóng vai trò quan trọng, tạo nên phong cách riêng của nhà văn. Giọng văn quyết định hình thức tổ chức kết cấu truyện và nội dung tư tưởng. Thể tài của truyện ngắn cũng chịu sự quy định của văn phong.

GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN NGẮN

Nhà văn Nga A.P.Chekhov (1860-1904) cho rằng “muốn đánh giá một nhà văn, hãy xem giọng điệu văn chương của anh ta”. Như vậy, giọng điệu là một yếu tố rất quan trọng trong tác phẩm, nhất là truyện ngắn, vì những đặc điểm riêng biệt của nó.

Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện qua âm hưởng của tác phẩm. Các nhà văn thời đổi mới là những người có tài kể chuyện. Khả năng quan sát sắc sảo, lí lẽ khúc chiết, triết lí có chiều sâu… có thể xem là sức hấp dẫn của giọng văn. Những lí lẽ xuyên qua tất cả, trùm lên tất cả là một giọng điệu riêng biệt.

Truyện ngắn không phải chỉ có một giọng. Truyện ngắn là thể loại vừa có lời kể của nhân vật, lại có lời trần thuật của tác giả. Ngoài ra còn có giọng của “người thứ ba” trong một số truyện của nhiều tác giả. Những nhà văn có tài, trong tác phẩm của họ luôn có sự hòa quyện, tranh giao giữa các giọng điệu càng lớn. Mỗi giọng điệu là một “cái loa” cho một tư tưởng nhất định. Điều này làm cho truyện ngắn là thể loại “đa thanh, phức điệu” (nói theo lý thuyết của nhà văn M.M.Bakhtin, 1895-1975), là thể loại “chưa hoàn kết” về mặt nội dung tư tưởng. Ở đây, truyện ngắn có nét chung với tiểu thuyết nhưng đặc biệt khác với thơ trữ tình.Trong truyện ngắn, có bao nhiêu nhân vật trong tác phẩm thì ít nhất cũng có bấy nhiêu giọng điệu. Có khi chỉ một nhân vật nhưng lại có nhiều cách nói khác nhau: lúc ôn hòa thân mật, lúc tha thiết đắm say; khi ân cần, lúc phẫn nộ; khi suồng sã, lúc trang nghiêm… Trong trào lưu văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX đến 1945, nhất là các tác giả Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao…, tư tưởng nhân vật thể hiện qua giọng điệu luôn được các tác giả rất chú trọng. Nhân vật có khi là tiếng nói của tác giả, nhưng lại có lúc sống độc lập, đối thoại lại với tác giả. Truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng, đặc biệt là Nam Cao, đậm đặc tính chất này. Nhân vật trong truyện ngắn thường không nhiều, có khi nhà văn giới thiệu bằng một giai đoạn cơ bản nhất trong cuộc đời của một nhân vật. Chính vì vậy mà cơ hội về giọng điệu với sự phức tạp trong nhân vật càng lớn. Khi không có điều kiện nhiều để bộc lộ giọng điệu của mình qua sự đối thoại với nhân vật khác, nhân vật truyện ngắn tự tìm vào sự đối thoại với mình nhiều hơn. Bản chất của mỗi con người vốn không phải lặng im, xuôi chiều. Nó luôn ẩn giấu những tranh giao tư tưởng, suy nghĩ. Khi ngoại cảnh khách quan đưa bản chất chủ thể ấy vào thế “gài bẫy”, và “tình huống có vấn đề” thì sự giằng xé tương giao càng cao. Nó là cơ sở cho sự “đa giọng điệu” của mỗi nhân vật trong truyện ngắn. Nhà văn càng tạo ra nhiều thế “gài bẫy” thì chân tài càng được khẳng định. Sự giải quyết của mỗi nhà văn qua những thế “gài bẫy” cho thấy thế giới quan của mỗi nhà văn. Các nhà văn lãng mạn trong giai đoạn văn học 1930-1945 ở nước ta thường giải quyết theo “tinh thần” riêng của mình, trong lúc đó các tác giả hiện thực lại để cho tính chất khách quan quyết định và đưa đến kết quả giải quyết “vốn nó là vậy”. Vì thế mà hầu hết các nhà nghiên cứu cho rằng tiểu thuyết Tự lực văn đoàn chủ yếu là một giọng, còn các nhà văn hiện thực như Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng, Kim Lân, Nam Cao… tính chất đa giọng điệu rất rõ. Truyện ngắn chỉ chú ý đến một vài biến cố riêng biệt của cuộc sống con người, cho nên khả năng đi sâu vào nội tâm của nhân vật rất cao. Trong truyện ngắn, nhiều khi chỉ xét giọng điệu ở một câu văn, câu đối thoại nhỏ cũng có thể coi đó là tư tưởng của tác phẩm. Ngoài ra, cách kể, giọng kể của người kể chuyện trong truyện ngắn cũng có những nét riêng so với các thể loại khác.

K NĂNG LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC VỀ ĐIỂM NHÌN NGHỆ THUẬT, PHƯƠNG THỨC KỂ CHUYỆN, NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN NGẮN

KHÁI QUÁT VỀ VĂN NGHỊ LUẬN

– Văn nghị luận là dùng ý kiến lí lẽ của mình để bàn bạc, để thuyết phục người khác về một vấn đề nào đó. Để thuyết phục được ý kiến phải đúng và thái độ phải đúng. Có thể gọi ý kiến là lý còn thái độ là tình. Có khi ý kiến đúng mà thái độ không đúng thì cũng kém giá trị và tác dụng. Có ý kiến đúng và thái độ đúng rồi lại phải có cách nghị luận hợp lý nữa.

– Những thao tác chính của văn nghị luận: giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, bác bỏ, so sánh,…

ĐẶC ĐIỂM CỦA DẠNG ĐỀ

-Kiểu bài: Nghị luận văn học về đặc điểm nghệ thuật của truyện nói chung, của một tác phẩm truyện cụ thể nói riêng. Đi sâu vào phân tích, đánh giá tính nghệ thuật của tác phẩm truyện các vấn đề cụ thể về điểm nhìn nghệ thuật, phương thức kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn,…

– Yêu cầu:

+ Nắm vững, đặc biệt chú ý các tri thức Ngữ văn về tác phẩm truyện đã học ở lớp 10 và được cung cấp thêm ở lớp 11 về điểm nhìn nghệ thuật, phương thức kể chuyện, ngôn ngữ, giọng điệu,…

+ Bài văn nghị luận: Phải đúng hướng, phải trật tự, phải mạch lạc, phải trong sáng, phải sinh động, hấp dẫn, sáng tạo.

III. MỘT SỐ YÊU CẦU KỸ NĂNG LÀM BÀI VĂN NLVH

+ Củng cố, nắm chắc các thao tác nghị luận về truyện: giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, bác bỏ, so sánh,…

+ Nắm chắc các tri thức ngữ văn – cách xác định điểm nhìn, phương thức kể chuyện, đặc điểm ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn.

CÁC DẠNG ĐỀ THƯỜNG GẶP TRONG BÀI THI HSG

Cấp độ            Dạng đề Đề minh họa
 

 

Cấp độ 1

Phân tích các bình diện nghệ thuật: Điểm nhìn, ngôn ngữ, giọng điệu…qua  một văn bản truyện cụ thể. – Điểm nhìn, ngôn ngữ, giọng điệu,… trong truyện ngắn Chí Phèo, Vợ nhặt,…

– Cảm nhận về ngôn ngữ, giọng điệu…

 

 

 

 

 

Cấp độ 2

Phân tích các bình diện nghệ thuật: Điểm nhìn, ngôn ngữ, giọng điệu,… trong một văn bản truyện để làm rõ một yêu cầu nào đó. Vd: Sức hấp dẫn của ngôn ngữ trong tác phẩm Hai đứa trẻ, Phân tích điểm nhìntrong truyện ngắn Hai đứa trẻ,…

 

 

 

 

 

Cấp độ 3

Giải quyết một nhận định LLVH về một bình diện, đặc điểm nghệ thuật của truyện ngắn. – Có nhận định cho rằng: Một trong những thành công về mặt nghệ thuật trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam là đã tạo được một điểm nhìn phù hợp nhưng có ý kiến khác lại cho rằng: Thành công nhất của “Hai đứa trẻ” là truyện không có cốt truyện, truyện đậm chất thơ. Bằng hiểu biết về tác phẩm, anh/chị hãy làm sáng tỏ.

– Một trong những thành công về mặt nghệ thuật trong truyện ngắn “Chí Phèo” của nhà văn Nam Cao là đã tạo được một điểm nhìn phù hợp. Bằng hiểu biết về tác phẩm, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.

– “Điểm nhìn nghệ thuật đã tôn vinh vẻ đẹp nhân cách, giá trị con người trong truyện ngắn. Anh/chị hiểu kiến trên như thế nào? Hãy chứng minh qua một số truyện ngắn?

 

Ở cấp độ 1, tri thức ngữ văn sử dụng chủ yếu ở phần tổng kết để so sánh, đối chiếu, nâng cao vấn đề. Ví dụ: Khi bàn về điểm nhìn trong truyện ngắn Vợ nhặt, ta có thể so sánh đối chiếu với điểm nhìn trong tác phẩm Chí Phèo. Bằng các tri thức văn học về truyện ngắn, về bối cảnh xã hôi – hoàn cảnh ra đời của truyện ngắn, phong cách sáng tác ta có thể lí giải phần so sánh, đối chiếu, qua đó làm cho bài viết sâu sắc hơn.

Ở cấp độ 2, tri thức về  truyện ngắn thể hiện ngay ở trong những thuật ngữ, khái niệm để yêu cầu ta làm rõ. Để giải quyết được vấn đề, ta phải nắm được khái niệm, thuật ngữ, biểu hiện của chúng và biết cách phân tích các biểu hiện ấy trong các văn bản truyện.

Ở cấp độ 3, kiến thức lí luận văn học về  nghệ thuật truyện ngắn sẽ được vận dụng trong toàn thể bài viết. Đây là dạng đề quen thuộc nhất ở các kì thi học sinh giỏi. Và, cơ bản  định hướng giải quyết đề thi chỉ đề cập đến ở cấp độ 3 này. Bởi vì, nếu ta thành thục các kỹ năng cần có để giải quyết các dạng đề ở cấp độ này, ta sẽ dễ dàng vận dụng vào hai cấp độ trước.

CÁCH HỌC, TIẾP NHẬN TRI THỨC NGỮ VĂN VỀ TRUYỆN NGẮN

1.Tiếp nhận ở nhiều cấp độ, từ thấp đến cao (6 cấp độ)

Biết Chúng ta biết được các thuật ngữ, các khái niệm và các luận điểm.
Hiểu Chúng ta có thể hiểu và diễn đạt chính xác các thuật ngữ và luận điểm bằng lời văn của mình.
Vận dụng Chúng ta có thể vận dụng các tri thức để lí giải các hiện tượng văn học, các nhận định về truyện ngắn.
Phân tích Chúng ta có thể phân tích các biểu hiện của vấn đề nghị luận về truyện ngắn trong một hiện tượng văn học cụ thể (tác phẩm, phong cách tác giả, trào lưu văn học, thời kì văn học…)
Tổng hợp Chúng ta có thể tìm ra mối liên hệ giữa các vấn đề khác nhau, huy động kiến thức của nhiều chủ đề khác nhau để giải quyết vấn đề có tính chất tổng hợp.
Đánh giá Chúng ta đánh giá được mức độ chính xác, toàn vẹn của một nhận
định về truyện  nói chung và có thể bổ sung, phản biện một cách hợp lý.

Ở mức độ một bài thi học sinh giỏi, bài văn nghị luận dạng vận dụng tri thức văn học về truyện ngắn đòi hỏi học sinh phải nắm kiến thức đến mức độ cao nhất trong thang nêu trên, là mức độ đánh giá. Như vậy, việc lĩnh hội tri thức văn học về truyện ngắn cũng cần phải được rèn luyện từng bước để đạt được cấp độ cao nhất.

Cách để lĩnh hội tri thức Ngữ văn về truyện theo từng cấp độ

Như vậy, việc lĩnh hội tri thức cũng cần phải được rèn luyện từng bước để
đạt được cấp độ cao nhất.

Cấp độ lĩnh
hội tri thức
Cách thức hình thành
 

 

 

Biết

– Đọc giáo trình, tài liệu, xác định các đơn vị kiến thức quan trọng
(gạch chân, tô sáng các ý).- Ghi nhớ những đơn vị kiến thức cơ bản nhất: những thuật ngữ
quan trọng, những luận điểm quan trọng. Sử dụng các kĩ thuật ghi nhớ như sơ đồ hóa, khắc sâu từ khóa.


Chẳng hạn: phải nắm các khái niệm như truyện ngắn, điểm nhìn, phương thức kể chuyện, giọng điệu, ngôn ngữ,…

Hiểu Tập diễn đạt lại nội dung thuật ngữ, nội dung các luận điểm tri thức về truyện ngắn bằng lời văn của chính mình.
 

 

Vận dụng

Tập diễn đạt lại nội dung thuật ngữ, nội dung các luận điểm các luận điểm tri thức về truyện ngắn bằng lời văn của chính mình.

Tập lí giải một số hiện tượng văn học thường gặp. Tập lí giải một số luận điểm lí luận văn học. Thường xuyên đặt câu hỏi “Vì sao?” và các câu hỏi giả định.
Chẳng hạn như các câu hỏi:
+ Vì sao tác giả lại sử dụng nghệ thuật tự sự với lối trần thuật phối hợp nhiều điểm nhìn, giọng điệu?
+ Tại sao điểm nhìn của người kể được luân phiên với lời của nhân vật?
+ Tại sao trong truyện ngắn Chí Phèo tác giả lại dùng nhiều điểm nhìn ở đoạn mở đầu và đoạn cuối?,…

 

Phân tích

Phân tích các biểu hiện của các vấn đề trong tác phẩm cụ thể về điểm nhìn, phương thức kể chuyện, ngôn ngữ, giọng điệu,…
– Phân tích (chỉ ra biểu hiện) phong cách Nam Cao, Nguyễn Tuân qua một số tác phẩm truyện ngắn trước CMT8.
 
 

Tổng hợp

Giải quyết các vấn đề có tính chất tổng hợp. Ví dụ như:

Có nhận định cho rằng: Một trong những thành công về mặt nghệ thuật trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam là đã tạo được một điểm nhìn phù hợp nhưng có ý kiến khác lại cho rằng: Thành công nhất của “Hai đứa trẻ” là truyện không có cốt truyện, truyện đậm chất thơ. Bằng hiểu biết về tác phẩm, anh/chị hãy làm sáng tỏ. Phải chăng hai nhận định trên là mâu thuẫn, hãy thử lí giải?

 

Đánh giá

Liên tục đặt các câu hỏi tra vấn, phản biện:
+ Có phải lúc nào cũng như vậy hay không?
+ Nói như vậy đã thực sự chính xác hay chưa?
+ Có ngoại lệ hay không?
+ Vấn đề đã toàn vẹn hay chưa, có bổ sung gì không?

ĐỊNH HƯỚNG GIẢI QUYẾT ĐỀ THI

1.Tự luyện qua các bước

– Bước 1: Đọc tài liệu

– Bước 2: Nhận diện đề, lập dàn ý.

– Bước 3: Viết bài

– Bước 4: Sửa lỗi, rút kinh nghiệm.

Tìm hiểu đề, lập dàn ý

2.1. Tìm hiểu đề

Xác định kiểu bài: Nghị luận về các phương diện nghệ thuật của truyện ngắn (điểm nhìn/ phương thức kể chuyện/ ngôn ngữ/ giọng điệu,…).

Nội dung trọng tâm: Các phương diện nghệ thuật của truyện ngắn mà bài viết sẽ đi sâu vào phân tích, bình luận.

Các thao tác lập luận: Giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, bác bỏ, so sánh.

Phạm vi dẫn chứng: Tác phẩm cần nghị luận và một số tác phẩm để liên hệ, so sánh (nếu có)

2.2. Cấu trúc, dàn ý chung:

Cấu trúc Thao tác Nội dung Mức độ tư duy
 

 

 

 

 

 

          Mở bài

– Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề (hoặc tác phẩm).

– Giới thiệu khái quát các phương diện nghệ thuật của văn bản truyện mà bài viết sẽ đi sâu vào phân tích, bình luận.

– Trích dẫn  nguyên văn nhận định (nếu có).

 

 

 

 

 

 

 

Biết
Hiểu

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

          Thân bài

 

 

 

1. Giải thích

– Giải thích các thuật ngữ, các từ ngữ, hình
ảnh khó hiểu trong nhận định.
à Chốt vấn đề nghị luận: Như vậy, vấn đề
cần bàn ở đây là gì?- Chốt vấn đề nghị luận: Như vậy, vấn đề
cần bàn ở đây là gì
 

 

 

 

 

 

Biết
Hiểu

2. Bàn luận Sử dụng các kiến thức lí luận văn học để lí
giải vấn đề nghị luận. Trả lời cho câu hỏi
“vì sao?”
Vận dụng


Tổng hợp

3. Chứng minh, phân tích Chọn biểu hiện chi tiết trong tác phẩm để làm rõ vấn đề nghị luận.  

 

Phân tích

4. Bình luận – Đánh giá -Đánh giá tính đúng đắn của vấn đề nghị
luận.
– Bổ sung, phản biện lại vấn đề (Nếu có)
 

 

Bình luận, đánh giá

5. Liên hệ Rút ra bài học cho nhà văn trong quá trình  sáng tác/ bạn đọc  

 

Vận dụng

 

 

           Kết bài

– Khái quát, khẳng định lại vấn đề.

– Cảm xúc, suy nghĩ của bản thân.

 

 

Biết
Hiểu

Vận dụng

 

 

LUYỆN ĐỀ

 

Đề bài số 1: Một trong những thành công về mặt nghệ thuật của truyện ngắn là nhà văn đã tạo được điểm nhìn trần thuật phù hợp. Thông qua một vài truyện ngắn, anh/ chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

 

Hướng dẫn chấm:

Phần Yêu cầu cần đạt Điểm
Một trong những thành công về mặt nghệ thuật của truyện ngắn là nhà văn đã tạo được điểm nhìn trần thuật phù hợp. Thông qua một vài truyện ngắn đã học, anh/ chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

 

 

 

Yêu cầu chung
– Câu hỏi hướng đến việc đánh giá năng lực viết bài văn NLVH, đòi hỏi thí sinh phải huy động kiến thức về lí luận văn học, tác phẩm văn học, kĩ năng tạo lập văn bản để làm bài.

– Thí sinh có thể cảm nhận và kiến giải theo những cách khác nhau, nhưng phải có lí lẽ, căn cứ xác đáng.

Yêu cầu cụ thể  
1. Giải thích và bàn luận ý kiến 1,5
* Giải thích:

– Khái niệm “điểm nhìn”: Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Thu Thủy trong cuốn sách Điểm nhìn và ngôn ngữ trong truyện kể đã khẳng định điểm nhìn trong truyện kể chi phối tới quá trình quan sát và kể lại: “Điểm nhìn là vị trí, xuất phát điểm mà từ đó hiện thực được quan sát và kể lại”. Tác giả Nguyễn Thị Hoài An trong luận án tiến sĩ của mình khẳng định “Điểm nhìn nghệ thuật trong tự sự là vị trí, chỗ đứng nhất định để nhìn nhận, xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng …và sau đó kể, miêu tả, thể hiện chúng bằng hình thức của một tác phẩm nghệ thuật ngôn từ”. Cần lưu ý rằng vị trí, chỗ đứng không chỉ là vị trí trong không gian, thời gian mà còn là tầm nhận thức, trình độ, văn hóa, lứa tuổi, giới tính, trải nghiệm… của người kể chuyện. Từ điểm nhìn, chủ thể sẽ hướng cái nhìn vào một đối tượng cụ thể tức là từ điểm nhìn nghệ thuật người kể chuyện xác định thông tin trọng tâm (tiêu điểm) để kể, miêu tả và thể hiện thái độ, bình luận.

      

* Bàn luận:

Tầm quan trọng của điểm nhìn nghệ thuật: Tác phẩm văn học nào dù là thơ hay truyện cũng xuất phát từ điểm nhìn cụ thể. Không thể không có tác phẩm văn học nếu không có điểm nhìn và điểm nhìn góp phần quan trọng tạo nên giá trị tác phẩm. Đồng thời ông cũng nhận thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa điểm nhìn với người kể, tác phẩm và người đọc.

– Mối quan hệ của điểm nhìn với đối tượng được nói đến trong tác phẩm: Điểm nhìn của chủ thể có điểm rơi vào khách thể. Từ điểm nhìn nghệ thuật, chủ thể của điểm nhìn quan sát, kể lại, miêu tả và bình luận khiến đối tượng được nói đến hiện lên sống động. Nhìn chung, khi phân tích tác phẩm theo điểm nhìn nghệ thuật chúng ta phải trả lời cho các câu hỏi: Người trần thuật là ai? Anh ta miêu tả cái gì? Và dưới cái nhìn của anh ta thì cái được miêu tả hiện ra như thế nào? Từ đó, điểm nhìn nghệ thuật trong tác phẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp người đọc thâm nhập sâu vào tác phẩm trên bình diện nghệ thuật, khám phá một cách sâu sắc giá trị nội dung, tư tưởng mà nhà văn muốn gửi gắm ở đứa con tinh thần của mình.

– Điểm nhìn nghệ thuật sẽ chi phối phương thức kể chuyện dẫn đến những phương thức kể chuyện khác nhau, ngôi kể khác nhau…

– Điểm nhìn thể hiện phong cách nhà văn: Về bản chất  điểm nhìn nghệ thuật luôn xuất phát từ điểm nhìn của tác giả và mỗi tác phẩm truyện đều ẩn chứa trong đó hình tượng tác giả. Từ việc phân tích điểm nhìn nghệ thuật của tác phẩm, người đọc còn có thể tìm ra được nét riêng độc đáo trong phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn.

Hướng dẫn chấm:

– Thí sinh giải thích, lí giải vấn đề lí luận văn học sâu sắc: 1,5 điểm

– Trường hợp thí sinh giải thích chung chung, lí giải vấn đề lí luận văn học chưa sâu sắc: 0,75 điêm

 

 

 

 

 

 

 

2. Chứng minh qua một số truyện ngắn 7,5
2.1.          Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam

Trong tác phẩm nhà văn đã lựa chọn được điểm nhìn rất phù hợp với câu chuyện. Tác phẩm được kể chuyện từ điểm nhìn của nhân vật Liên là một cô bé có tâm hồn nhạy cảm. Hoàn cảnh và trải nghiệm của Liên có ảnh hưởng đến điểm nhìn là gia đình vốn ở Hà Nội, vì thầy Liên mất việc, gia đình sa sút nên phải về quê. Mẹ Liên làm nghề hàng xáo và giao cho hai chị em trông coi một gian hàng tạp hóa nhỏ thuê lại của bà lão móm. Cuộc sống hàng ngày ở nơi phố huyện nghèo nàn, bế tắc, tù đọng đã khiến tâm hồn Liên trở nên có nhiều suy tư.

Điểm nhìn kể chuyện đã dẫn đến kiểu phương thức kể chuyện nhà văn giấu mình và dựa vào điểm nhìn của nhân vật để kể chuyện. Bởi vậy trong tác phẩm nhà văn có thể:

+ Trước hết đó là điểm nhìn thể hiện trong không gian, thời gian. Khách thể chịu sự chi phối của điểm nhìn nghệ thuật là bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người ở phối huyện nghèo từ lúc chiều muộn đến lúc đêm khuya.

+ Đi sâu vào mọi ngõ ngách nội tâm của nhân vật để miêu tả cảm nhận, tâm trạng của Liên trước bức tranh thiên nhiên, đời sống và tâm trạng đợi tàu, tâm trạng khi đoàn tàu đi qua.

2.1.1. Bức tranh thiên nhiên, đời sống hiện lên qua điểm nhìn của nhân vật Liên

                  (Điểm nhìn trong không gian, thời gian)

– Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người lúc chiều muộn

– Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người lúc đêm tối

2.1.2. Thế giới nội tâm của nhân vật Liên

(Điểm nhìn xuất phát từ cảm xúc, tư tưởng, trải nghiệm, vốn sống… của một cô bé có tâm hồn nhạy cảm)

– Tâm trạng lúc chiều muộn

– Tâm trạng lúc đêm tối

– Tâm trạng khi chờ tàu

– Tâm trạng khi tàu đến

– Tâm trạng khi tàu qua

2.1.3. Điểm nhìn thể hiện phong cách nghệ thuật nhà văn Thạch Lam và chiều sâu nội dung, tư tưởng

– “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam  là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam. Lựa chọn điểm nhìn nghệ thuật của một nhân vật nhà văn đã nhập thân vào nhân vật, tựa vào nhân vật để kể chuyện, kể, tả, bình luận với tầm nhìn của nhân vật. Vì thế truyện ít sự kiện, hành động, không có cốt truyện, không tạo ra những tình huống truyện éo le, nghịch cảnh mà đi sâu vào thế giới nội tâm của hai đứa trẻ, đặc biệt là của nhân vật Liên với những rung động, cảm xúc mơ hồ, mong manh mà thật tinh tế. Lối viết văn mềm mại, trữ tình, trong sáng, giàu hình ảnh và nhạc điệu cùng các hình ảnh có tính biểu tượng rất hấp dẫn. Tác phẩm như một “bài thơ trữ tình đượm buồn”, là một tiếng nói trữ tình thầm kín, nhẹ nhàng nhưng thấm thía vô cùng.

– Thể hiện chiều sâu tư tưởng, nội dung và quan điểm văn chương tiến bộ của Thạch Lam: Thông qua tâm trạng đợi tàu của chị em Liên và Anh, tác phẩm thể hiện giá trị hiện thực, tư tưởng nhân đạo sâu sắc và kín đáo thể hiện tinh thần yêu nước. Nhà văn thể hiện sự quan tâm đến cuộc sống của những con người nghèo khổ, muốn văn chương trở thành thứ vũ khí thanh cao và đắc lực làm cho cuộc sống con người trở nên tốt đẹp hơn.

2.2. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu

Người kể chuyện cũng là nhân vật chính trong tác phẩm, xưng tôi và kể lại những chuyện mà mình đã chứng kiến và đã tham gia, hơn nữa còn bày tỏ cả những suy nghĩ, đánh giá và cảm xúc.

2.2.1. Điểm nhìn nghệ thuật của tác phẩm chủ yếu là điểm nhìn của nhân vật – của nhà nhiếp ảnh Phùng, người nghệ sĩ say mê cái đẹp cũng là một người lính từ chiến trường trở về làm cho câu chuyện trở nên tự nhiên, chân thật. Điều này có tác dụng rút ngắn khoảng cách giữa người đọc và tác phẩm.  

Từ điểm nhìn nghệ thuật của nhân vật đồng thời là người kể chuyện, thời gian trần thuật được kể theo trật tự tuyến tính, tức là theo trình tự thời gian thông thường làm cho mạch truyện diễn ra tự nhiên, các chi tiết truyện kết nối với nhau một cách hợp lý và chặt chẽ.

2.2.2. Trong “Chiếc thuyền ngoài xa” ta còn thấy có điểm nhìn của người đàn bà, của Đẩu khi họ nói về nhân vật người đàn ông ở tòa án huyện.

– Điểm nhìn của Đẩu là điểm nhìn của một vị chánh án, người bảo vệ công lý, trừng trị cái xấu và cái ác. Trong mắt anh người đàn ông là kẻ độc ác không thể chấp nhận được.

– Nhưng từ điểm nhìn của người đàn bà xấu xí, thất học và cam chịu thì ông ta là người ơn vì đã lấy chị, vì đã giúp chị nuôi đàn con.

2.2.3. Vai trò, ý nghĩa của điểm nhìn

– Chính vì xuất phát từ nhiều điểm nhìn khác nhau mà sự phản ánh hiện thực được thể hiện một cách khách quan và phong phú.  Để rồi từ chỗ nhìn nhận về sự việc, nhân vật ở nhiều góc độ xa và gần, bên ngoài và bên trong và từ nhiều phía nhà văn Nguyễn Minh Châu đã bộc lộ nhìn nhận của mình về cuộc đời và con người. Cuộc đời hóa ra không hề đơn giản, xuôi chiều mà nhiều khi rất phức tạp, bản chất của cuộc đời là đa sự và con người thì đa đoan. Vì vậy con người cần có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để nhận ra bản chất bên trong của đời sống và con người. Điều đó làm tăng giá trị nhận thức cho tác phẩm.

– Truyện được kể từ điểm nhìn của nhân vật nên diễn biến sự kiện mang đậm tính chủ quan.

– Điểm nhìn nghệ thuật cũng như không gian nghệ thuật này đã gợi mở thêm giá trị cho tác phẩm, giúp người đọc nhận ra rằng cái nghèo đói, thất học là hậu quả của chiến tranh tàn khốc và cuộc chiến chống lại cái xấu, cái ác để bảo vệ cái đẹp, cái thiện trong đời thường có khi còn cam go hơn việc chiến đấu chống lại kẻ thù trong chiến tranh. Hơn nữa, cũng không phải ngẫu nhiên Nguyễn Minh Châu chọn điểm nhìn của một nghệ sỹ đam mê nghệ thuật, bởi chỉ có như vậy nhà văn mới thể hiện những phát hiện và phát ngôn những triết lý về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật.

0,5
Hướng dẫn chấm:

– Thí sinh vận dụng nhuần nhuyễn kiến thức lí luận văn học, phân tích bài thơ một tác phẩm truyện sâu sắc, hướng đến làm rõ vấn đề lí luận văn học; sáng tạo trong lập luận, phân tích dẫn chứng: 6,0 – 7,0 điểm.

– Thí sinh biết vận dụng kiến thức lí luận văn học, phân tích vấn đề chưa thật nhuần nhuyễn; có sáng tạo trong lập luận, phân tích dẫn chứng: 4,75 – 5,75 điểm.

– Thí sinh tập trung phân tích truyện ngắn, chưa tập trung làm rõ vấn lí luận văn học; chưa sáng tạo trong lập luận, phân tích dẫn chứng: 3,5 – 4,5 điểm.

– Thí sinh tập trung phân tích truyện ngắn, chưa gắn với vấn đề lí luận văn học: 2,25 – 3,25 điểm.

– Thí sinh phân tích truyện ngắn chung chung, không gắn với vấn đề lí luận văn học: 1,0 – 2,0 điểm.

– Thí sinh kể lại truyện ngắn: 0,25 – 0,75 điểm.

3. Đánh giá

– Thạch Lam và Nguyễn Minh Châu đều là các nhà văn xuất sắc, có nhiều đóng góp cho văn học Việt Nam hiện đại. Các truyện ngắn được đưa vào chương trình của cả hai nhà văn đều là những truyện ngắn tiêu biểu, có nội dung và tư tưởng sâu sắc, có giá trị nghệ thuật cao.

– Như vậy, điểm nhìn nghệ thuật không chỉ giúp người đọc thâm nhập sâu vào tác phẩm trên bình diện nghệ thuật mà từ đó còn khám phá một cách sâu sắc giá trị nội dung, tư tưởng mà các nhà văn muốn gửi gắm ở đứa con tinh thần của mình. Từ việc phân tích điểm nhìn nghệ thuật của tác phẩm người đọc còn có thể tìm ra được nét riêng độc đáo trong phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn, cao hơn nữa là nhận thức tác phẩm ở góc độ phong cách học và thi pháp học.

1,0
Hướng dẫn chấm:

– Trình bày được 02 ý: 1,0 điểm.

– Thí sinh trình bày được 01 ý: 0,5 điểm.

 

Đề bài số 2: Trả lời câu hỏi: Làm thế nào để có một truyện ngắn hay, có ý kiến cho rằng: Viết ra không khó, cái khó là tìm được những câu chuyện đáng kể, những tư tưởng đáng ghi. Ý kiến khác lại cho rằng: Điều quan trọng không phải là câu chuyện được kể, mà là cách kể.

Anh/chị hiểu như thế nào về hai ý kiến trên? Hãy bày tỏ quan điểm của mình qua việc phân tích một truyện ngắn tự chọn thuộc giai đoạn văn học Việt Nam 1930 – 1945.

Hướng dẫn chấm:

Phần Yêu cầu cần đạt Điểm
Trả lời câu hỏi: Làm thế nào để có một truyện ngắn hay, có ý kiến cho rằng: Viết ra không khó, cái khó là tìm được những câu chuyện đáng kể, những tư tưởng đáng ghi. Ý kiến khác lại cho rằng: Điều quan trọng không phải là câu chuyện được kể, mà là cách kể.

Anh/chị hiểu như thế nào về hai ý kiến trên? Hãy bày tỏ quan điểm của mình qua việc phân tích một truyện ngắn tự chọn thuộc giai đoạn văn học Việt Nam 1930 – 1945.

 

 

Yêu cầu chung
– Câu hỏi hướng đến việc đánh giá năng lực viết bài văn NLVH, đòi hỏi thí sinh phải huy động kiến thức về lí luận văn học, tác phẩm văn học, kĩ năng tạo lập văn bản để làm bài.

– Thí sinh có thể cảm nhận và kiến giải theo những cách khác nhau, nhưng phải có lí lẽ, căn cứ xác đáng.

Yêu cầu cụ thể  
1. Giải thích và bàn luận ý kiến 1,5
* Giải thích:

– Ý kiến thứ nhất: Từ việc nêu cách hiểu về các cụm từ những câu chuyện đáng kể, những tư tưởng đáng ghi, học sinh cần khái quát được nội dung chính của ý kiến này là nhấn mạnh vai trò của nội dung tư tưởng trong việc tạo nên giá trị của một truyện ngắn.

– Ý kiến thứ hai:

+ Câu chuyện được kể: nội dung của tác phẩm thể hiện qua cốt truyện, nhân vật và tư tưởng chủ đề…

+ Cách kể: nghệ thuật kể chuyện thể hiện qua các yếu tố hình thức: kết cấu, xây dựng tình huống, nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ…

> Nhận định khẳng định cách kể quan trọng hơn nội dung được kể. Đây là cách nói nhấn mạnh đến vai trò của hình thức nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật trần thuật trong việc tạo nên nét đặc sắc cho một tác phẩm truyện ngắn.

* Bàn luận:

– Học sinh có thể đồng tình với một trong hai ý kiến, cũng có thể đồng tình với cả hai bởi thực chất hai ý kiến này không hoàn toàn đối lập loại trừ nhau mà chỉ là những cách nói nhấn mạnh, bổ sung cho nhau để giúp ta nhận thức rõ hơn về giá trị thực sự của một tác phẩm truyện ngắn. Dù bày tỏ quan điểm theo hướng nào, học sinh cũng cần có những luận giải phù hợp, chặt chẽ, giàu sức thuyết phục.

– Ý kiến thứ nhất đề cao vai trò của nội dung tư tưởng, bởi đó là yếu tố quan trọng trong truyện ngắn. Không giống như tiểu thuyết, truyện ngắn là một lát cắt của đời sống, một khoảnh khắc đầy ý nghĩa mà nhà văn lựa chọn để chuyển tải thông điệp của mình. Vì vậy lựa chọn câu chuyện đáng kể và chắt lọc những tư tưởng mới mẻ nhân văn là điều tạo nên sức hấp dẫn đáng kể cho truyện ngắn.

– Ý kiến thứ hai nhấn mạnh vai trò của hình thức nghệ thuật, bởi cách kể câu chuyện như thế nào cũng là một vấn đề then chốt tạo nên cái hay cho truyện ngắn. Cùng một cốt truyện, một chủ đề, nhà văn sáng tạo tình huống, sắp đặt trình tự kể, lựa chọn ngôi kể, ngôn ngữ kể, giọng điệu, linh hoạt điều chỉnh tốc độ kể nhanh hay chậm, phối hợp đa dạng các điểm nhìn trần thuật…

+ Tất cả những yếu tố nghệ thuật đó sẽ tạo nên sự lôi cuốn cho câu chuyện, đưa người đọc vào thế giới nghệ thuật riêng biệt mà nhà văn sáng tạo nên.

+ Nếu cách kể chuyện không hấp dẫn sẽ không thể chuyển tải nội dung đến bạn đọc một cách đầy đủ, thấu đáo

+ Cách kể là thước đo, là dấu hiệu đánh giá tài năng và phong cách nghệ thuật của tác giả

+ Cách kể làm nên giá trị thẩm mĩ cho tác phẩm, mới tạo ra những khoái cảm thấm mĩ thực sự khiến bạn đọc rung động …

– Hai yếu tố trên thực ra thống nhất và gắn bó với nhau vô cùng chặt chẽ. Nội dung tư tưởng sâu sắc bao giờ cũng chỉ được làm nổi bật khi nó được chuyển tải qua một hình thức phù hợp. Và ngược lại, nếu hình thức nghệ thuật độc đáo hấp dẫn nhưng câu chuyện kể và tư tưởng của nhà văn cũ kĩ sáo mòn hoặc thậm chí lệch lạc thì sức sống của tác phẩm truyện ngắn đó cũng không thể bền lâu…

Hướng dẫn chấm:

– Thí sinh giải thích, lí giải vấn đề lí luận văn học sâu sắc: 1,5 điểm

– Trường hợp thí sinh giải thích chung chung, lí giải vấn đề lí luận văn học chưa sâu sắc: 0,75 điêm

 

 

 

 

 

 

 

2. Phân tích một truyện ngắn để làm sáng tỏ ý kiến 7,5
– Học sinh có thể lựa chọn bất kì truyện ngắn nào trong chương trình thuộc văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945  và phân tích theo định hướng lý luận như trên để làm rõ quan điểm của mình. Tránh phân tích lan man dài dòng không cần thiết hoặc diễn xuôi văn bản.

Ví dụ: Phân tích đoạn mở đầu truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao:

a. Câu chuyện được kể: tiếng chửi của Chí Phèo

b. Cách kể

* Điểm nhìn và phương thức trần thuật: Đoạn văn được trần thuật ở ngôi thứ 3 số ít nhưng nhà văn đã thay đổi điểm nhìn một cách linh hoạt:

+ Vừa trần thuật bằng điểm nhìn của tác giả,

+ vừa trần thuật bằng điểm nhìn của những người dân Vũ Đại,

+ vừa trần thuật bằng điểm nhìn của CP.

* Giọng điệu trần thuật: Có nhiều giọng điệu đan xen vào nhau:

+ Giọng của tác giả là giọng kể  khách quan, dửng dưng, đôi chỗ phân tích triết lý.

+Giọng của người dân làng Vũ Đại là giọng thờ ơ lạnh lùng.

+ Giọng của Chí Phèo thể hiện sự tức tối bực bội, cáu bẳn, đay nghiến.

> Cách trần thuật này tạo nên sự sinh động, hấp dẫn cho đoạn văn. Giúp nhà văn miêu tả và phân tích được một cách tường tận diễn biến tâm lý của nhân vật.Cách trần thuật này đã khẳng định tính hiện đại trong ngôn ngữ của Nam Cao – ngôn ngữ đa thanh đa giọng.

* Kết cấu chặt chẽ và độc đáo với sự thu hẹp dần phạm vi của tiếng chửi.

– Chí phèo chửi trời. Đây là tiếng chửi vu vơ, là lời cửa miệng. Trời là đối tượng xa nhất, cao nhất nên không được đáp lại.

– Sau đó hắn chửi đời. Đời là một đối tượng quá rộng, quá trừu tượng, không xác định, cho nên tiếng chửi của CP không được đáp lại.

Rồi hắn chửi làng Vũ Đại. Đây là một đối tượng đã xác định nhưng vẫn không cụ thể. Vì vậy mà CP vẫn không được đáp lại. Nhưng qua đối tượng này ta nhận ra sự phẫn uất, sự bất mãn của CP với toàn bộ môi trường sống xung quanh hắn.

Sau đó, hắn lại chửi tất cả đứa nào không chửi nhau với hắn.Đối tượng này đã được thu hẹp hơn cho ta thấy CP muốn gây gổ với tất cả những ai không bắt vè với hắn. Qua đối tượng này ta còn nhận ra nguyên nhân dẫn đến sự phẫn uất, buồn khổ của CP là đó là do không có ai đáp lại lời của hắn.

– Cuối cùng, Chí Phèo chửi đứa đã đẻ ra chính hắn. Qua tiếng chửi này ta thấy Chí Phèo đã chán ghét thân phận của mình. Hắn căm phẫn kẻ đã tạo ra hắn trên cõi đời này nhưng khổ nỗi cũng không ai biết đứa nào đã đẻ ra Chí, thành thử đối tượng của tiếng chửi thực ra lại không định hình, không tồn tại. Kết cục, hắn chửi một mình hắn nghe, đáp lại tiếng chửi của hắn chỉ có tiếng sủa của mấy con chó.

* Ngôn ngữ trần thuật:

– Nhà văn đã sử dụng từ ngữ của đời sống sinh hoạt hàng ngày, đưa vào đoạn văn cả hô ngữ và những tiếng tục. Điều này đảm bảo tính khách quan, tái hiện lại cuộc sống như nó vốn thế. Qua đó cho thấy từ ngữ của Nam Cao có tính chân thật, giúp Nam Cao miêu tả một cách chính xác sinh động tiếng chửi của một thằng say.

– Những lời kể, tả đơn thuần được nhà văn sử ít, thay vào đó là những lời kể, tả kết hợp với phân tích, sử dụng nhiều lời nửa trực tiếp để khắc học tâm lý của nhân vật.

Hướng dẫn chấm:

– Thí sinh vận dụng nhuần nhuyễn kiến thức lí luận văn học, phân tích bài thơ một tác phẩm truyện sâu sắc, hướng đến làm rõ vấn đề lí luận văn học; sáng tạo trong lập luận, phân tích dẫn chứng: 6,0 – 7,0 điểm.

– Thí sinh biết vận dụng kiến thức lí luận văn học, phân tích vấn đề chưa thật nhuần nhuyễn; có sáng tạo trong lập luận, phân tích dẫn chứng: 4,75 – 5,75 điểm.

– Thí sinh tập trung phân tích truyện ngắn, chưa tập trung làm rõ vấn lí luận văn học; chưa sáng tạo trong lập luận, phân tích dẫn chứng: 3,5 – 4,5 điểm.

– Thí sinh tập trung phân tích truyện ngắn, chưa gắn với vấn đề lí luận văn học: 2,25 – 3,25 điểm.

– Thí sinh phân tích truyện ngắn chung chung, không gắn với vấn đề lí luận văn học: 1,0 – 2,0 điểm.

– Thí sinh kể lại truyện ngắn: 0,25 – 0,75 điểm.

 

 

3. Đánh giá 1,0
– Yêu cầu đối với người sáng tác: Để tạo nên một truyện ngắn hay, nhà văn cần phải biết đi sâu vào đời sống để tìm hiểu và khai phá chất liệu hiện thực, từ đó chắt lọc những tư tưởng lớn lao giàu ý nghĩa nhân văn, mang tinh thần thời đại; đồng thời không ngừng lao động và sáng tạo để tạo nên sự hài hòa cân xứng giữa nội dung và hình thức nghệ thuật…

– Yêu cầu đối với người tiếp nhận: Người đọc cần phát huy vai trò chủ động, tích cực của mình trong việc tiếp nhận những giá trị nội dung tư tưởng  và hình thức nghệ thuật của một tác phẩm truyện ngắn, làm giàu cho đời sống tâm hồn và thị hiếu thẩm mỹ của mình.

Hướng dẫn chấm:

– Trình bày được 02 ý: 1,0 điểm.

– Thí sinh trình bày được 01 ý: 0,5 điểm.

 

Bài viết tham khảo

Đề bài số 1: Một trong những thành công về mặt nghệ thuật của truyện ngắn là nhà văn đã tạo được điểm nhìn trần thuật phù hợp. Thông qua một vài truyện ngắn, anh/ chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên

Bài làm

Điểm nhìn trần thuật là một trong những yếu tố không thể thiếu góp phần tạo nên thành công về mặt nghệ thuật của truyện ngắn. Vị trí, xuất phát điểm để nhà văn quan sát và kể lại, tả lại hiện thực đời sống giúp nhà văn thể hiện quan điểm, cách đánh giá về đời sống và con người, và từ đó người đọc cũng nhận ra phong cách nghệ thuật của nhà văn.

Điểm nhìn là vị trí từ đó người trần thuật quan sát và trần thuật, miêu tả, đánh giá trong tác phẩm.Lí thuyết về điểm nhìn trần thuật đã được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình nhắc tới. Tác giả Nguyễn Thị Hoài An trong luận án tiến sĩ của mình khẳng định “Điểm nhìn nghệ thuật trong tự sự là vị trí, chỗ đứng nhất định để nhìn nhận, xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng …và sau đó kể, miêu tả, thể hiện chúng bằng hình thức của một tác phẩm nghệ thuật ngôn từ”. Cần lưu ý rằng vị trí, chỗ đứng không chỉ là vị trí trong không gian, thời gian mà còn là tầm nhận thức, trình độ, văn hóa, lứa tuổi, giới tính, trải nghiệm… của người kể chuyện. Từ điểm nhìn, chủ thể sẽ hướng cái nhìn vào một đối tượng cụ thể tức là từ điểm nhìn nghệ thuật, người kể chuyện xác định thông tin trọng tâm (tiêu điểm) để kể, miêu tả và thể hiện thái độ, bình luận. Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Thu Thủy trong cuốn sách “Điểm nhìn và ngôn ngữ trong truyện kể” đã khẳng định điểm nhìn trong truyện kể chi phối tới quá trình quan sát và kể lại: “Điểm nhìn là vị trí, xuất phát điểm mà từ đó hiện thực được quan sát và kể lại”. Nguyễn Thái Hòa trong “Điểm nhìn trong lời nói giao tiếp và và điểm nhìn trong nghệ thuật trong truyện” thì khẳng định: “Điểm nhìn nghệ thuật là điểm xuất phát của một cấu trúc nghệ thuật, hơn thế nữa là một cấu trúc tiềm ẩn được người đọc tiếp nhận bằng thao tác suy ý từ các mối quan hệ phức hợp giữa người kể và văn bản, giữa văn bản và người đọc văn bản, giữa người kể và người đọc hàm ẩn

Về phân loại điểm nhìn, nếu xét theo góc độ quan sát có thể chia ra: Điểm nhìn không gian (nhìn xa, gần, trên, dưới, lệch, thẳng..); điểm nhìn thời gian (nhìn từ hiện tại, quá khứ, tương lai); điểm nhìn quang học: nhìn hoàn toàn khách quan; điểm nhìn tâm lí: (nhìn theo tầm mắt, tâm trạng của nhân vật); điểm nhìn văn hóa (nhìn theo mô hình hoặc quan niệm văn hóa chung nào đó); điểm nhìn tư tưởng: nhìn theo lập trường, quan điểm có tính giai cấp, xã hội rõ rệt.

Nếu xét theo vai người quan sát thì có điểm nhìn của người kể chuyện và điểm nhìn của nhân vật

Mỗi câu chuyện có thể có một điểm nhìn thấu suốt, gắn liền với một quan điểm, một cách đánh giá; có thể có nhiêu điểm nhìn gắn với nhiều quan điểm, cách đánh giá khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

 

       Điểm nhìn nghệ thuật có vai trò rất quan trọng. Tác phẩm văn học nào dù là thơ hay truyện cũng xuất phát từ điểm nhìn cụ thể. Không thể có tác phẩm văn học nếu không có điểm nhìn và điểm nhìn góp phần quan trọng tạo nên giá trị tác phẩm. Đồng thời ta cũng nhận thấy rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa điểm nhìn với người kể, tác phẩm và người đọc.

Mối quan hệ của điểm nhìn với đối tượng được nói đến trong tác phẩm: Điểm nhìn của chủ thể có điểm rơi vào khách thể. Từ điểm nhìn nghệ thuật, chủ thể của điểm nhìn quan sát, kể lại, miêu tả và bình luận khiến đối tượng được nói đến hiện lên sống động. Nhìn chung, khi phân tích tác phẩm theo điểm nhìn nghệ thuật chúng ta phải trả lời cho các câu hỏi: Người trần thuật là ai? Anh ta miêu tả cái gì? Và dưới cái nhìn của anh ta thì cái được miêu tả hiện ra như thế nào? Từ đó, điểm nhìn nghệ thuật trong tác phẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp người đọc thâm nhập sâu vào tác phẩm trên bình diện nghệ thuật, khám phá một cách sâu sắc giá trị nội dung, tư tưởng mà nhà văn muốn gửi gắm ở đứa con tinh thần của mình.

Điểm nhìn nghệ thuật sẽ chi phối phương thức kể chuyện dẫn đến những phương thức kể chuyện khác nhau, ngôi kể khác nhau…

Điểm nhìn còn thể hiện phong cách nhà văn. Về bản chất  điểm nhìn nghệ thuật luôn xuất phát từ điểm nhìn của tác giả và mỗi tác phẩm truyện đều ẩn chứa trong đó hình tượng tác giả. Từ việc phân tích điểm nhìn nghệ thuật của tác phẩm, người đọc còn có thể tìm ra được nét riêng độc đáo trong phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn.

          Đi sâu vào một vài truyện ngắn, người đọc chúng ta sẽ cảm nhận được rõ hơn tầm quan trọng của điểm nhìn. Đến với truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam, người đọc nhận thấy nhà văn đã lựa chọn được điểm nhìn rất phù hợp với câu chuyện. Tác phẩm được kể chuyện từ điểm nhìn của nhân vật Liên là một cô bé có tâm hồn nhạy cảm. Hoàn cảnh và trải nghiệm của Liên có ảnh hưởng đến điểm nhìn: gia đình Liên vốn ở Hà Nội, vì thầy Liên mất việc, gia đình sa sút nên phải về quê. Mẹ Liên làm nghề hàng xáo và giao cho hai chị em trông coi một gian hàng tạp hóa nhỏ thuê lại của bà lão móm. Cuộc sống hàng ngày ở nơi phố huyện nghèo nàn, bế tắc, tù đọng đã khiến tâm hồn Liên trở nên có nhiều suy tư.

Điểm nhìn kể chuyện đã dẫn đến kiểu phương thức kể chuyện: nhà văn giấu mình và dựa vào điểm nhìn của nhân vật để kể chuyện.

Trước hết đó là điểm nhìn thể hiện trong không gian, thời gian. Khách thể chịu sự chi phối của điểm nhìn nghệ thuật là bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người ở phối huyện nghèo từ lúc chiều muộn đến lúc đêm khuya. Bức tranh thiên nhiên, đời sống hiện lên qua điểm nhìn của nhân vật Liên. Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người lúc chiều muộn hiện lên qua điểm nhìn của Liên đó là bức tranh ngày tàn, chợ tàn, với những kiếp người tàn. Tất cả như đang tàn lụi dần. Mấy đứa trẻ con nhà nghèo nhặt nhạnh những thanh tre, thanh nứa hay bất cứ cái gì còn sót lại trên nền chợ. Bà cụ Thi hơi điên với tiếng cười khanh khách, dáng đi lảo đảo đi lần vào bóng tối.Chị Tí với cái chép miệng thở dài ngao ngán…Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người về đêm hiện lên trong cảm nhận của Liên cũng nhuốm màu u tối. Cuộc sống quẩn quanh, đơn điệu, tẻ nhạt. Những con người kiếm ăn trong đêm, mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ. Mẹ con chị Tí, bác phở Siêu, vợ chồng con cái bác Xẩm hiện lên qua đôi mắt của Liên thật chẳng khác nào những hình nhân trên chiếc đèn kéo quân, cuộc sống kiếm ăn lần hồi lặp đi lặp lại, bế tắc.

Điểm nhìn trần thuật từ bên trong của truyện được biểu hiên ở chỗ nhà văn đi sâu vào thế giới bên trong nhân vật Liên. Điểm nhìn xuất phát từ cảm xúc, tư tưởng, trải nghiệm, vốn sống… của một cô bé có tâm hồn nhạy cảm. Nhà văn có thể đi sâu vào mọi ngõ ngách nội tâm của nhân vật để miêu tả cảm nhận, tâm trạng của Liên trước bức tranh thiên nhiên, đời sống và miêu tả tâm trạng Liên khi đợi tàu, khi tàu đến và khi tàu đi.

Lúc chiều muộn, nhà văn đi sâu vào tâm trạng buồn man mác của Liên: Trong đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn thơ ngây của chị. Liên không hiểu sao nhưng thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc ngày tàn. Liên động lòng thương những đứa trẻ nhà nghèo nhưng chính chị cũng không có gì để cho chúng.

Vào đêm khuya, Liên có tâm trạng bâng khuâng, mơ hồ không hiểu. Liên cũng có hi vọng giống như mọi người dân nơi phố huyện: “Chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”

Với điểm nhìn bên trong, nhà văn cũng nhập thân vào nhân vật Liên, nói lên những suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật khi đợi tàu, khi tàu đến và đi. Tâm trạng đợi tàu khắc khoải và háo hức, niềm khát khao mơ tưởng về một thế giới tràn ngập ánh sáng, sự hồi nhớ quá khứ êm đẹp và cái nhìn dõi theo tiếc nuối khi tàu đi.. tất cả đã được biểu hiện rõ nét qua điểm nhìn bên trong.

“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam  là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam. Lựa chọn điểm nhìn nghệ thuật của một nhân vật nhà văn đã nhập thân vào nhân vật, tựa vào nhân vật để kể chuyện, kể, tả, bình luận với tầm nhìn của nhân vật. Vì thế truyện ít sự kiện, hành động, không có cốt truyện, không tạo ra những tình huống truyện éo le, nghịch cảnh mà đi sâu vào thế giới nội tâm của hai đứa trẻ, đặc biệt là của nhân vật Liên với những rung động, cảm xúc mơ hồ, mong manh mà thật tinh tế. Lối viết văn mềm mại, trữ tình, trong sáng, giàu hình ảnh và nhạc điệu cùng các hình ảnh có tính biểu tượng rất hấp dẫn. Tác phẩm như một “bài thơ trữ tình đượm buồn”, là một tiếng nói trữ tình thầm kín, nhẹ nhàng nhưng thấm thía vô cùng.

Thông qua tâm trạng đợi tàu của chị em Liên và Anh, tác phẩm thể hiện giá trị hiện thực, tư tưởng nhân đạo sâu sắc và kín đáo thể hiện tinh thần yêu nước. Nhà văn thể hiện sự quan tâm đến cuộc sống của những con người nghèo khổ, muốn văn chương trở thành thứ vũ khí thanh cao và đắc lực làm cho cuộc sống con người trở nên tốt đẹp hơn.

Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu  cũng là một tác phẩm đặc sắc đã phát huy được vai trò của điểm nhìn trần thuật. Truyện được kể theo phương thức trần thuật thứ hai và cũng là tác phẩm có nghệ thuật kể chuyện đặc sắc trong chương trình Ngữ văn ở nhà trường. Người kể chuyện cũng là nhân vật chính trong tác phẩm, xưng tôi và kể lại những chuyện mà mình đã chứng kiến và đã tham gia, hơn nữa còn bày tỏ cả những suy nghĩ, đánh giá và cảm xúc.

Điểm nhìn nghệ thuật là điểm nhìn của nhân vật, của nhà nhiếp ảnh Phùng, người nghệ sĩ say mê cái đẹp cũng là một người lính từ chiến trường trở về làm cho câu chuyện trở nên tự nhiên, chân thật. Điều này có tác dụng rút ngắn khoảng cách giữa người đọc và tác phẩm. Mô hình về ngôi kể, điểm nhìn nghệ thuật và nhân vật trong tác phẩm có thể khái quát: Nhà văn = người kể chuyện = nhân vật = Tôi (ngôi 1). Theo điểm nhìn đó các nhân vật khác đều thuộc ngôi thứ ba. Chẳng hạn: người đàn bà = chị, người đàn ông = lão, thằng Phác = nó, Đẩu = anh…

          Điểm nhìn nghệ thuật của tác phẩm chủ yếu là điểm nhìn của nhân vật Phùng =  Tôi = người kể chuyện. Điểm nhìn ấy trước hết là điểm nhìn của người nghệ sĩ say mê và tìm kiếm cái đẹp nên khi tìm thấy cái đẹp, Phùng hoàn toàn choáng ngợp trước cảnh vật thiên nhiên mà anh cho là cảnh trời cho, cả đời bấm máy anh mới gặp một lần. Điểm nhìn tiếp theo là điểm nhìn của người ngoài cuộc chứng kiến cảnh bạo lực trong gia đình hàng chài. Điểm nhìn của một người lính từ chiến trường trở về, đã từng phải vào sinh ra tử để bảo vệ đất nước, vì cuộc sống tốt đẹp của con người khiến Phùng không thể chấp nhận cảnh tượng đó. Anh đã xông vào can thiệp để từ đây điểm nhìn của người kể chuyện = nhân vật là điểm nhìn của người trong cuộc có những ảnh hưởng nhất định đến diễn biến của câu chuyện.

Từ điểm nhìn nghệ thuật của nhân vật đồng thời là người kể chuyện, thời gian trần thuật được kể theo trật tự tuyến tính, tức là theo trình tự thời gian thông thường làm cho mạch truyện diễn ra tự nhiên, các chi tiết truyện kết nối với nhau một cách hợp lý và chặt chẽ. Bắt đầu từ chuyện Phùng được giao nhiệm vụ đến vùng biển để chụp một bức ảnh về cảnh biển trong một buổi sáng có sương mù. Anh đã đến vùng biển cũng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu để chụp ảnh, ở đó anh còn có một người bạn chiến đấu nay làm chánh án tòa án huyện. Tại đây anh có hai phát hiện bất ngờ. Phát hiện thứ nhất là một bức tranh nghệ thuật toàn bích và lãng mạn về cảnh vật thiên nhiên buổi sáng hôm ấy. Phát hiện thứ hai là bức tranh hiện thực đời sống đầy nghiệt ngã về cuộc sống của gia đình hàng chài. Anh đã tham gia vào câu chuyện của gia đình hàng chài và từ trái tim của người nghệ sĩ mang nặng tình đời, tình người anh rút ra những chiêm nghiệm về đời sống và nghệ thuật.

Xét về góc độ điểm nhìn thì truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu không tạo dựng cốt truyện  theo một điểm nhìn đơn nhất mà xuất phát từ nhiều điểm nhìn khác nhau. Trong “Chiếc thuyền ngoài xa” ta còn thấy có điểm nhìn của người đàn bà, của Đẩu khi họ nói về nhân vật người đàn ông ở tòa án huyện.

Điểm nhìn của Đẩu là điểm nhìn của một vị chánh án, người bảo vệ công lý, trừng trị cái xấu và cái ác. Trong mắt anh người đàn ông là kẻ độc ác không thể chấp nhận được. Nhưng từ điểm nhìn của người đàn bà xấu xí, thất học và cam chịu thì ông ta là người ơn vì đã lấy chị, vì đã giúp chị nuôi đàn con. Theo người đàn bà ông ta là nạn nhân của cuộc sống đói nghèo, thậm chí chị còn cho rằng về bản chất ông ta là người “cục tính nhưng hiền lành lắm”...

Chính vì xuất phát từ nhiều điểm nhìn khác nhau mà sự phản ánh hiện thực được thể hiện một cách khách quan và phong phú.  Để rồi từ chỗ nhìn nhận về sự việc, nhân vật ở nhiều góc độ xa và gần, bên ngoài và bên trong và từ nhiều phía nhà văn Nguyễn Minh Châu đã bộc lộ nhìn nhận của mình về cuộc đời và con người. Cuộc đời hóa ra không hề đơn giản, xuôi chiều mà nhiều khi rất phức tạp, bản chất của cuộc đời là đa sự và con người thì đa đoan. Vì vậy con người cần có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để nhận ra bản chất bên trong của đời sống và con người. Điều đó làm tăng giá trị nhận thức cho tác phẩm.

Truyện được kể từ điểm nhìn của nhân vật nên diễn biến sự kiện mang đậm tính chủ quan. Ở đây, nhân vật phải có cái nhìn của một nghệ sĩ thì mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên một cách trực tiếp“trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thật đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào.” Những tình cảm, cảm xúc và thế giới nội tâm của nhân vật Phùng cũng xuất hiện khá nhiều trong tác phẩm như: “Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy cảnh “đắt” như trời cho như vậy”, “Trong giây phút bối rối tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”, “Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”, “Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng…” Khi nhân vật là người kể chuyện  thì thái độ, tình cảm của anh ta thường được bộc lộ qua động từ phán đoán hay khắng định:“Có lẽ” “chắc chắn”,“ chắc mẩm”, “tưởng”…Những động từ này có tác dụng truyền đến cho người đọc những xúc cảm, đánh giá của người kể chuyện.

Có lẽ cũng không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Nguyễn Minh Châu đã chọn điểm nhìn người kể chuyện là điểm nhìn của một người lính đã từng vào sinh ra tử ở chiến trường và chọn không gian chuyện ở một vùng biển vốn là chiến trường cũ vẫn còn dấu tích chiến tranh với những chiếc xe tăng hỏng. Điểm nhìn nghệ thuật cũng như không gian nghệ thuật này đã gợi mở thêm giá trị cho tác phẩm, giúp người đọc nhận ra rằng cái nghèo đói, thất học là hậu quả của chiến tranh tàn khốc và cuộc chiến chống lại cái xấu, cái ác để bảo vệ cái đẹp, cái thiện trong đời thường có khi còn cam go hơn việc chiến đấu chống lại kẻ thù trong chiến tranh. Hơn nữa, cũng không phải ngẫu nhiên Nguyễn Minh Châu chọn điểm nhìn của một nghệ sỹ đam mê nghệ thuật, bởi chỉ có như vậy nhà văn mới thể hiện những phát hiện và phát ngôn những triết lý về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật. Con thuyền nghệ thuật lung linh, huyền ảo và đầy lãng mạn thì ở rất xa còn hiện thực đời sống nhiều khi nghiệt ngã lại ở rất gần. Hãy đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời vì nghệ thuật chân chính phải là cuộc đời và vì cuộc đời. Người nghệ sĩ tài năng cần biết nhìn cuộc đời bằng cái nhìn đa diện, nhiều chiều, phải là người nhận ra sự thật ẩn khuất sau màn sương huyền ảo, phải tiếp cận sự thật để nhận ra ý nghĩa của cuộc sống và nghệ thuật chân chính.

        Thạch Lam và Nguyễn Minh Châu đều là các nhà văn xuất sắc, có nhiều đóng góp cho Văn học Việt Nam hiện đại. Các truyện ngắn được đưa vào chương trình của cả hai nhà văn đều là những truyện ngắn tiêu biểu, có nội dung và tư tưởng sâu sắc, có giá trị nghệ thuật cao. Có thể nói, điểm nhìn nghệ thuật không chỉ giúp người đọc thâm nhập sâu vào tác phẩm trên bình diện nghệ thuật mà từ đó còn khám phá một cách sâu sắc giá trị nội dung, tư tưởng mà nhà văn muốn gửi gắm ở đứa con tinh thần của mình. Từ việc phân tích điểm nhìn nghệ thuật của tác phẩm người đọc còn có thể tìm ra được nét riêng độc đáo trong phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn, cao hơn nữa là nhận thức tác phẩm ở góc độ phong cách học và thi pháp học.

 

 

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *