Đề tự luận văn 11 ( sách mới) Truyện ngắn Cơm con của Kim Lân

ĐỀ KIỂM TRA ĐỊNH KÌ – HÌNH THỨC 100% TỰ LUẬN

Môn: Ngữ Văn 11

(Thời gian: 90 phút, không kể thời gian phát đề)

THỂ LOẠI TRUYỆN NGẮN

ĐỌC HIỂU (6,0 điểm) Đọc văn bản sau:

“Cơm mẹ thì ngon, cơm con thì đắng” […]

  • Ông làm tôi không ngóc đầu lên được mà về đến làng đến nước nữa.

Chiều nào cũng vậy, rượu vào, cả Anh lại cà khịa với cụ Nhiêu móm, ông thân sinh ra hắn. Vợ hắn, quyết là hắn không dám rồi; tuy say hắn cũng hiểu rằng lôi thôi với con mụ la sát ấy là không xong; hôm sau đừng hòng có rượu uống. Con hắn, vợ hắn binh chằm chặp, hắn cũng không dám nốt. Thành ra bao nhiêu nỗi bực tức khi say, cả Anh đổ dồn vào đầu ông bố già nua vô dụng. Thôi thì móm mém, thôi thì cặp kèm, đủ các thứ bẩn mắt. Cả Anh còn nghiệm ra: mỗi lần hắn khới chuyện với bố thì xem chừng con mụ vợ bằng lòng lắm. Và đồ nhắm có phần tươm tất hơn. Uống một hơi cạn chén rượu, cả Anh thở đánh khà một cái; hắn đưa cặp mắt đỏ lầm lầm nhìn bố. Cụ Nhiêu ngồi ở phản bên bón cơm cho cháu. Bộ mặt hom hem, tái bủng không hề lộ ra một nét giận. Trông cái bộ dạng biết phận của bố, cả Anh càng thêm khó chịu; hắn dằn đĩa xuống mâm, xẵng giọng:

  • Mấy cái mâm của tôi bây giờ ông tính sao?

– …

  • Ô hay! Sao tôi hỏi ông lại không thèm trả lời?
  • Thì rồi tôi khắc bảo vợ chồng nó thu xếp trả anh chị chứ sao. Cả Anh dề cặp môi ướt bóng, nhại:
  • Khắc thu xếp trả anh chị chứ sao!… Ông có biết bao nhiêu tiền năm chiếc mâm ấy của tôi bây giờ không?

Câu chuyện này chiều nào hắn cũng dở ra dằn vặt ông cụ. Hồi xưa, cụ Nhiêu lo vợ cho thằng thứ hai thiếu mất dăm chục bạc. Cụ đành đánh liều cầm mấy chiếc mâm của cả Anh đi. Ai ngờ quá hạn, không chuộc được. Những tưởng chỗ anh em thì làm gì cái vặt ấy. Vả lại bao nhiêu dấn vốn dành dụm được khi trước cụ đem trút cả cho thằng trưởng; thì dẫu cụ có tiêu lạm dăm chục của hắn để lo công việc của thằng em, thiết tưởng hắn cũng chẳng thiệt nào. Cụ nghĩ bụng các con cũng như bụng mình.

Cả Anh vẫn lèm bèm nói:

  • Thật, tôi có được nhờ ông cái gì…

(Lược một đoạn: Cụ Nhiêu góa vợ từ lúc hai đứa con còn nhỏ. Cụ thương con nên quyết ở vậy, làm lụng vất vả để nuôi con và gây dựng cho con. Cụ còn tậu được hơn một mẫu ruộng tốt để dưỡng già. Thấy bố có ruộng, vợ chồng cả Anh nài bố về ở với mình, sau đó lại nài cụ sang tên ruộng cho mình. Sau khi đã lấy được ruộng, vợ chồng cả Anh liền thay đổi thái độ, đối xử với bố ngày càng tệ bạc. Cụ Nhiêu tính về quê ở với người con thứ hai. Người con này hiếu thuận nhưng lại nghèo khổ, nên cụ nghĩ thà ở lại nhà cả Anh, chịu khổ một mình, còn hơn là về quê làm khổ con).

 

  • Ông ơi, thịt!

Kề tí vòi ông. Cụ Nhiêu vẫn mải nghĩ ngợi, không biết nó gào to.

  • Thịt! Ông lấy thịt!

Cụ Nhiêu giật mình, vội vã xúc cơm cho cháu. Kề tí hắt ra, trỏ về phía mâm rượu của bố:

  • Cháu ăn thịt kia cơ mà.
  • Ấy chớ! Bố mày đánh chết.

Thế là thằng bé lăn ra giãy giụa khóc. Vợ cả Anh, hai chân giẫm đành đạch xuống đất, nghiến chồng:

  • Có cho thằng bé ăn không, để nó khóc nằng nặc thế kia à? Tức thì cả Anh quát bố:
  • Khổ lắm! Nó đòi thì cho nó ăn hộ tôi một tí. Giữ làm gì… Rõ cái nợ! Không nhịn được nữa, cụ Nhiêu sa sầm mặt lại, hỏi:
  • Anh bảo ai là cái nợ hử?
  • A! Ông vặn lý tôi phỏng? Ai là cái nợ!? Ai là cái nợ ông biết đấy!

Chính hắn cũng không bảo ông cụ thật; vả lại từ xưa đến nay cụ Nhiêu chỉ biết phục tùng. Lần này bị hỏi vặn, hắn cho là bố định gây sự với mình. Hắn tức lồng lộn lên, mặt tím bầm lại, miệng sủi bọt mép, lu loa như đàn bà:

  • Sao mà tôi nặng quá kiếp thế này! Tôi đến chết mất thôi chứ không sao sống được!
  • Chết đi! Mày thử chết đi ông xem nào.
  • A! Ông rủa tôi chết phỏng? Này chết này! Này chết này!

Mồm nói, tay đập. Bát đĩa, ấm chén vỡ xoang xoảng. Mụ vợ lạch bạch từ nhà dưới chạy lên, mặt tái mét vừa thở vừa kêu:

  • Ôi làng nước! Ới giời đất ơi! Ới bố ơi là bố! Khổ quá.

Cả Anh vẫn như mê man, mồm gào tay đập. Mụ vợ tiếc của, ôm chồng du ngã xuống giường. Cụ Nhiêu cuồng quá sinh quẫn, lập cập nhặt những mảnh vỡ chắp chắp, nối nối. Mụ nguýt bố chồng:

  • Chắp với chả nối…

Biết rằng cãi vã với chúng nó chỉ tổ dại mặt, cụ Nhiêu đành lảng ra chỗ khác.

Chiều đã tàn, bóng tối nhờ nhờ bao trùm cảnh vật. Cụ Nhiêu ngồi âm thầm ở xó thềm. Gió nhẹ thổi lùa qua kẽ dại kêu vù vù như tiếng thở dài bất tận. Chiều tàn thê lương quá. Thê lương như chuỗi ngày tàn cục của ông già tuổi tác. Những giọt lệ vẫn âm thầm lăn trên gò má răn reo. Trong khi ấy, ở mãi tận góc nhà, bên ngọn đèn hoa kỳ vàng kệnh, thằng Kề nhớn ra rả học bài luân lý:

  • Bổn phận đối a với a cha mẹ. Bổn ư a phận đối a với a cha mẹ… Cách ngôn: Cha mẹ nuôi a con bằng a giời bằng bể, con nuôi a cha mẹ con kể từng ngày.

(Cơm con, in trong Tuyển tập Kim Lân, NXB Văn học, Hà Nội, 2018, Tr.137-142)

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1. Xác định ngôi kể được sử dụng trong truyện? (0,5 điểm) Câu 2. Nhân vật chính trong truyện ngắn trên là ai? (0,5 điểm) Câu 3. Truyện ngắn trên viết về đề tài gì? (0,5 điểm)

Câu 4. Chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ nói được mô phỏng, tái tạo trong đoạn trích sau: (0,5 điểm)

Tức thì cả Anh quát bố:

  • Khổ lắm! Nó đòi thì cho nó ăn hộ tôi một tí. Giữ làm gì… Rõ cái nợ!

 

Không nhịn được nữa, cụ Nhiêu sa sầm mặt lại, hỏi:

  • Anh bảo ai là cái nợ hử?
  • A! Ông vặn lý tôi phỏng? Ai là cái nợ!? Ai là cái nợ ông biết đấy!

Câu 5. Giữa nhan đề “Cơm con” và nội dung câu chuyện có mối quan hệ với nhau như thế nào? (0,5 điểm)

Câu 6. Nêu chủ đề của truyện? (1,0 điểm)

Câu 7. Từ truyện ngắn trên, anh/ chị rút ra được bài học gì về cách ứng xử đối với cha mẹ của mình? (1,0 điểm)

Câu 8. Anh/ chị có suy nghĩ gì về nội dung của câu tục ngữ: “Cơm mẹ thì ngon, cơm con thì đắng”? (Viết khoảng 5 – 7 dòng). (1,5 điểm)

II.   VIẾT (4,0 điểm)

Anh/ chị hãy viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá hình tượng nhân vật cụ Nhiêu trong truyện ngắn đã cho.

ĐÁP ÁN ĐỀ KIỂM TRA ĐỊNH KÌ

Môn: Ngữ Văn 11

(Thời gian: 90 phút, không kể thời gian phát đề)

Phần Câu Nội dung Điểm
I   ĐỌC HIỂU 6,0
  1 Truyện sử dụng người kể chuyện ở ngôi thứ ba 0.5
2 Nhân vật chính: Cụ Nhiêu 0.5
3 Đề tài: Gia đình/ Mối quan hệ giữa cha con trong gia đình 0.5
4 Một số đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ nói được mô phỏng, tái tạo trong đoạn trích là:

–  Sử dụng các từ chỉ cử chỉ, điệu bộ, nét mặt: quát, sa sầm mặt lại.

–  Sử dụng các từ mang tính khẩu ngữ: hử, a, phỏng

–  Sử dụng các câu tỉnh lược: Khổ lắm, Giữ làm gì, Rõ cái nợ

0.5
5 Mối quan hệ giữa nhan đề “Cơm con” và nội dung câu chuyện là:

–   “Cơm con” ý nói là bố mẹ sống nhờ con cái, và khi đó, theo thói thường, bố mẹ thường hay bị con cái khinh rẻ, hắt hủi.

–  Trong truyện ngắn này, cụ Nhiêu phải sống nhờ vả vào gia đình đứa

con trai trưởng là Cả Anh, và ông bị đứa con dày vò, khinh rẻ, hắt hủi, đúng như câu tục ngữ: “Cơm vợ thì ngon, cơm con thì đắng”.

0.5
6 Chủ đề của truyện:

–   Câu chuyện phản ánh một sự thật phũ phàng: khi cha mẹ già yếu, trở nên vô dụng, phải sống nhờ vào con cái, thì thường bị con cái khinh rẻ, hắt hủi.

–  Qua câu chuyện, tác giả phê phán những kẻ làm con bất hiếu; đồng thời bày tỏ sự thương cảm đối với những bậc cha mẹ già phải sống

với những người con bất hiếu đó.

1.0
7 Học sinh được tự do rút ra bài học, miễn là tích cực và liên quan đến nội dung câu chuyện. Tham khảo:

–  Cha mẹ là người có công sinh thành, dưỡng dục.

–  Chúng ta cần phải biết thờ cha, kính mẹ, lấy lòng hiếu nghĩa để báo đáp công ơn cha mẹ, nhất là khi cha mẹ đã già yếu.

1.0
8 Suy nghĩ gì về nội dung của câu tục ngữ: “Cơm mẹ thì ngon, cơm con thì đắng”:

–  Câu tục ngữ có thể hiểu là: cha mẹ nuôi con bằng tình yêu thương, nhưng con cái khi phải nuôi cha mẹ lại hay bạc đãi.

–   Câu tục ngữ là một lời cảnh tỉnh, nhắc nhở những người làm con cần phải biết hiếu thảo với cha mẹ của mình, cần phải chăm sóc cha mẹ mình bằng lòng yêu thương, để đền đáp lại công ơn to lớn của

cha mẹ.

1.5
II   VIẾT 4,0

 

THỂ LOẠI TRUYỆN NGẮN ĐÁP ÁN

 

    a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận văn học 0,25
  b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Phân tích, đánh giá hình tượng nhân vật cụ Nhiêu trong truyện ngắn đã cho.

0,5
  c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm

Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần giới thiệu được vấn đề cần bàn luận, hệ thống luận điểm chặt chẽ, lập luận thuyết phục, sử dụng dẫn chứng hợp lí. Sau đây là một số gợi ý:

1.  Khái quát tác giả, tác phẩm:

–  Tác giả: Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Ông viết chân thật, xúc động về cuộc sống người nông dân. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông để lại 2 tập truyện ngắn có giá trị: Nên vợ nên chồng (1955) và Con chó xấu xí (1962).

–  Tác phẩm: Truyện ngắn Cơm con được in lần đầu trên Tiểu thuyết thứ Bảy, số ra ngày 28/8/1943.

2.  Phân tích nhân vật cụ Nhiêu:

a. Cụ Nhiêu là người rất mực yêu thương con cháu:

–  Dù góa vợ khi còn trẻ, vì thương hai đứa con nhỏ nên cụ quyết định ở vậy, tần tảo làm lụng để nuôi con khôn lớn và gây dựng gia đình cho hai đứa con.

–   Cũng vì thương con, nên khi nghe vợ chồng Cả Anh dụ dỗ, cụ đã đem mẫu ruộng mà mình một đời khó nhọc mới tậu được trao lại cho vợ chồng Cả Anh.

–  Dù mỗi bữa cơm, cụ đều bị Cả Anh kiếm chuyện để dày vò, nhưng cụ vẫn nhẫn nhịn, “trên mặt không lộ ra một nét giận”, cụ vẫn ân cần chăm sóc cho đứa cháu. Có lúc không chịu đựng được nữa, cụ tức giận đáp trả, nhưng khi thấy Cả Anh đập phá đồ đạc, cụ lại tiếp tục nhẫn nhịn. Cụ cuồng quá sinh quẫn, lập cập nhặt những mảnh vỡ chắp chắp, nối nối; rồi khi Biết rằng cãi vã với chúng nó chỉ tổ dại mặt, cụ Nhiêu đành lảng ra chỗ khác và khóc.

–   Nhiều lần cụ tính về quê ở với đứa con trai thứ hai, nhưng cụ lại nghĩ đến gia cảnh nghèo túng của con. Cụ thà chịu khổ một mình chứ không để cho vợ chồng đứa con thứ hai phải chịu khổ.

b. Cụ Nhiêu là người biết lo xa:

Không chỉ gây dựng cho hai đứa con, cụ còn lo cho tuổi già của mình. Do vậy, cụ đã tậu một mẫu ruộng thượng đẳng điền để làm cái vốn dưỡng già.

c. Cụ Nhiêu có một tuổi già cơ cực:

– Khi không còn tài sản, không làm được việc gì để kiếm ra tiền, cụ bị vợ chồng Cả Anh hắt hủi, khinh thường. Mỗi bữa ăn cụ đều bị Cả Anh đem những chuyện cũ ra mà dày vò thậm tệ.

2.5

 

    – Cụ chỉ còn biết nhẫn nhịn trước thái độ xấc xược, bất hiếu của đứa con. Những giọt nước mắt của tuổi già thật khiến ta đau xót. Cụ nhìn thấy tuổi già của mình cũng thê lương và ảm đạm như khung cảnh của một buổi chiều tàn.

3. Tư tưởng của tác giả:

–  Ca ngợi tấm lòng bao dung, yêu thương con hết mực của cụ Nhiêu.

–  Đồng cảm với nỗi cơ cực của tuổi già mà cụ Nhiêu phải nếm trải.

–   Phê phán vợ chồng nhân vật Cả Anh, những kẻ có lối sống chạy theo vật chất, cạn tình cạn nghĩa, vô ơn đối với người cha đã có công nuôi dưỡng và gây dựng cho mình.

–  Chi tiết đứa cháu ngồi đọc bài luân lý ở cuối truyện có ý nghĩa sâu sắc: vừa có ý nghĩa nhắc nhở, răn dạy; vừa như một lời cảnh tỉnh đối với vợ chồng Cả Anh, rằng gieo nhân nào ắt sẽ gặt quả đấy.

4. Vài nét về nghệ thuật xây dựng nhân vật:

–   Xây dựng tình huống độc đáo: tình huống truyện chỉ xảy ra trong một bữa cơm, nhưng lại có tính khái quát cao, thể hiện tập trung tư tưởng của tác phẩm.

–   Kết hợp điểm nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong, để vừa giới thiệu được một cách đầy đủ về cuộc đời của nhân vật cụ Nhiêu, vừa cho thấy được những suy ngẫm, tâm tư sâu kín của nhân vật.

–   Sử dụng ngôn ngữ đối thoại sinh động, góp phần khắc họa rõ nét

tính cách nhât vật.

 
  d. Chính tả, ngữ pháp

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt.

0,25
  e. Sáng tạo: Bài viết có giọng điệu riêng; cách diễn đạt sáng tạo, văn

phong trôi chảy.

0,5
Tổng điểm 10.0

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *