Đề trọng tâm thi TN 2022: Đề chuyên sâu đoạn văn Vợ Nhặt – Kim Lân

MỞ BÀI CHUNG

Văn chương là một sản phẩm tinh thần tinh tế thể hiện tài năng và tâm huyết của người nghệ sĩ. Tuy nhiên, việc tác giả được thừa nhận là một nghệ sĩ thực sự chưa bao giờ là điều dễ dàng. Bàn về vấn đề này, nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e nhận định: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: Đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra”. Dựa trên nhận định của La Bơ-ruy-e có thể khẳng định Kim Lân là một nhà văn thực sự. Ông là cây bút chuyên viết truyện ngắn, là người “một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn” (Nguyên Hồng). Ông thường viết về nông thôn và người nông dân và có những trang viết hết sức đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê, những người dân quê mà ông am hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ. Dù viết về phong tục hay con người, trong tác phẩm của Kim Lân ta vẫn thấy thấp thoáng cuộc sống và con người của làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời; thật thà, chất phác mà thông minh, hóm hỉnh, tài hoa. Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những truyện ngắn xuất sắc đã nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý.

 

PHÂN TÍCH ĐOẠN VĂN

Đoạn số 1:

Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở đâu sầm sập chạy đến. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói:

– Điêu! Người thế mà điêu!

Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị là ai. Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.

– Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.

À, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười:

– Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.

– Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.

Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.

– Đây, muốn ăn gì thì ăn.

Hắn vỗ vỗ vào túi:

– Rích bố cu, hở!

Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả:

– Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì.

Thế là thị ngồi sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:

– Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.

Hắn cười:

– Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.

Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Sau không biết nghĩ thế nào hắn tặc lưỡi một cái:

– Chậc, kệ!

Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về…

(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, Tập hai,

NXB Giáo dục Việt Nam)

Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo thể hiện trong đoạn trích.

 

MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

– Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích: “Lần thứ hai…cùng đẩy xe bò về” đã thể hiện rõ chân dung nhân vật người vợ nhặt, tình thương của nhân vật Tràng, từ đó tác phẩm bộc lộ giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

THÂN BÀI

  1. Khái quát

– Hoàn cảnh ra đời: Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo. Sau ngày hòa bình lập lại (1954), Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ và viết nên truyện ngắn Vợ nhặt. Tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn là một trong những thành công của tác phẩm để “Vợ nhặt” bám rễ vào đời, nở hoa trong trái tim, tâm hồn của người đọc biết bao thế hệ.

– Giới thiệu tình huống truyện: Thạch Lam từng nhận định “Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức”. Qua một tình huống truyện tưởng chừng đơn sơ nhưng Kim Lân đã mở ra biết bao điều đáng suy ngẫm về cuộc sống này.

+ Bối cảnh truyện là nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết quả là hơn hai triệu người chết. Cái chết hiện hình tạo nên một không khí ảm đạm, thê lương được tác giả tái hiện trong tác phẩm. Nạn đói khiến khoảng cách giữa sự sống và cái chết trở nên mong manh hơn bao giờ hết.

+ Trong bối cảnh đó, Tràng là một người nông dân nghèo, kiếm sống bằng nghề đẩy xe bò thuê cho bọn Nhật. Nói như Đỗ Kim Hồi thì anh cu Tràng là “một nhân dạng mà hóa công gọt đẽo sơ sài”. Anh lại có tính hơi gàn, có thói quen vừa đi vừa lảm nhảm những điều mình nghĩ và khi thích chí thì ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Cách ăn nói thì cộc cằn, thô lỗ. Tràng lại là người dân xóm ngụ cư và có thể xếp vào diện ế vợ. Vậy mà trong nạn đói 1945, Tràng đã lấy được vợ một cách dễ dàng, lấy vợ như nhặt được vợ vì chỉ sau hai lần gặp gỡ và vài câu đùa tầm phơ tầm phào mà người đàn bà theo về làm vợ. Đoạn văn từ “Lần thứ hai…cùng đẩy xe bò về” đã tái hiện sinh động tình huống nhặt vợ ấy.

  1. Chân dung người đàn bà (thể hiện cái đói)

Đoạn trích trước hết thể hiện rõ bức chân dung về nhân vật người đàn bà được miêu tả từ nhiều góc độ.

2.1. Tên tuổi

Thông thường, các nhân vật trong tác phẩm dù là chính hay phụ đều có một cái tên để gọi, để phân biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác. Đôi khi, tên nhân vật cũng bao hàm một dụng ý nào đó của tác giả hoặc có thể toát lên tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Nhưng trong tác phẩm cũng như đoạn trích nhân vật người đàn bà không có tên tuổi cụ thể. Không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến mức không thể đặt tên cho nhân vật của mình mà chỉ như vậy nhà văn làm nổi bật thân phận rẻ rúng, bèo bọt của con người trong nạn đói 1945. Thân phận người đàn bà giống như một hạt cát bé nhỏ bị giông bão phũ phàng của nạn đói đã thổi bạt vô phương hướng. Số phận của chị rẻ rúng, có thể bị gạch tên, xóa sổ khỏi cuộc đời bất cứ lúc nào. Khi giá trị con người không còn, thì tên gọi đâu còn ý nghĩa. Vậy nên, ngay từ vấn đề tưởng như vô tình, nhỏ nhặt ấy, tác phẩm đã toát lên giá trị hiện thực và nhân đạo sâu xa – lời tố cáo đanh thép xã hội thực dân phong kiến coi rẻ mạng sống con người.

2.2. Ngoại hình

Hình ảnh người đàn bà hiện lên qua cái nhìn của Tràng thật đáng thương: Quần áo rách tả tơi như tổ đỉa, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt, bộ ngực lép, chiếc nón cà tàng. Cái đói khiến người đàn bà không khác gì một con quỷ đói hay một cái cây khô héo, tả tơi trong giông bão bị rút cạn nguồn nhựa sống đầy tội nghiệp, đáng thương. Những nét tả ngoại hình người đàn bà đã tô đậm sự tiều tụy, nhếch nhác đến thảm hại của con người trong nạn đói.

2.3. Thái độ, hành động và ngôn ngữ của người đàn bà

Cái đói không chỉ làm cho ngoại hình người đàn bà tả tơi, xơ xác, thảm hại mà còn khiến chị ta mất hết nữ tính, đánh mất nhân phẩm, lòng tự trọng, trở nên chao chát, chỏng lỏn, đanh đá, chua ngoa. Nhìn thấy Tràng ngồi uống nước, thị ta ở đâu chạy sầm sập đến như bắt được con nợ trong thảm cảnh ngày đói. Thị đứng trước mặt hắn xưng xỉa mắng: “Điêu, người thế mà điêu”. Ban đầu, Tràng không nhận ra người đàn bà là ai vì hôm nay trông thị rách rưới quá. Nhưng khi nhận ra người đàn bà đã giúp mình đẩy xe bò, Tràng ý tứ mời thị ăn giầu vì miếng trầu là đầu câu chuyện. Một người đơn giản như Tràng cũng không thể bỏ qua chút nghi thức ứng xử ấy. Nhưng thị từ chối thẳng thừng: “Ăn gì thì ăn chứ chẳng ăn giầu”. Thế mới biết, khi con người bị cái đói hành hạ đến khổ sở, miếng trầu cũng như lễ nghĩa trở thành vô nghĩa. Bị cái đói đày đọa đến khổ sở, người đàn bà cố tình bám vào câu hò vu vơ của người đàn ông xa lạ để vòi ăn. Hiểu được tình cảnh tội nghiệp đáng thương của người đàn bà, Tràng mời thị ăn bánh đúc. Được mời, người đàn bà không chút ngại ngùng, sà xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị mới cầm dọc đôi đũa, quyệt ngang miệng một cái và không ngần ngại bày tỏ: “- Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố“.  Hành động và ngôn ngữ nói năng của người đàn bà không chút ý tứ và có phần thô tục nhưng như là kết quả tất yếu của nạn đói. Khi con người bị dồn đẩy vào bước đường cùng, đứng bên bờ vực của nạn đói và cái chết, người ta còn có cách nào hơn là phải gạt sang một bên danh dự của một con người và trở nên gai góc để được ăn, được sống. Kim Lân đã đặt cả tình cảm, tấm lòng của mình ở đó. Ông không miêu tả con người bằng cái nhìn tự nhiên chủ nghĩa hay thái độ coi thường, rẻ khinh mà bằng cái nhìn trân trọng, nâng niu, khiến ta thấy thương, thất xót, thấy đau cho cuộc đời bất hạnh của con người

2.4. Theo không người đàn ông xa lạ về làm vợ

Không những thế, ăn xong, thị còn theo không Tràng về làm vợ. Người đàn bà đã hoàn toàn đánh cược cuộc đời mình cho một người đàn ông xa lạ. Thật táo bạo, liều lĩnh. Khi Tràng tuyên bố ‘Rích bố cu, hở” thì có vẻ người đàn bà đã nhìn thấy cơ hội để bám vào nên khi Tràng buông câu nói “Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”, câu nói mà ngay khi nói Tràng cũng nghĩa là nói đùa, thế mà thị lập tức đồng ý theo Tràng về làm vợ. Người đàn bà trở thành thân phận người “vợ nhặt” khiến Tràng vốn ế vợ bỗng dưng lấy được vợ một cách dễ dàng như một anh chàng đào hoa tốt số. Trong một bài trả lời phỏng vấn Kim Lân đã hào hứng giải thích nhan đề : “Nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ.Trong cái đói năm 1945, người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ xuống xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy, giá trị của con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ nhờ mấy bát bánh đúc ngoài chợ – đúng là “nhặt được vợ như tôi nói trong truyện”. Nói như vậy bởi Kim Lân đã đặt cả tình cảm, tấm lòng của mình ở đây. Ông không miêu tả con người bằng cái nhìn tự nhiên chủ nghĩa hay thái độ coi thường, rẻ khinh mà bằng cái nhìn trân trọng, nâng niu, khiến ta thấy thương, thất xót, thấy đau cho cuộc đời bất hạnh của con người

Thân phận vợ nhặt của người đàn bà cho thấy trong nạn đói, giá trị con người trở nên thật rẻ rúng. Con người vốn được cả nhân loại đề cao, trân trọng “Người ta là hoa của đất”, hay phẩm giá của người phụ nữ từng rất được đề cao trong ca dao như:

Ba trăm một mụ đàn bà

Mua về mà dải chiếu hoa cho ngồi

Vậy mà không ai có thể ngờ, trong nạn đói giá trị con người lại trở nên bèo bọt đến mức không khác gì cái rơm, cái rác hay bất cứ thứ gì vô giá trị mà người ta có thể nhặt được ở bất cứ đâu nơi đầu đường, xó chợ. Thậm chí, trong tác phẩm người đàn bà chẳng những không có giá trị mà còn bị coi như một món nợ đời. Bởi vì trong nạn đói miếng ăn là vấn đề sinh mệnh, nhường miếng ăn chính là nhường mạng sống của mình cho người khác và không phải ai cũng dám bước qua để làm được điều đó. Người đàn bà trở thành người vợ do nhặt được mà có khiến sự thiêng liêng (vợ) bỗng chốc trở thành cái rẻ rúng (nhặt). Nhưng éo le thay cho thị, người nhặt thị về làm vợ chỉ là một gã trai nghèo xấu xí, ngố nghếch, dở hơi.

Nhà văn Kim Lân cũng từng nói “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng, bi thảm. Khi viết về những người đói người ta chỉ nghĩ đến những con người nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà hướng đến cái sống, vẫn hi vọng tin tưởng ở tương lai”. Điều đó thể hiện rất rõ qua nhân vật người vợ nhặt.  Hành động vòi ăn và theo không anh cu Tràng về làm vợ nhìn từ bề ngoài là hành động làm mất hết nữ tính, nhân phẩm, lòng tự trọng và khó chấp nhận được nhưng nhìn vào bản chất thì đó là biểu hiện của khát vọng sống, của mong muốn vượt qua được những ngày tháng đói khát. Thị theo Tràng không phải vì thì lẳng lơ mà vì hi vọng được sống. Muốn sống là một khát vọng chính đáng và mang tính nhân bản. Cho nên có thể nói, nhân vật người vợ nhặt mang vẻ đẹp khuất lấp là một sáng tạo nghệ thuật hấp dẫn của nhà văn Kim Lân.

  1. Nhân vật Tràng

Khi người đàn bà đồng ý theo về làm vợ, Tràng dù rất tốt bụng, muốn cưu mang người đàn bà nhưng lúc đầu cũng tỏ ra phân vân, do dự, lo sợ “Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Tràng dù có chút ngố nghếch, dở hơi nhưng rõ ràng hắn nhận thức được tình cảnh của mình trong nạn đói, nhận thức được lấy vợ với hắn lúc này là một gánh nặng. Nhưng sau đó, hắn tặc lưỡi một cái “Chậc, kệ!”. Cái tặc lưỡi của Tràng có vẻ giản đơn nhưng chứa đựng trong đó tình thương, lòng nhân hậu của con người trong cảnh khốn cùng. Đồng thời, quyết định nhanh chóng đó cũng thể hiện niềm khao khát có được hạnh phúc lứa đôi và mái ấm gia đình của Tràng. Phải chăng chính người đàn bà cũng là một điều tươi đẹp, một tia sáng le lói làm sáng lên cuộc sống u ám của Tràng. Sau đó, Tràng còn mua cho người đàn bà cái thúng con và vài thứ lặt vặt, thể hiện sự nghiêm túc, chu đáo, trân trọng người vợ nhặt. Cách cư xử của Tràng cho thấy dường như những người nghèo bên bờ vực của cái chết họ đã hiểu rằng cưu mang, đùm bọc nhau chính là con đường đế đến cái sống.

  1. Đánh giá chung

4.1. Nghệ thuật

Với tình huống truyện đầy éo le nhưng cũng rất độc đáo; Nghệ thuật kể chuyện sinh động, hóm hỉnh, hấp dẫn; Nghệ thuật xây dựng nhân vật chân thực, sống động; Sử dụng ngôn ngữ đối thoại mộc mạc, giản dị, có chọn lọc để thể hiện  tâm lí, tính cách nhân vật một cách sắc sảo, tinh tế; Chọn được chi tiết nghệ thuật đặc sắc.

4.2. Nhận xét về giá trị hiện thực và nhân đạo thể hiện qua đoạn trích

Đoạn văn bản rất ngắn nhưng đã góp phần thể hiện rõ giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm:

        – Giá trị hiện thực: Nhân vật người vợ nhặt cho thấy hoàn cảnh có sức mạnh ghê gớm, có thể làm biến dạng về cả nhân hình lẫn nhân tính của con người. Qua đó, Kim Lân đã tái hiện nạn đói khủng khiếp năm 1945, thể hiện tiếng nói tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít đã đẩy người dân vào nạn đói khủng khiếp để trong nạn đói giá trị con người trở nên rẻ rúng.

– Giá trị nhân đạo: Không chỉ phản ánh hiện thực và lên án các thế lực đen tối đã đẩy người dân vào bước đường cùng, trong đoạn trích Kim Lân còn giúp chúng ta thấy được phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Đó là sự cưu mang, đùm bọc lẫn nhau, là khát vọng bất diệt của con người mà hoàn cảnh dù có bi đát đến đâu vẫn không thể dập tắt được  là khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc.

 

Đoạn số 2:

Trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân có đoạn:

…Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không.

          Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được… Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con… May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được ?

          Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới” :

          – Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…

          Tràng thở đánh phào một cái (…) Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:

          – Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời ? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”.

Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đưa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?…

(Trích Vợ nhặt, Kim Lân,Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục, 2013,tr 28-29)

Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích trên. Từ đó, rút ra nhận xét tấm lòng của nhà văn Kim Lân dành cho người nông dân.

 

MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

– Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích: “Bà lão cúi đầu nín lặng…trước kia không” đã thể hiện rõ diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ khi con trai nhặt được vợ. Từ đó, ta thấy được tấm lòng của nhà văn Kim Lân dành cho người nông dân.

THÂN BÀI

  1. Khái quát

– Hoàn cảnh ra đời: Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo. Sau ngày hòa bình lập lại (1954), Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ và viết nên truyện ngắn Vợ nhặt. Tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn là một trong những thành công của tác phẩm để “Vợ nhặt” bám rễ vào đời, nở hoa trong trái tim, tâm hồn của người đọc biết bao thế hệ.

– Giới thiệu tình huống truyện và nhân vật bà cụ Tứ:

Thạch Lam từng nhận định “Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức”. Qua một tình huống truyện tưởng chừng đơn sơ nhưng Kim Lân đã mở ra biết bao điều đáng suy ngẫm về cuộc sống này.

+ Bối cảnh truyện là nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết quả là hơn hai triệu người chết. Cái chết hiện hình tạo nên một không khí ảm đạm, thê lương được tác giả tái hiện trong tác phẩm với hình ảnh người chết, những đoàn người đói, không khí vẩn lên mùi gây của xác người chết, tiếng quạ gào thê thiết, tiếng khóc của gia đình có người chết… Nạn đói khiến khoảng cách giữa sự sống và cái chết trở nên mong manh hơn bao giờ hết và khiến miếng ăn trở thành vấn đề sinh mệnh của con người.

+ Bà cụ Tứ là nhân vật phụ và xuất hiện muộn trong tác phẩm nhưng để lại nhiều ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc. Có thể nói, cả cuộc đời bà cụ Tứ dằng dặc những nỗi buồn đau. Chồng và con gái bà đã chết và lúc này, bà và đứa con trai duy nhất còn lại trên cõi đời cũng phải đối mặt với nạn đói và đang ở bên bờ vực của cái chết. Vậy mà, bà cụ Tứ lại bị đặt vào một tình huống vô cùng éo le, bi thảm. Một tình huống mà không biết nên vui hay nên buốn, nên cười hay nên khóc. Đó là tình huống trong nạn đói, người con trai duy nhất của bà là Tràng nhặt được vợ. Diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ được thể hiện một cách chân thực, xúc động trong tình huống truyện độc đáo, có một không hai ấy.

– Diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ trước đoạn trích:  Khi Tràng dắt người vợ nhặt về đến nhà, bà lão vẫn chưa về khiến hắn đợi sốt ruột. Lúc bóng chiều chạng vạng, người mẹ nghèo mới về đến đầu ngõ. Ban đầu, bà cụ Tứ rất ngạc nhiên khi hôm nay đi làm về Tràng lật đật chạy ra đón mẹ. Ngạc nhiên vì thái độ khác thường của con trai, bà bật hỏi “Có việc gì vậy“? Tràng lại trịnh trọng mời bà cụ Tứ vào nhà để thưa chuyện khiến bà cụ Tứ phấp phỏng theo con bước vào nhà. Đến giữa sân, bà lão đứng sững lại như không dám tin vào những gì đang diễn ra trước mắt. Bà tự đặt ra không biết bao nhiêu câu hỏi: “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?”. Ai thế nhỉ?. “Ô hay, thế là thế nào nhỉ?”. Không hiểu chuyện gì đã xảy ra, bà lão phải hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Các từ láy “nhấp nháy”, “phấp phỏng”, “hấp háy”, “lập cập”, “băn khoăn” cùng hàng loạt các câu hỏi tu từ đã diễn tả nỗi ngạc nhiên đến tội nghiệp đáng thương trong lòng bà mẹ già nghèo khổ. Nhưng sau khi nghe Tràng giới thiệu người vợ mới với mẹ: “Kìa, nhà tôi nó chào u…” “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau…Chẳng qua nó cũng là cái số cả…” thì bà cụ Tứ mới hiểu. Khi hiểu ra câu chuyên thì trong lòng người mẹ nghèo ấy ngổn ngang bao cơ sự, vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con trai mình.

  1. Diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích

2.1. Buồn tủi:

Khi bà cụ Tứ đã thấu hiểu mọi cơ sự thì bà cúi đầu nín lặng. Trong cái cúi đầu, nín lặng của bà Tứ là sự nén chặt, sự dồn tụ của rất nhiều cảm xúc. Phải rất tinh tế Kim Lân mới bắt được khoảnh khắc tâm lý tưởng như rất tĩnh tại nhưng thực chất lại đầy phức tạp, uẩn khúc này của bà cụ Tứ. Có lẽ, bằng kinh nghiệm của một cuộc đời từng trải, bà đã nhìn thấy đây là cuộc hôn nhân đầy éo le. Và bà cảm thấy buồn tủi vì không thể làm tròn trách nhiệm của người mẹ với con “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Sự xúc động khiến bà nghẹn ngào Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt. Bà xót xa, tủi phận vì việc trọng đại của đứa con trai lại diễn ra chóng vánh, bất ngờ đến thế.

2.2. Lo lắng vì thương con

          Hai dòng nước mắt của người mẹ nghèo ấy còn xuất phát từ sự lo lắng cho sinh mệnh của các con “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Dòng nước mắt lặng lẽ chảy của bà cụ đã khiến cho tất cả người đọc đều phải lặng đi, xúc động bởi ở đó tình mẫu tử, tình thương con đã được thể hiện sâu sắc.

2.3. Thương con và thấu hiểu cho hoàn cảnh của người con dâu        

Nhưng trên hết cả trong lòng người mẹ nghèo ấy là lòng thương con. Bà thương xót cho số kiếp đứa con mình và rất tự nhiên từ tình thương, từ sự lo lắng dành cho đứa con trai, bà cụ chuyển sang nhìn người con dâu cũng bằng ánh mắt đầy xót xa, thương cảm. Dù Tràng không hề đề cập đến việc nhặt vợ ở đầu đường, xó chợ qua loa và chóng vánh như thế nào, nhưng bằng kinh nghiệm sống của một người đã đi gần hết cả cuộc đời, bà cụ có thề hoàn toàn hiểu được sự thật trần trụi, đắng chát. Mặc dù vậy, bà không hề nhìn cô con dâu bằng sự phán xét khắt khe, coi thường hay đay nghiến thường thấy của một bà mẹ chồng, mà bằng con mắt đầy bao dung và cảm thông. Bà như tự bào chữa cho chính đứa con dâu: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ nảy, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ”.Với chi tiết này, bà cụ Tứ hiện lên không chỉ là hình ảnh của tình mẫu tử thiêng liêng cao cả mà còn là biểu hiện của tình người ấm áp, bao dung. Bằng sự nhân hậu, vị tha, bà đã sẵn sàng mở rộng lòng và dang đôi bàn tay để cưu mang, che chở, nâng đỡ những kiếp người khốn khổ hơn mình. Ở đó, truyền thống đạo lý tốt đẹp của người Việt Nam: “Lá lành đùm lá rách” được thể hiện rất rõ.

2.4. Mừng vui:

Nhà văn Kim Lân đã rất tài tình khi lách sâu ngòi bút của mình vào trong sâu thẳm tâm hồn của người mẹ già nua còm cõi này để phát hiện ra ở bà có rất nhiều tâm lí phức tạp với những tâm trạng đối ngược. Lo lắng, buồn tủi, ai oán nhưng mặt khác bà lại mừng vui vì con có vợ. Mừng là vì từ nay con bà được yên bề gia thất “May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn  này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo hết được“? Tâm trạng mừng vui của bà cụ Tứ chính là tâm trạng chung của các bậc cha mẹ luôn mong con được trưởng thành, lập gia đình để sinh con đẻ cái. Chính tâm trạng  ấy đã khiến bà tác thành và mừng cho các con “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Hai tiếng mừng lòng giản dị, đơn sơ mà vô cùng xúc động, đã nói lên tất cả tấm lòng nhân hậu, bao dung của người mẹ. Nó vừa giúp cả ba người thoát khỏi tình thế ngượng nghịu, khó xử, vừa là sự chào đón ấm áp, đôn hậu với nàng dâu mới. Cùng với các khái niệm thiêng liêng: “duyên, kiếp”, bà cụ đã cho thấy dưới đôi mắt của người mẹ thương con thì người con dâu không phải là người đàn bà chao chát, chỏng lỏn, trơ trẽn mà là người đáng được trân trọng. Còn cuộc hôn nhân chóng vánh, vội vàng của Tràng cũng trở nên thiêng liêng, trọng đại như các cuộc hôn nhân mâm cao cỗ đầy khác.

2.5. Lạc quan, hi vọng ở tương lai

Một phẩm chất rất đáng trân trọng ở nghười mẹ nghèo ấy nữa là sự lạc quan, tin tưởng ở tương lai. Với tấm lòng cao cả, giàu đức hy sinh, bà lão đã nén chặt trong lòng những buồn tủi, lo âu để nâng đỡ, vun vén cho hạnh phúc của hai đứa con mình, tiếp thêm sức mạnh để chúng vượt qua khó khăn. Bà dạy con những điều thuộc về đạo lí nhân nghĩa: “Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may ông giời cho khá”. Cái “nghèo” bà cụ Tứ nói tới là cái nghèo về vật chất. Vợ chồng biết liệu mà bảo nhau làm ăn là biết sống đùm bọc yêu thương thì biết đâu trời sẽ cho khấm khá. Như vậy, càng trong nghèo khó, con người càng phải sống có nghĩa có tình. Đó là điều cốt yếu nhất tạo nên hạnh phúc. Lời dạy của bà cụ Tứ cũng là quan niệm sống của ông cha ta từ ngàn đời:

Nghèo nhân nghèo nghĩa thì lo

                               Nghèo tiền nghèo bạc chẳng cho là nghèo”

Bà cụ Tứ đã ở cái tuổi gần đất xa trời, chẳng còn sống được bao lâu nhưng chính bà là người nói chuyện tương lai nhiều nhất. Bà tin vào triết lí dân gian: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Giàu, không ai giàu mãi. Nghèo, không ai nghèo mãi. Cuộc đời con người nhất định sẽ thay đổi. Tinh thần lạc quan của bà cụ Tứ đã tạo nên sức mạnh cho các con giữa khung cảnh ảm đạm, thê thảm của ngày đói. Bà cũng luôn mong mỏi cho cho con cháu có một tương lai tươi sáng hơn, động viên con vượt qua cái đói và cái chết. Phẩm chất tốt đẹp ấy của người mẹ nghèo, nhân hậu cũng chính là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, cũng được thể hiện rõ qua câu ca dao:

Chớ than phận khó ai ơi

Còn da lông mọc còn chồi nảy cây

2.6. Nội tâm đầy ám ảnh về đói rét. chết chóc

Nén lòng để tạo tâm lý thoải mái cũng như sự khởi đầu tốt đẹp nhất cho hai đứa con nên bà nói toàn chuyện hi vọng, tin tưởng nhưng bằng sự từng trải, bà lão không thể không nhìn thấy và quên đi những ám ảnh về đói rét, chết chóc. Có thể nói đây là một nét tâm lý rất phức tạp và sâu kín của bà cụ Tứ. Khi trở về với cõi riêng của mình, lòng người mẹ nghèo lại quặn thắt với những đau đớn, xót xa. Điều đó được thể hiện rất rõ qua chi tiết: “Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối….Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình.” Kim Lân đã thấu suốt vào cái nhìn của bà cụ Tứ để nhận thấy trong đó sắc màu chủ đạo là màu đen đặc của bóng tối. Cái bóng tối ở đây không chỉ là bóng tối của đêm mà còn là bóng tối của đói nghèo, cực khổ đã bao trùm lên toàn bộ cuộc đời bà, là bóng tối của sự chết chóc, ám ảnh qua nỗi nhớ về những người thân đã khuất là người chồng và đứa con gái út. Bóng tối này đã đè nặng lên ánh nhìn, đè nặng lên tấm lòng của người mẹ nghèo để trong lòng bà tràn lên một nỗi xót xa cho số phận mình, nhưng lớn hơn là sự lo lắng đến xót một cho sự tồn tại, cho tương lai các con. Bởi vậy, trong phút trọn vẹn với những cảm xúc của riêng mình, bà tự đặt câu hỏi Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?. Câu hỏi ấy là nỗi niềm của người mẹ vừa lo lắng và vừa hi vọng cuộc đời con mình sẽ khấm khá hơn cha mẹ.

Nhìn chung, đoạn văn đã diễn tả tâm trạng bà cụ Tứ đan xen nhiều cảm xúc: mừng, lo, buồn, vui lẫn lộn. Ngòi bút tinh tế và tấm lòng đôn hậu của Kim Lân đã diễn tả thật chân thực tình cảm, tấm lòng của bà mẹ già nghèo khổ. Dòng tâm tư của bà cụ Tứ đã tạo nên sự xúc động cao độ về vẻ đẹp của tình mẫu tử, lớn hơn là tình người, góp phần khẳng định nhận định của Bersot “Trong vũ trụ có lắm kì quan, nhưng kì quan đẹp nhất là trái tim người mẹ” là hoàn toàn đúng đắn.

  1. Đánh giá

3.1. Về nghệ thuật xây dựng nhân vật bà cụ Tứ

Thành công của việc xây dựng hình tượng bà cụ Tứ là tác giả đã đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo để phát hiện vẻ đẹp tâm hồn nhân vật; Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, đối thoại sinh động, hấp dẫn; Ngôn ngữ mộc mạc giản dị, gắn với khẩu ngữ nhưng được chắt lọc kĩ lưỡng, tạo sức gợi đáng kể; Trần thuật từ nhiều điểm nhìn: bên ngoài (dáng vẻ, ánh mắt,…), bên trong (suy nghĩ, cảm xúc), đặc biệt chú trọng miêu tả nội tâm nhân vật, thể hiện năng lực miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sắc sảo và sự am hiểu con người nông thôn.

Kim Lân đã diễn tả đúng tâm lí một bà cụ nông dân nghèo khổ, tội nghiệp nhưng rất hiểu đời và có tấm lòng nhân ái cảm động. Nhờ có bà cụ Tứ mà câu chuyện nhặt vợ của Tràng được soi chiếu từ một góc mới, làm bật lên các âm hưởng khác nhau: đau buồn và hứng khởi, bi quan và lạc quan, lãng mạn và đời thường.

3.2. Nhận xét về vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam

          Nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích cũng như trong tác phẩm tiêu biểu cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam tảo tần, chịu thương chịu khó, thương chồng, thương con giàu đức hi sinh và lòng vị tha cao thượng,…Đó là những phẩm chất đáng ca ngợi, trân trọng của người phụ nữ Việt Nam ở mọi thời đại.

3.3. Nhận xét tấm lòng của nhà văn Kim Lân dành cho người nông dân

Nhà văn Kim Lân đã viết về người nông dân bằng tình thương, nỗi xót xa và đồng cảm như ông từng nói: “Khi viết về cái đói, thường mọi người có ý nghĩ là khi đói con người ta khổ cực và đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng ở tương lai”. Tấm lòng của Kim Lân dành cho người nông dân được thể hiện cụ thể khi nhà văn khắc họa hình ảnh một người mẹ từng trải, hiểu biết, nhân hậu, bao dung, lạc quan, là nhân vật điển hình về những người nông dân nghèo khổ. Nhân vật này góp phần vào việc thể hiện tình cảm nhân đạo của tác phẩm: phát hiện, trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của người lao động, tình người cao đẹp, khát vọng hạnh phúc gia đình, lạc quan và tin yêu mãnh liệt vào cuộc sống. Từ đó, nhà văn đã giúp người đọc thấu hiểu: dù hoàn cảnh bi thảm đến đâu người nông dân vẫn giữ được phẩm chất đẹp đẽ và luôn hướng về ánh sáng, sự sống, không ngừng khao khát sống.

Tấm lòng của nhà văn Kim Lân đã làm cho truyện ngắn Vợ nhặt có giá trị phản ánh chân thực hiện thực xã hội Việt Nam, thấm đẫm tinh thần nhân đạo, đem lại niềm tin vào sự đổi đời của người nông dân và sự hướng về cách mạng của họ.

 

Tham khảo bài văn 9+

Trong “Thế giới văn chương” Đặng Tiến từng khẳng định: “Nghệ thuật tạo vẻ đẹp cho những dòng nước mắt và biến nỗi thống khổ của nhân loại thành tiếng hát vô biên”. Mỗi trang viết là những trang đời thấm đẫm nỗi xót xa, tủi nhục,nỗi thống khổ của con người trong kiếp đời lầm than. Và rồi từ những khổ đau, nghệ thuật cất lên tiếng nói tri ân, tiếng nói đồng điệu với tâm hồn con người. Đọc những trang văn viết về cuộc đời của bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt” của Kim Lân ta thêm một lần đau đáu cho kiếp người, giữa cái đói và gam màu xám xịt, u tối của bức tranh hiện thực năm 1945, nhà văn đã lấy ngòi bút của mình để nâng niu vẻ đẹp tâm hồn con người dưới ánh sáng của niềm tin, khát vọng. Khắc họa nhân vật bà cụ Tứ, Kim Lân đã đưa ngòi bút của mình vào những điểm nhìn tâm lí đặc sắc về nhân vật này từ “Cái cúi đầu nín lặng” đến khi “Nước mắt cứ chảy ròng ròng”.

Nhắc đến Kim Lân giới độc giả nhớ ngay tới một nhà văn được xem như “con đẻ của đồng ruộng”. Một cây bút tài hoa chuyên viết về nông thôn và đồng bằng Bắc Bộ. Những tâm tình ông gửi về làng quê của đâu đâu cũng là đất, là hương vị, là nếp sống của những người nông dân chân quê thật thà, chất phác, đôn hậu. Nhà văn Nguyên Hồng từng dành những yêu thương cho nhà văn Kim Lân khi nhận xét: “Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với đất, với người với thuần hậu nguyên thủy nông thôn”, ông là mẫu nhà văn “Quý hồ tinh, bất quý hồ đa” – “viết kĩ lưỡng, viết từ gan ruột không chấp nhận sự nhạt nhẽo, giả tạo” (Đỗ Kim Hồi). Sự nghiệp sáng tác của ông không nhiều nhưng đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị “Vợ nhặt” là một tác phẩm như thế! “Vợ nhặt” được coi là một kiệt tác trong sự nghiệp sáng tác của Kim Lân, cũng như là một truyện ngắn xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Tiền thân của “Vợ nhặt” là một chương trong tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” viết ngay sau 1945. Tới năm 1954, Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để hoàn thành truyện ngắn này.

Văn học là cuộc đời, cuộc đời là nơi xuất phát cũng là đích đi tới của văn học. Và có lẽ, nếu ngòi bút của người nghệ sĩ không chấm vào nghiên mực cuộc đời thì sẽ không đẻ ra những tác phẩm mang đậm dấu ấn thời đại đến vậy. Trong cái gam màu u tối, xám xịt của bức tranh nông thôn Việt Nam năm 1945 – cái năm mà cái đói hoành hành như một cơ lốc tố nhấn chìm con người vào cõi bi thương. “Vợ nhặt” của Kim Lâm lúc bấy giờ như một tia chớp lóe lên giữa màn đêm tối của đói nghèo, khổ đau. Với bút pháp hiện thực đặc sắc Kim Lân đã miêu tả sự hiện hình của cái đói giống như một thảm họa, càn quét hủy diệt mọi sinh linh. Từ âm thanh, mùi vị, hình ảnh đều làm sống dậy hình ảnh làng quê Việt Nam giống như chốn địa ngục trần gian, đâu đâu cũng là mùi gây của xác người chết như ngả rạ, gây ấn tượng về một cõi dương sặc mùi âm khí. Tuy vậy, nhà văn vẫn làm bật lên trong những con người lầm lũi đi trong bóng đêm ấy “Dù trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên là cái chết vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và hi vọng ở tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra người”. Kim Lân đã để chân lí ấy sống trong nhân vật bà cụ Tứ.

Nhà văn Betong Brecht cho rằng: “Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của những con người sống mà là hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả”, xây dựng nhân vật bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân không đi sâu vào khái quát dáng vẻ bên ngoài mà tập trung đi sâu vào những nét đẹp tâm hồn làm nổi bật phẩm chất cao quỳ của người mẹ già, nghèo khổ thương con. Bà cụ Tứ nay đã “gần đất xa trời” nhưng vẫn phải sống chuỗi ngày nghèo khổ, túng thiếu, lại là dân ngụ cư, bấp bênh trôi nổi; chồng mất sớm, con gái út đi lấy chồng xa, chỉ còn lại người con trai là anh cu Tràng lại ngờ nghệch. Hai mẹ con yêu thương đùm bọc cùng nhau sống trong “tấm phên rách” nằm “rúm ró trên mảnh vườn lổn nhổn những búi cỏ dại”.

Kim Lân đã rất khéo léo khi lựa chọn thời điểm “vàng” để bà cụ Tứ xuất hiện, không phải ở đầu câu chuyện mà lại ở cuối, khi tất cả sự sống và cái chết đã rõ mồn một ngay từ đầu. Bà xuất hiện khi Tràng đưa người vợ về nhà ra mắt. Đó cũng là lúc diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ thay đổi liên tục. Vào một buổi chiều chạng vạng, bà cụ trở về căn nhà tồi tàn của mình và vô cùng bất ngờ trước trước sự xuất hiện của một người đàn bà lạ trong nhà. Nhìn thấy sự sốt sắng hiện ra rõ nét trên gương mặt con trai mình bà không khỏi ngạc nhiên, băn khoăn, phấp phỏng, lo âu. Cho tới khi Tràng giãi bày câu chuyện hệ trọng của đời mình, người mẹ nghèo khổ ấy mới vỡ lẽ và ngổn ngang bao cảm xúc.

Miêu tả nhân vật bà cụ Tứ, ngòi bút của Kim Lân ngưng đọng những câu văn trên giấy, nhưng là giọt nước mắt đọng trên khóe mắt người đọc, và sự xót thương đến nghẹt thở trong lồng ngực những người tôn thờ chủ nghĩa nhân đạo. Kim Lân không dùng thêm bất kì một câu văn nào tả những suy nghĩ hay lời căn dặn hay cả những hành động có tác động đến tâm lí mà đơn giản chỉ là cái “cúi đầu nín lặng”. Không đơn thuần chỉ là câu văn trần thuật, mà trong câu văn ngắn này còn rưng rưng cho một tấm lòng hoài cảm đầy ân tình của nhà văn Kim Lân. Cái cúi đầu ấy chất chứa biết bao suy nghĩ, cả những nỗi niềm không thể nói thành lời. Có chút gì đó chua xót, chút gì đó tủi hờn, và cả những nghẹn ngào khiến người mẹ nín lặng bởi câu chuyện con trai vừa giãi bày. Cái im lặng đầy tủi phận, cam chịu và xót xa. Cả cuộc đời dài dằng dặc “cõng nắng nuôi con”, người mẹ nhanh chóng thấu hiểu sự tình, “bà lão hiểu rồi”, bà lão hiều vì sao hôm nay con trai mình hệt như một đứa trẻ chờ mẹ đi chợ về. Bà lão hiểu vì sao lại có người đàn bà lạ trong nhà. Sự từng trải đã giúp bà thoát ra khỏi sự chậm chạp của một con người già để lập tức hiểu ra “hiểu ra biết bao cơ sự”, cơ sự của con trai, người đàn bà kia và cũng là cơ sự của chính mình. Cùng với sự thấu hiểu là niềm ai oán, xót thương, bà thương xót “cho số kiếp đứa con mình” chịu nhiều lao khổ, thiệt thòi. Biết bao cảm xúc lúc ngày kéo dài, nằm ngổn ngang trong lòng người mẹ già, hỗn độn cả trong lòng người đọc, nhưng tuyệt nhiên lại rất ngắn về số câu chữ. Kim Lân đã làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của bà cụ Tứ, vẻ đẹp của một người mẹ luôn yêu thương, bao dung, lắng nghe và thấu hiểu con.

Từ thương con bà hướng về chính mình: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Từ cảm thán “chao ôi!” đứng đầu câu tạo giọng điệu than oán, chua xót kéo dài, bao trọn cả tâm tưởng của bà cụ Tứ. Bà không khỏi chạnh lòng khi nghĩ đến người ta, rồi ngầm so sánh với chính mình, bởi chuyện dựng vợ gả chồng cho con là chuyện hệ trọng của đời người. Bà xót xa ao ước giá gia đình có điều kiện bà sẽ lo cho con một cái đám cưới chu toàn, đầy đủ lễ nghi thế theo đúng phong tục cha ông. Nhưng biết làm sao cho được, khi gia cảnh của bà, đến miếng ăn cho đàng hoàng cũng chẳng nổi. Khó khăn, khốn cùng đã “bóp nát” cái gọi là trách nhiệm của một người mẹ với con. Bao nhiêu tủi cực, nghẹn ngào chua xót, đắng cay cùng cực nén ép lại sau chữ “thì” vô vọng ấy. Dấu chấm lửng cuối câu văn “…” thể hiện sự ngẹn ngào, bất lực. Dấu chấm lửng ấy, là một tiếng thở dài đây tâm trạng của người mẹ già có tâm nhưng lại không đủ sức. Nếu cho rằng “Văn chương là lịch sử tâm trạng con người thì Kim Lân quả là nhà văn đích thực trên cái ý nghĩ ấy”. (Trần Ninh Hồ).

Nhà văn Nam Cao từng quan niệm: “Nước mắt là giọt châu của loài người”. Ở đây nhà văn của nông thôn Bắc Bộ đã cho ta thấy giọt châu, hạt ngọc trong tâm hồn người hồn người mẹ qua những giọt nước mắt hiếm hoi: “Trong kẽ mắt kèm nhèm rỉ xuống hai dòng nước mắt”, lí trí đã không thể ngăn nổi tình cảm, bà khóc vì thương con và tủi nhục cho chính mình. Kim Lân đã như một nhà quay phim tài ba khi lia ống kính của mình chớp lấy những nét thần tình đó là những thước phim cận cảnh làm hiện lên đôi mắt hằn in dấu chân chim, gió sương, nắng mưa, vất vả cả một đời của người mẹ già. Và trong cái kẽ mắt nứt nẻ theo thời gian ấy rạn ra một dòng nước mắt khô héo. Nước mắt của người già mà như Nguyễn Khuyến xưa đã từng viết trong Khóc Dương Khuê:

“Tuổi già giọt lệ như sương

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”

Điều đáng ngẫm bà cụ Tứ mang lại ở đây, là tấm lòng thương con, xót con của bà không chỉ dành riêng cho số kiếp của đứa con mình mà với tấm lòng nhân hậu, bao dung, vị tha bà còn thương cả người đàn bà xa lạ bị hoàn cảnh xô đẩy mới thành con dâu mình. Không cần phải gật đầu đồng ý, hay dưa ra lời đồng tình. Bà trăn trở, sợ trăn ở ấy hiện lên qua ánh mắt đăm chiêu: “… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”, suy nghĩ đó đã minh chứng cho sự đồng tình của bà về sự có mặt của người đàn bà xa lạ. Bà chấp nhận người vợ nhặt là thành viên trong gia đình nên lo lắng cho hạnh phúc của chúng nó giữa cảnh khốn cùng.

Và rồi: “Bà lão khẽ thở dài đứng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà” tiếng thở dài nhè nhẹ ấy không phải là sự trách móc hay coi khinh người đàn bà xa lạ đang cố bấu víu con trai bà, mà là tiếng thở của bao lo toan chất chứa cả một đời. Bà “đăm đăm” nhìn người đàn bà như để nhìn người bạn sẽ đồng hành cùng mình trong cuộc đời khổ cực phía trước. Và cũng từ đó trong suy nghĩ của người mẹ ấy như đã thức dậy bao ý nghĩ nhân đạo và cả sự hàm ơn: Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được… Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con…”, những lời độc thoại trút từ ruột từ gan ấy cuộn trào, dâng ngập lên trong lòng người mẹ vừa khắc khoải,vừa dào dạt, vừa bao la, vừa đong đầy tình mẫu tử, hòa vào trong đó là những rung cảm xót thương từ trái tim nhân đạo của Kim Lân.

Nhưng suy nghĩ đời thường mà đôn hậu yêu thương của bà cụ Tứ khiến trái tim người đọc thổn thức cùng với những trăn trở bình dị và xiết bao ân tình. Hai chữ “mừng lòng” của bà lão nói ra với con. Chữ “mừng” thật là đắc địa. Nó lột tả đúng cái run run của một tấm lòng vị tha cao quý đang ngượng ngập, vụng về tìm cách giấu đi giọt nước mắt xót thương vì sợ phiền lòng cho các con của chính người đang thương xót. Người mẹ già như cố nuốt nước mắt vào trong, cố nén nỗi đau trong lòng để tình yêu thương của mình an ủi đôi vợ chồng trẻ. Người mẹ ấy chẳng muốn con buồn, chẳng muốn con đau, chỉ mong con hãy hưởng trọn vẹn hạnh phúc lứa đôi. Quên làm sao được cử chỉ ân cần mà thương mến của mẹ chồng nói với con dâu: “Con ngồi xuống đây. Nguồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”, câu nói ấy đã xóa bỏ mọi ranh giới giữa mẹ chồng – nàng dâu, nhường chỗ cho tình yêu thương, sự bao dung của người mẹ già.

Để rồi: “Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót” người mẹ nghèo khổ ấy thấu hiểu bao nỗi lòng của đứa con dâu mới. Những e thẹn, tủi hổ ấy có lẽ bà đã từng trải qua trong cái tuổi trẻ của chính mình, “Bà thấp giọng thân mật”: “Kể có ra làm được ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo con ạ!”, đâu còn sự ngỡ ngàng, kinh ngạc như lúc có người đàn bà lạ trong nhà, lời nói ấy chính là những lo lắng cho người con dâu mới, lo lắng cho hạnh phúc đôi trẻ. Bà tiếp lời: “Cố làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Còn điều gì cao quý và thiêng liêng hơn tình mẹ. Kim Lân đã thật sự nung đốt lên trong tâm hồn chúng ta tình mẫu tử thiêng liêng và cao quý. Quả thật, không có kì quan nào đẹp đẽ mà trường tồn bất tử hơn tình mẹ. Nghệ thuật xét đến cùng là “nâng đỡ tâm hồn con người” để con người không sa xuống thành con vật hay ông thánh vô duyên vô bổ.

Lep-ton-xtoi từng khẳng định: “Tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu”. Tình yêu chính “là ngọc đọng, là phiến kì nan trong rừng trầm hương”; là tinh hoa trong vườn hương thảo”; kết tinh nên tình cảm được hun đúc bằng tâm hồn người nghệ sĩ trước những rung cảm của cuộc đời. Cho nên, trong nỗi lo lắng, băn khoăn về hạnh phúc lứa đôi, người mẹ ấy kẹt lại trong tình thương và khao khát hạnh phúc. Bà “nghẹn lời không nói được nữa” bao nhiêu nỗi lo lắng cứ tích tụ lại, nghẹn ứ nơi cổ họng. Nỗi lo mà không thể nào tan đi không thể nào thả trôi, nào dễ ai thấu cho cam. Phó mặc cho cảm xúc làm chủ “nước mắt bà cứ chảy ròng ròng…”. Nếu ở trên, Kim Lân miêu tả giọt nước mắt “rỉ xuống hai kẽ mắt kèm nhèm” chảy ngược vào trong, thì ở đây nó đã tuôn trào cho những suy tư của người mẹ già. Những dòng nước mắt tuôn chạy “ròng ròng” như sự giải thoát của tâm trạng và cảm xúc. Bà khóc vì thương mình, cũng vì thương cho đứa con trai và nàng dâu mới. Có ai đó đã từng nói: Trên đời này thứ chân thật nhất chính là đôi mắt của một người. Đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn, là tiếng lòng “hồn nhiên nhất”; “đồn hậu nhất”. Người mẹ ấy đã sống một đời trọn vẹn đủ đầy vì con.

Nếu ta đã từng xót xa hình ảnh cái đói trong “Một bữa no”, con người vì đói quá nên khi được ăn đã ăn nhiều quá mà chết; Hay cái hình ảnh bế tắc của chị Dậu vùng chạy ra khỏi nhà trong cái cảnh trời tối đen như mực trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố; hoặc ám ảnh cái dáng đi ngật ngưỡng của Chí Phèo phải tự kết liễu cuộc đời mình trên bàn xoay của chế độ để tìm nhân tính trong những trang viết của Nam Cao ta mới thật sự ngỡ ngàng đi đọc văn của Kim Lân. Trong đau khổ, bất hạnh và tối tăm Kim Lân vẫn nâng con người lên trong tình nhân ái. Hình ảnh bà cụ Tứ chính là ánh sáng le lói trong bóng tối của những kiếp người nghèo khổ. Nhân vật bà cụ Tứ đã làm cho giá trị nhân đạo của tác phẩm trở nên thấm thía và cảm động hơn.Hình ảnh bà cụ Tứ mang thông điệp nhân bản hơn: Dù kề bên cái đói, cái chết con người vẫn không bị mất đi vẻ đẹp bản chất lương thiện của mình. Vẫn luôn khát khao hạnh phúc vẫn không thôi mong ước mề tương lai tươi sáng và tốt đẹp.

“Mỗi tác phẩm nghệ thuận phải là một phát minh về hình thức một khám phá về nội dung”, Kim Lân đã khám phá, phát hiện và miêu tả nhân vật bằng cách luồn lách ngòi bút vào đến tận nơi sâu thẳm của tâm hồn, bắt người đọc phải cùng cười, cùng khóc với nhân vật của mình. Nhà văn đã miêu tả thật sâu sắc tâm lí ấy qua một hệ thống ngôn ngữ giản dị nhưng giàu sức gợi, thể hiện qua từng lời nói, cử chỉ, hành động. Phải là nhà văn có vốn hiểu biết phong phú, thấu hiểu và cảm thông, yêu mến và trân trọng cuộc sống thì Kim Lân mới có thể viết nên những trang văn có sức lay động hồn người đến vậy.

Chúng ta sẽ nhớ mãi những trang văn viết về mẹ xúc động vào dào dạt chứa chan ân tình trong “Hòn đất” của Anh Đức, hay “Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Đình Thi và sẽ không thể thiếu đi bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt” của Kim Lân. Nhà văn đã thêm một lần khắc sâu trong tâm khảm mỗi người tình mẹ cao cả và thiêng liêng trong cái đói tối tăm đã cứu vớt tâm hồn người, nâng con người lên bằng những sợi dây tình cảm đan dày.

 

Đề và đáp án tham khảo

Trong truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã miêu tả tâm trạng của bà cụ Tứ. Chiều hôm trước, khi biết con trai mình dắt vợ: “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt…Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không.”.  Và sáng hôm sau, trong bữa cơm “Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này.”

(Kim Lân – Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, tr28 và tr31)

Suy nghĩ của anh/ chị về tâm trạng  bà cụ Tứ trong hai lần miêu tả trên, từ đó là nổi bật thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm qua nhân vật này.

Đáp án

  1. Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm và nêu vấn đề nghị luận
  2. Phân tích tâm trạng của bà cụ Tứ qua hai lần miêu tả

2.1. Giới thiệu chung:  Trong tác phẩm, bà cụ Tứ – một người mẹ nghèo khổ, chỉ xuất hiện ở giữa truyện khi anh Tràng đưa vợ về nhà, nhưng nhân vật này vẫn thu hút được sự quan tâm của người đọc bởi những vẻ đẹp tâm hồn, tính cách.

2.2.  Tâm trạng của bà cụ Tứ ở buổi chiều hôm trước: ai oán xót thương cho tình cảnh của con trai và bản thân mình, lo lắng cho tình cảnh của con  à Người mẹ rất mực thương con, hiểu lẽ đời.

2.3. Tâm trạng của bà cụ tứ ở buổi sáng hôm sau: vui tươi, phấn khởi à Bà muốn mang lại niềm tin cho đôi vợ chồng trẻ à Tinh thần lạc quan, có niềm tin vào tương lai và hạnh phúc tươi sáng.

  1. Đánh giá

2.1. Nhận xét về nội dung và nghệ thuật

– Nhà văn đã xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn, thể hiện ngòi bút phân tích tâm lí tinh tế. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng chắt lọc và giàu sức gợi.

– Thể hiện tài năng và  tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả dành cho nhân vật.

– Sự thay đổi trong diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ đã góp phần cho thấy bà là người mẹ rất thương con, có tinh thần lạc quan, luôn tin vào cuộc sống và tương lai.

3.2. Thông điệp của tác giả

– Ý nghĩa nhân bản mà nhà văn muốn gửi gắm qua nhân vật này là con người dù có đặt vào hoàn cảnh khốn cùng, cận kề cái chết nhưng vẫn không mất đi những giá trị tinh thần và phẩm chất tốt đẹp: lòng yêu thương con người và thái độ lạc quan, hi vọng vào tương lai tươi sáng dù cho chỉ có một tia hi vọng mỏng manh “Dù kề bên cái đói, cái chết, người ta vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng ở tương lai.”

– Diễn biến tâm lí bà cụ Tứ góp phần biểu hiện sâu sắc hơn giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm cũng như tài năng của tác giả.

 

Đoạn số 3:

Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.

Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng loá xói vào hai con mắt còn cay sè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.

Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà.

Bà cụ Tứ chợt thấy con giai đã dậy, bà lão nhẹ nhàng bảo nàng dâu:

– Anh ấy dậy rồi đấy. Con đi dọn cơm ăn chẳng muộn.

– Vâng.

Người đàn bà lẳng lặng đi vào trong bếp. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Không biết có phải vì mới làm dâu mà thị tu chí làm ăn không? Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn.

(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai, Nxb GD,2008, tr 30)

Trình bày cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp người nông dân trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét cái nhìn mới mẻ về con người của nhà văn Kim Lân.

 

MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

– Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích: “Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào …làm ăn có cơ khấm khá hơn” đã thể hiện rõ vẻ đẹp người nông dân, từ đó thể hiện cái nhìn mới mẻ về con người của nhà văn Kim Lân.

THÂN BÀI

  1. Khái quát

– Hoàn cảnh ra đời: Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo. Sau ngày hòa bình lập lại (1954), Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ và viết nên truyện ngắn Vợ nhặt. Tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn là một trong những thành công của tác phẩm để “Vợ nhặt” bám rễ vào đời, nở hoa trong trái tim, tâm hồn của người đọc biết bao thế hệ.

– Giới thiệu tình huống truyện: Thạch Lam từng nhận định “Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức”. Qua một tình huống truyện tưởng chừng đơn sơ nhưng Kim Lân đã mở ra biết bao điều đáng suy ngẫm về cuộc sống này.

+ Bối cảnh truyện là nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết quả là hơn hai triệu người chết. Cái chết hiện hình tạo nên một không khí ảm đạm, thê lương được tác giả tái hiện trong tác phẩm. Nạn đói khiến khoảng cách giữa sự sống và cái chết trở nên mong manh hơn bao giờ hết.

+ Trong bối cảnh đó, Tràng là một người nông dân nghèo, kiếm sống bằng nghề đẩy xe bò thuê cho bọn Nhật. Nói như Đỗ Kim Hồi thì anh cu Tràng là “một nhân dạng mà hóa công gọt đẽo sơ sài”. Anh lại có tính hơi gàn, có thói quen vừa đi vừa lảm nhảm những điều mình nghĩ và khi thích chí thì ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Cách ăn nói thì cộc cằn, thô lỗ. Tràng lại là người dân xóm ngụ cư và có thể xếp vào diện ế vợ. Vậy mà trong nạn đói 1945, Tràng đã lấy được vợ một cách dễ dàng, lấy vợ như nhặt được vợ vì chỉ sau hai lần gặp gỡ và vài câu đùa tầm phơ tầm phào mà người đàn bà theo về làm vợ. Đoạn trích thuộc phần cuối của truyện, diễn tả tâm trạng của ba nhân vật Tràng, người đàn bà và bà cụ Tứ vào buổi sáng sau đêm tân hôn. Thông qua ba nhân vật, người đọc có thể cảm nhận được vẻ đẹp của người nông dân được thể hiện tác phẩm.

  1. Vẻ đẹp của ba nhân vật

2.1. Cảm nhận về nhân vật Tràng trong đoạn văn 

Sáng hôm sau, Tràng dậy muộn khi mặt trời đã lên bằng con sào, ánh mặt trời chiếu vào hai con mắt còn cay sè của hắn. Mặc dù vừa trải qua một đêm tân hôn, nhưng Tràng vẫn thấy như mình đang sống trong một giấc mơ hạnh phúc, ngọt ngào. “Hắn thấy trong người êm ái, lửng lơ như vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”.

Trong cảm xúc đầy mới mẻ, Tràng nhận ra sự thay đổi từ quang cảnh đến không khí trong gia đình. Quang cảnh nhà Tràng hôm nay hoàn toàn đổi khác: Nhà cửa, sân vườn hôm nay được quét tước sạch sẽ, gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc vườn đã được đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong dưới gốc ổi đã đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bày ngay lối đi đã được hót sạch. Không khí trong gia đình Tràng cũng thay đổi đến bất ngờ. Ngoài vườn, người mẹ đang lúi húi rẫy những búi cỏ dại mọc nham nhở. Người vợ của Tràng đang quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp trên tỉnh. Thị thu dọn nhà cửa, phơi phóng quần áo, quét sân, gánh nước và chuẩn bị bữa ăn ngày mới… Phải chăng, vì có gia đình mà thị trở nên như vậy? Bà cụ Tứ cũng vui ra mặt. Bà trở nên tươi tỉnh, khác hẳn ngày thường. Cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Trong gia đình, mẹ con hòa thuận, êm ấm.

Trước sự thay đổi của gia đình, Tràng trở nên cảm động. Bỗng nhiên, hắn thấy yêu thương, gắn bó với ngôi nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình, hắn sẽ cùng vợ sinh con, đẻ cái ở đấy. Cái nhà như một tổ ấm che mưa, che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn vào trong lòng. Bây giờ, hắn mới thấy hắn nên người. Hắn thấy hắn có bổn phận phải lo cho vợ con sau này. Vì thế, hắn xăm xăm chạy ra ngoài sân, hắn muốn làm một việc gì góp phần tu sửa lại căn nhà.

Những cảm xúc chân thực, xúc động của Tràng đã cho thấy sự kì diệu của hạnh phúc. Nó biến một người có tâm hồn ngờ nghệch, vô tư, hồn nhiên như trẻ thơ thành một người đàn ông chín chắn, trưởng thành. Biến con người thô lỗ, cộc cằn trở thành người chồng thực sự. Biến cuộc đời một con người sống trong cô đơn, đau khổ trở thành một cuộc đời ý nghĩa, biết sống có trách nhiệm, yêu thương, chăm sóc những người xung quanh.

2.2. Cảm nhận về người vợ nhặt trong đoạn văn

Chỉ qua một đêm sau khi đã thành vợ của Tràng, thành nàng dâu mới của bà cụ Tứ, ta thấy nhân vật người đàn bà có những biểu hiện, những tình cảm rất tốt đẹp. Bên bờ vực của cái chết, người đàn bà không chỉ khao khát được sống, có lẽ khao khát cả hạnh phúc. Hẳn thị cũng muốn được sống trong mái ấm hạnh phúc của gia đình, một mái ấm tình thương, có chồng có con như những người đàn bà may mắn khác. Và từ nay, ngôi nhà đơn sơ, nghèo nàn của mẹ con Tràng đã thực sự trở thành tổ ấm che mưa, che nắng cho cuộc đời thị. Ý thức được bổn phận làm vợ, làm dâu phải biết vun vén, chắt chiu hạnh phúc gia đình nên thị dậy sớm cùng mẹ chồng quét tước, thu dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, xây đắp tổ hạnh phúc. Mẹ chồng và nàng dâu cùng làm việc, nói chuyện với nhau như thân quen tự bao giờ. Tiếng chổi quét sân của thị kêu sàn sạt trên mặt đất dường như  là biểu hiện của nỗ lực, cố gắng hết lòng của thị muốn xây dựng gia đình mới. Hạnh phúc đã làm cho người đàn bà thay đổi từ chỗ cong cớn, đanh đá, liều lĩnh bỗng trở thành người đàn bà đúng nghĩa, biết lo cho gia đình. Qua nhân vật Tràng và người đàn bà, Kim Lân dường như muốn khẳng định một niềm tin đầy giá trị nhân văn: mái ấm gia đình có đủ sức mạnh để làm thay đổi, để cảm hóa một con người.

2.3. Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ

Buổi sáng hôm nay, tâm trạng bà cụ Tứ cũng hoàn toàn thay đổi. Nếu chiều hôm trước trong lòng người mẹ nghèo ngổn ngang bao nhiêu tâm trạng thì sáng nay trông bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh hẳn lên. Dường như những lo lắng, buồn tủi, xót thương, mặc cảm về thân phận cũng tan theo bóng đêm khi một ngày mới bắt đầu. Niềm hạnh phúc của con đã khiến người mẹ nhân từ, bao dung dường như cũng hạnh phúc theo. Bà cụ cũng dậy sớm cùng con dâu thu dọn, quét tước nhà cửa. Trong lúc, nàng dâu mới quét lại cái sân thì bà lúi hủi rẫy những búi cỏ dại mọc nham nhở. Không còn dáng vẻ của một bà lão gần đất xa trời, khốn khổ, mà thay vào đó bà cụ Tứ trở nên tươi tỉnh, nhẹ nhõm khác ngày thường, khuôn mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Sự thay đổi ở diện mạo, thần thái của bà cụ Tứ cùng với những việc làm nhỏ bé, giản dị của bà đã thể hiện rất rõ sự chăm lo cho hạnh phúc của đứa con. Tất cả đều giản dị song lại vô cùng cảm động vì bà cụ đã hành động bằng tất cả tấm lòng mình để góp phần xây dựng một tổ ấm hạnh phúc, tạo dựng hạnh phúc cho các con.

  1. Đánh giá

3.1. Về nghệ thuật

Nhà văn đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo. Cách dựng truyện của Kim Lân rất tự nhiên, hấp dẫn, có duyên, đơn giản nhưng chặt chẽ. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật một cách tinh tế, sâu sắc. Ngôn ngữ đậm chất nông dân và có sự gia công sáng tạo của nhà văn.

3.2. Nhận xét  về vẻ đẹp của người nông dân và cái nhìn mới mẻ về con người                                                                     

– Nhận xét về vẻ đẹp của người nông dân: Tràng lấy vợ là một câu chuyện dở khóc dở cười nhưng sau sự kiện bi hài ấy, con người và thế giới của riêng Tràng thay đổi: vợ hiền thảo hơn, Tràng đã trưởng thành nên người. Bà mẹ lần đầu tiên trên trán bớt đi đám mây u ám. Trong buổi sáng hôm ấy, tâm trạng của cả ba nhân vật đều có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực. Họ đều có ý thức xây đắp gia đình và đầy hi vọng vào tương lai. Họ cùng tham gia vào việc thu dọn, quét tước nhà cửa với cùng một ý nghĩ lạc quan “Hình như, ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp nhà cửa cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn”. Vậy là trong khung cảnh đói khát chết chóc thê thảm của đất nước năm 1945, những người nông dân khốn khổ như Tràng, người đàn bà và bà cụ Tứ đã tự bộc lộ ra vẻ đẹp của mình. Họ khát khao được sống, được hạnh phúc và trong thời khắc quyết định của số phận, họ biết vượt lên hoàn cảnh, tìm đến hạnh phúc trong niềm vui nương tựa, cưu mang, đùm bọc lẫn nhau. Họ đã hiểu ra rằng, chỉ có tấm tình chân thực mới giúp họ có sức mạnh vượt qua sự thật nghiệt ngã của cuộc đời và không có gì ngăn nổi niềm tin, niềm hi vọng của họ vào tương lai.Tình yêu thương và niềm tin mãnh liệt ấy đã khiến cho ba con người nhỏ bé và mái ấm gia đình của họ không bị vùi xuống vực thẳm của sự chết chóc. Có thể thấy ở đây nhà văn Kim Lân không chỉ phát hiện ra vẻ đẹp của người nông dân mà còn đặt trọn vẹn niềm tin vào nhân phẩm và tương lai của những người lao động cùng khổ. Đó chính là giá trị nhân văn đầy cảm động của truyện ngắn này.

 – Cái nhìn mới mẻ của nhà văn Kim Lân: Nhà văn Kim Lân đã nhìn người nông dân bằng con mắt tình thương, đầy xót xa và đồng cảm như ông từng nói: “Khi viết về cái đói, thường mọi người có ý nghĩ là khi đói con người ta khổ cực và đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng ở tương lai”. Nhà văn luôn lạc quan tin tưởng vào con người, luôn nhìn thấy những điều tốt đẹp của con người ngay cả trong tình cảnh bi đát nhất. Ngoài ra, đoạn trích cũng như tác phẩm cho thấy tài năng quan sát, miêu tả, dựng cảnh, đi sâu khai thác diễn biến tâm trạng nhân vật rất hợp lí, chân thực, đặc biệt tạo tình huống truyện độc đáo, bất ngờ, éo le và cảm động. góp phần làm bừng sáng giá trị nhân văn của tác phẩm.

 

Đề và đáp án tham khảo

Cho đoạn trích sau:

“Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.

Hắn chắp hai tay sau lưng, lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói và hai con mắt còn cay sè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và   chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn, hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươn mươn niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rá mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.

Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà.”

Trích Vợ nhặt – Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục, 2008, tr.30)

Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Tràng trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về tư tưởng nhân đạo mà nhà văn Kim Lân gửi gắm qua nhân vật.

Đáp án

  1. MỞ BÀI

Nêu đúng vấn đề cần nghị luận:

– Đoạn trích sáng hôm sau đêm tân hôn trong truyện ngắn Vợ nhặt – Kim Lân

– Qua đó, thấy được tư tưởng nhân đạo của nhà văn

  1. THÂN BÀI
  2. Khái quát

– Truyện ngắn “Vợ nhặt”: được sáng tác dựa trên tiền thân là cuốn tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, được sáng tác ngay sau CM nhưng còn dang dở và mất bản thảo. Khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc (năm 1954), tác giả dựa vào một phần cốt truyện cũ và viết nên truyện ngắn “Vợ nhặt”, in trong tập “Con chó xấu xí” (1962)

– Ý nghĩa nhan đề: “Vợ” là chuyện thiêng liêng, hệ trọng, “nhặt” gợi cái tầm thường, rẻ rung. Nhan đề đã rạo ấn tượng cho người đọc về nạn đói khủng khiếp, từ đó tố cáo tội ác của thực dân, phát xít, thể hiện niềm tin của nhà văn vào phẩm chất những người dân lao động.

– Tình huống truyện: Tràng nhặt được vợ giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói. Tình huống truyện độc đáo, éo le, đầy thương cảm, thể hiện tài năng của ngòi bút Kim Lân.

Bối cảnh truyện là nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết quả là hơn hai triệu người chết. Cái chết hiện hình tạo nên một không khí ảm đạm, thê lương. được tác giả tái hiện trong tác phẩm. Người chết: như ngả rạ, không sáng nào người làm đồng người đi chợ không gặp 3,4 cái thây nằm còng queo ở ngoài đường. Những đoàn người đói từ mạn Thái Bình, Nam Định, đầu đội chiếu, bồng bế, dắt díu nhau trông xanh xám như những bóng ma, ngổn ngang khắp lều chợ. Tiếng quạ kêu thê thiết, tiếng hờ khóc của gia đình có người chết và không khí vẩn lên mùi gây của xác người chết… Nạn đói hoành hành dữ dội khiến khoảng cách giữa sự sống và cái chết trở nên mong manh hơn bao giờ hết.

Tràng là anh nông dân có ngoại hình xấu, thô kệch: Hai mắt ti hí, gà gà. cằm bạnh, thân hình to lớn vập vạp, thô kệch. Nói như Đỗ Kim Hồi thì anh cu Tràng là “một nhân dạng mà hóa công gọt đẽo sơ sài”. Nghề nghiệp của Tràng là kéo xe thóc thuê.  Tính tình của Tràng lại có phần không bình thường, có phần ngố nghếch, dở hơi. Hắn có thói quen vừa đi vừa lảm nhảm những điều mình nghĩ. Bị bọn trẻ trêu chọc chỉ ngửa cổ cười hềnh hệch. Cách ăn nói cộc cằn, thô lỗ: nói với người đàn bà “làm đếch gì có vợ”, “rích bố cu”; khi bị bọn trẻ trêu chọc: “bố ranh”, “mẹ bố chúng mày”… Đã vậy, gia cảnh nghèo, là dân ngụ cư. Thế mà chỉ bằng vài câu đùa tầm phơ tầm phất trong 2 lần gặp gỡ mà anh cu Tràng vốn ế vợ bỗng dưng có vợ quá dễ dàng. Rồi hắn đưa vợ về nhà giữa những lời xì xầm, ái ngại của những người dân trong xóm ngụ cư. Đêm tân hôn của đôi vợ chồng trẻ diễn ra trong không gian đặc quánh mùi chết chóc và tiếng hờ khóc tỉ tê của những gia đình có người mất.

Tình huống truyện đầy éo le ấy đã tạo ra sự thay đổi trong tâm lí các nhân vật, là điều kiện để các nhân vật bộc lộ phẩm chất, tính cách của mình. Có thể thấy rõ điều đó trong đoạn văn miêu tả ba nhân vật trong buổi sáng hôm sau, đặc biệt là ở sự thay đổi của nhân vật Tràng.

  1. Diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng trong đoạn văn

2.1. Ngạc nhiên

Sáng hôm sau, Tràng dậy muộn khi mặt trời đã lên bằng con sào, ánh mặt trời chiếu vào hai con mắt còn cay sè của hắn. Mặc dù vừa trải qua một đêm tân hôn, nhưng Tràng vẫn thấy như mình đang sống trong một giấc mơ hạnh phúc, ngọt ngào. “Hắn thấy trong người êm ái, lửng lơ như vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”.

2.2. Nhận ra sự thay đổi của gia đình mình

Trong cảm xúc đầy mới mẻ, Tràng nhận ra sự thay đổi từ quang cảnh đến không khí trong gia đình. Quang cảnh nhà Tràng hôm nay hoàn toàn đổi khác: Nhà cửa, sân vườn hôm nay được quét tước sạch sẽ, gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc vườn đã được đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong dưới gốc ổi đã đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bày ngay lối đi đã được hót sạch. Không khí trong gia đình Tràng cũng thay đổi đến bất ngờ. Ngoài vườn, người mẹ đang lúi húi rẫy những búi cỏ dại mọc nham nhở. Người vợ của Tràng đang quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp trên tỉnh. Thị thu dọn nhà cửa, phơi phóng quần áo, quét sân, gánh nước và chuẩn bị bữa ăn ngày mới… Phải chăng, vì có gia đình mà thị trở nên như vậy? Bà cụ Tứ cũng vui ra mặt. Bà trở nên tươi tỉnh, khác hẳn ngày thường. Cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Trong gia đình, mẹ con hòa thuận, êm ấm.

2.3. Sự thay đổi của Tràng      

Trước sự thay đổi của gia đình, Tràng trở nên cảm động. Bỗng nhiên, hắn thấy yêu thương, gắn bó với ngôi nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình, hắn sẽ cùng vợ sinh con, đẻ cái ở đấy. Cái nhà như một tổ ấm che mưa, che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn vào trong lòng. Bây giờ, hắn mới thấy hắn nên người. Hắn thấy hắn có bổn phận phải lo cho vợ con sau này. Vì thế, hắn xăm xăm chạy ra ngoài sân, hắn muốn làm một việc gì góp phần tu sửa lại căn nhà. Trong lúc dọn dẹp nhà cửa, sân vườn, hắn cũng có ý nghĩ thu xếp nhà cửa cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn.

Những cảm xúc chân thực, xúc động của Tràng đã cho thấy sự kì diệu của hạnh phúc. Nó biến một người có tâm hồn ngờ nghệch, vô tư, hồn nhiên như trẻ thơ thành một người đàn ông chín chắn, trưởng thành. Biến con người thô lỗ, cộc cằn trở thành người chồng thực sự. Biến cuộc đời một con người sống trong cô đơn, đau khổ trở thành một cuộc đời ý nghĩa, biết sống có trách nhiệm, yêu thương, chăm sóc những người xung quanh.

  1. Đánh giá

3.1. Nghệ thuật

Nhà văn Kim Lân đã đặt nhân vật vào một tình huống độc đáo – tình huống nhặt vợ để qua đó thấy được sự thay đổi trong tính cách, tâm trạng của Tràng từ khi có vợ. Nhà văn khắc họa diễn biến tâm lí của nhân vật thông qua việc tập trung miêu tả cử chỉ, hành động, suy nghĩa, lời nói…, Tâm trạng của nhân vật được thể hiện bằng ngôn ngữ tự nhiên, sinh động, giàu tính biểu cảm; độc thoại nội tâm,…Kết hợp với ngôn ngữ kể, tả mộc mạc, giản dị và cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn.

3.2. Giá trị nhân đạo

Qua đoạn trích, thấy được tư tưởng nhân đạo của nhà văn

– Người đọc hiểu rõ hơn về tình cảnh nghèo đói, khốn khó của đồng bào ta trong nạn đói 1945. Từ đó, tố cáo tội ác của bọn thực dân, phong kiến đã gây ra nạn đói thê thảm, khủng khiếp trong lịch sử, đẩy người nông dân vào bước đường cùng.

– Thấu hiểu tâm trạng, suy tư của nhân vật, Kim Lân đã thể hiện tình cảm yêu thương, trân trọng, đồng cảm với tình cảnh của người nông dân trong nạn đói. Qua nhân vật Tràng, nhà văn Kim Lân còn phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của họ. Đó là vẻ đẹp của tình người, của khát vọng hạnh phúc..

– Qua đoạn văn, Kim Lân còn gửi gắm một triết lí sống giàu tính nhân bản: Hãy vui vẻ, lạc quan, tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của cuộc đời “Những người đói họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến cái sống”. Dù trong tình huống bi thảm tới đâu, dù kề bên cái chết vẫn khao khát hạnh phúc, con người vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng vào tương lai, vẫn muốn sống cho ra người. Đây cũng chính là chiều sâu tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.

 

Đoạn số 4:

“Bữa cơm  gày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này:

– Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy chốc mà có ngay đàn gà cho mà xem…

Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có hai lưng bát đã hết nhẵn.

Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:

– Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.

Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười:

– Chè đây. – Bà lão múc ra một bát – Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.

Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng. Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vẫn tươi cười, đon đả:

– Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta còn khối nhà chả có cám mà ăn đấy…

Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun ngay lại, miếng cám đắng chat và nghẹn bứ trong cổ. Bữa cơm từ đây không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người.

Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vẩn trên nên trời như những đám may đen.

Người con dâu khẽ thở dài, thị nói lí nhí trong miệng:

– Trống gì đấy, u nhỉ?

– Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ… – Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc.

(Trích Vợ nhặt – Kim Lân, SGK Ngữ văn 12 tập 2, NXB GD)

Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích trên để thấy được tư tưởng nhân đạo của nhà văn.

 

MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

– Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích: “Bữa cơm ngày đói …thấy bà khóc” nằm ở cuối tác phẩm đã góp phần thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.

THÂN BÀI

  1. Khái quát

– Hoàn cảnh ra đời: Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo. Sau ngày hòa bình lập lại (1954), Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ và viết nên truyện ngắn Vợ nhặt. Tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn là một trong những thành công của tác phẩm để “Vợ nhặt” bám rễ vào đời, nở hoa trong trái tim, tâm hồn của người đọc biết bao thế hệ.

– Giới thiệu tình huống truyện: Thạch Lam từng nhận định “Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức”. Qua một tình huống truyện tưởng chừng đơn sơ nhưng Kim Lân đã mở ra biết bao điều đáng suy ngẫm về cuộc sống này. Đó là tình huống anh cu Tràng nhặt được vợ giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói. Tình huống truyện độc đáo, éo le, đầy thương cảm, thể hiện tài năng của ngòi bút Kim Lân.  Bối cảnh truyện là nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết quả là hơn hai triệu người chết. Cái chết hiện hình tạo nên một không khí ảm đạm, thê lương. được tác giả tái hiện trong tác phẩm. Người chết như ngả rạ, không sáng nào người làm đồng người đi chợ không gặp 3,4 cái thây nằm còng queo ở ngoài đường. Những đoàn người đói từ mạn Thái Bình, Nam Định, đầu đội chiếu, bồng bế, dắt díu nhau trông xanh xám như những bóng ma, ngổn ngang khắp lều chợ. Tiếng quạ kêu thê thiết, tiếng hờ khóc của gia đình có người chết và không khí vẩn lên mùi gây của xác người chết… Nạn đói hoành hành dữ dội khiến khoảng cách giữa sự sống và cái chết trở nên mong manh hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh ấy, nhân vật Tràng xuất hiện là anh nông dân có ngoại hình xấu, thô kệch với các nét tả hai mắt ti hí, gà gà. cằm bạnh, thân hình to lớn vập vạp, thô kệch… Nói như Đỗ Kim Hồi thì anh cu Tràng là “một nhân dạng mà hóa công gọt đẽo sơ sài”. Nghề nghiệp của Tràng là kéo xe thóc thuê cho liên đoàn. Tính cách của Tràng lại không bình thường, có phần ngố nghếch, dở hơi. Hắn có thói quen vừa đi vừa lảm nhảm những điều mình nghĩ, bị bọn trẻ trêu chọc chỉ ngửa cổ cười hềnh hệch. Cách ăn nói của tràng thì cộc cằn, thô lỗ. Hắn nói với người đàn bà những câu, từ như “làm đếch gì có vợ”, “rích bố cu”; khi bị bọn trẻ trêu chọc: “bố ranh”, “mẹ bố chúng mày”… Đã vậy, gia cảnh nghèo, là dân ngụ cư. Thế mà chỉ bằng vài câu đùa tầm phơ tầm phất trong 2 lần gặp gỡ mà anh cu Tràng vốn ế vợ bỗng dưng có vợ quá dễ dàng. Rồi hắn đưa vợ về nhà giữa những lời xì xầm, ái ngại của những người dân trong xóm ngụ cư. Đêm tân hôn của đôi vợ chồng trẻ diễn ra trong không gian đặc quánh mùi chết chóc và tiếng hờ khóc tỉ tê của những gia đình có người mất. Buổi sáng sau đêm tân hôn, tâm trạng của Tràng, người đàn bà và bà cụ Tứ đều có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực. Họ đều có ý thức xây đắp gia đình và đầy hi vọng vào tương lai. Họ cùng tham gia vào việc thu dọn, quét tước nhà cửa với cùng một ý nghĩ lạc quan “Hình như, ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp nhà cửa cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn”. Đoạn trích sau đó đã tiếp tục câu chuyện bằng hình ảnh bữa cơm ngày đói.

  1. Phân tích đoạn văn

2.1. Bữa cơm ngày đói thảm hại

Bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới của gia đình bà cụ Tứ là một chi tiết đặc sắc vừa tái hiện chân thực tình cảnh khốn cùng của người nông dân trong hoàn cảnh nạn đói hoành hành, vừa mang một giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc. Thông thường bữa cơm ngày đầu tiên đón con dâu về sẽ rất quan trọng vì nó thể hiện được sự gắn kết của con dâu với nhà chồng. Nhưng với gia đình Tràng thì bữa cơm đầu tiên ấy lại vô cùng đơn giản đến thảm hại “Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Chỉ với những chi tiết đơn giản nhưng Kim Lân đã khắc họa được sự khủng khiếp của nạn đói lúc ấy. Lúc này ăn chỉ để sống qua ngày, con người đang cố gắng giành lấy chút sự sống mong manh từ tử thần. Bữa cơm được chuẩn bị vô cùng sơ sài đến thảm hại, chắc hẳn chúng ta ai cũng biết với bữa cơm như vậy thì sao mà ăn ngon lành cho được nhưng ở đây cả gia đình Tràng đều ăn rất ngon lành. Có lẽ ai cũng hiểu được hoàn cảnh lúc này nhưng họ cố nén cảm xúc trong lòng và cố tỏ ra vui vẻ để động viên nhau, làm động lực giúp nhau vượt qua hoàn cảnh khốn cùng này.

Nhưng những tiếng cười cũng như niềm hy vọng mong manh của cả gia đình nhanh chóng bị dập tắt vì “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn”. Dường như đã liệu được tình huống này sẽ xảy ra người mẹ nghèo khó với tấm lòng nhân hậu, thương người và hết mực thương yêu con đã “lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà cụ vừa khuấy khuấy vừa cười: chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Tuy nói là chè khoán nhưng thật sự đó là nồi cháo cám chát xít, vốn là không phải thức ăn dành cho con người. Với hình ảnh nồi cháo cám, ta càng thấm thía hơn cái thực trạng tàn khốc của nạn đói 1945 và tội ác tàn bạo của phát xít và tay sai đẩy những con người khổ cực ấy vào tình cảnh khốn cùng.

2.2. Phẩm chất của người lao động trong nạn đói

Nhưng cũng chính bữa ăn ngày đói ấy đã làm ngời lên được những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân, họ bị bần cùng hóa nhưng không hề tha hóa. Trái ngược với những thứ đơn sơ, với cái đói cái nghèo là không khí đầm ấm trong bữa ăn “Cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Nhà văn đã cho chúng ta thấy trong hoàn cảnh khốn cùng, người lao động đang cố gắng giành giật lại từng chút sự sống từ bàn tay của tử thần. Hơn nữa, trong gian khổ nhưng họ vẫn có nhau, vẫn lạc quan và vẫn yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Những phẩm chất tốt đẹp đó thể hiện rõ ở cả ba nhân vật mà trước hết là nhân vật bà cụ Tứ.

* Bà cụ Tứ

Vượt qua mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu hà khắc và hoàn cảnh nghèo khó bà cụ Tứ vẫn đón nhận, cảm thông và yêu thương cô con dâu mới, gia đình họ vô cùng hòa hợp, hạnh phúc. Cũng chính vì thế mà trong bữa cơm “Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này: “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà… Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem”. Những câu chuyện bà nói đều là những chuyện tốt đẹp sau này, đều nói về tương lai tươi sáng đầy hy vọng phía trước.

Khi bê nồi cháo cám ra để ăn nào đâu bà cụ Tứ không biết nồi cháo cám kia chát xít chẳng hề ngon lành gì nhưng bà vẫn bảo “ngon đáo để cơ”. Bà nói vậy là vì bà đang cố động viên con mình cũng như con dâu vượt qua hoàn cảnh khó khăn lúc ấy. Ta cảm thấy như bà mẹ già đang cố kìm nén những cảm xúc tủi hờn nhất, những nỗi lo lắng khôn nguôi về tương lai vào tận sâu trong lòng để cười mà động viên các con: “Cám đấy mày ạ”, “Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”, gieo vào lòng các con mình niềm hy vọng sống và vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Càng xót xa ta lại càng nhận ra bà cụ Tứ quả thật là một người mẹ nhân hậu, đảm đang, hết mực yêu thương con, sáng ngời những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

Hơn thế nữa, chẳng phải ngẫu nhiên mà Kim Lân lại để người mẹ ở cái tuổi xế chiều ấy là người lạc quan nhất, luôn đon đả kể chuyện vui và luôn động viên, gieo hy vọng vào lòng các con mình. Bởi lẽ, một người gần đất xa trời như bà cụ Tứ mà còn khát khao sống mãnh liệt đến như vậy thì những người trẻ hơn sẽ lấy đó làm động lực mà tiếp tục nuôi hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Bà cụ Tứ chính là người thắp lửa, giữ lửa, và truyền ngọn lửa khát khao sống, khát khao thoát khỏi đói nghèo, khát khao tự do đến với các con cũng như những người khác.

* Tràng

Không chỉ bà cụ Tứ mà đoạn trích còn cho thấy thái độ của anh Tràng và người vợ nhặt khi ăn cám. Khi Tràng gợt một miếng cháo cám bỏ vội vào miệng “Mặt hắn chum ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”. Qua đây ta thấy anh Tràng là một người vô cùng khéo léo trong cách ứng xử. Mặc dù có hổ thẹn vì không lo được cho vợ một bữa cơm đón dâu đầy đủ nhưng anh cũng hiểu được hoàn cảnh mà không một lời oán than.

* Người vợ nhặt

Còn với người vợ nhặt, ta thấy được sự chuyển biến trong tính cách của thị vô cùng rõ ràng. Ta không còn thấy một người đàn bà “chỏng lỏn”, “đanh đá”, “chua ngoa” và “cong cớn, sưng sỉa” khi nói chuyện với anh Tràng, ta không còn thấy người đàn bà bỏ hết cả sự duyên dáng và danh dự vì miếng ăn mà “cắm đầu ăn một chập bốn bát bánh đúc” trong ngày anh Tràng đưa thị về làm vợ. Mà thay vào đó là một người đàn bà hiểu chuyện: khi nhận bát cháo cám từ tay mẹ chồng “người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tốt lại. Thị điềm nhiên và vào miệng”. Ta thấy được thị là người dâu hiền, vợ thảo, hiểu chuyện, rất tế nhị và biết chấp nhận và cảm thông với gia đình chồng mà không một lời kêu ca, đồng cảm và sẵn sàng đồng cam cộng khổ cùng nhà chồng trong lúc khó khăn.

Dù các nhân vật cố che giấu sự bẽ bàng để giữ không khí gia đình, để động viên nhau cùng vượt qua khó khăn nhưng nhà văn Kim Lân xuất phát từ sự đồng cảm, chia sẻ đã nhận ra và thể hiện một cách tinh tế sự hờn tủi trong bề sâu tâm hồn họ. Đó là từ đó, trong bữa cơm không ai nói thêm câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần với “một nỗi tủi hờn len vào tâm trí của mọi người”. Dù họ vẫn chấp nhận, cam chịu, nén những tủi nhục vào bên trong chứ không một lời ca thán nhưng ý nghĩa hiện thực của tác phẩm vẫn bộc lộ một cách rõ nét. Chi tiết bữa cơm ngày đói có ý nghĩa phản ánh hiện thực tàn khốc của nạn đói năm 1945. Từ đó, lên án tội ác tàn bạo của bọn phát xít và tay sai. Chúng bắt người dân ta phải nhổ lúa trồng đay, triệt đường sống của người nông dân lương thiện. Chúng khiến người dân ta sống cũng như chết, sống lay lắt, vất vưởng như những thây ma ngoài đường, phải bồng bế dắt díu bỏ quê mà đi, khiến nhân dân ta phải ăn cháo cám, thứ thức ăn của gia súc, thậm chí có nhà còn không có cám mà ăn. Sự thật tàn khốc ấy, thời nay không ai trong số chúng ta lại có thể tưởng tượng ra.

 

 

2.3. Chi tiết tiếng trống thúc thuế

Tội ác của bọn thực dân phát xít còn được nhà văn Kim Lân thể hiện rõ hơn qua chi tiết tiếng trống thúc thuế. Giữa lúc người nông dân đã rơi vào cảnh cùng quẫn, đã ở ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết, giữa lúc bao nhiêu người dân vô tội đã bị chết đói mà bọn thực dân, phong kiến vẫn không ngừng áp bức, bóc lột. Giữa lúc mẹ con Tràng đang ăn miếng cháo cám chát xít, nghẹn bứ trong miệng, giữa lúc đàn quạ loài chim ăn xác chết lượn thành từng đám trên bầu trời như những đám mây đen  mà ngoại đình làng vẫn vang lên những tiếng trống thúc thuế dồn dập, vội vã. Chi tiết này cho thấy bọn thực dân, phong kiến hoàn toàn vô cảm với tình cảnh bi thảm của người nông dân. Chúng chỉ biết làm thế nào để áp bức, bóc lột người nông dân một cách thậm tệ nhất. Tội ác ấy của chúng chính là giọt nước tràn li để người nông dân không thể cam chịu mà phải vùng lên đấu tranh được thể hiện qua chi tiết dự báo cuối truyện. Kết thúc truyện trong óc Tràng hiện lên hình ảnh đoàn người chạy trên đê Sộp và đằng trước là ngọn cờ đỏ bay phấp phới. Như vậy, chi tiết tiếng trống thúc thuế đã góp phần thể hiện sự logic trong mạch truyện, thúc đẩy câu chuyện tiếp tục phát triển. Qua đó, tác phẩm đã phản ánh rõ hiện thực cuộc sống của người nông dân lúc trước cách mạng tháng Tám để dẫn đến lối kết thúc có hậu phản ánh đúng những đặc điểm của văn học cách mạng.

Mặt khác chi tiết tiếng trống thúc thuế còn giúp bộc lộ rõ hơn vẻ đẹp của nhân vật Bà cụ Tứ. Trước câu hỏi của người con dâu là “Trống gì đấy, u nhỉ?”, lời đáp của bà cụ “Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ…” cho thấy là người từng trải, người mẹ già ấy như nhìn thấy tình cảnh thê thảm trước mắt. Vậy nên Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc. Hình ảnh ấy cho thấy tấm lòng người mẹ thương yêu và lo lắng cho các con, đồng thời, thấy được sự hi sinh của bà cụ Tứ luôn giấu đi những tủi hờn cho riêng mình. Người mẹ nghèo ấy mang phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam một lòng thương chồng, thương con, giàu đức hi sinh và lòng vị tha, cao thượng.

  1. Đánh giá

3.1. Nghệ thuật

Bằng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn: bữa cơm đón dâu thảm hại chỉ với niêu cháo lõng bõng cùng nồi cháo cám chát xít. Kết hợp với nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật chân thật, sinh động với cách miêu tả tâm lí sắc sảo, tinh tế cũng như ngôn ngữ trần thuật mộc mạc, giản dị, chắt lọc, có sức gợi cảm cao Kim Lân đã tạo nên một đoạn văn thật chân thật và nhiều ý nghĩa.

3.2. Nhận xét về giá trị hiện thực và tư tưởng nhân đạo thể hiện qua đoạn trích

– Người đọc hiểu rõ hơn về tình cảnh nghèo đói, khốn khó của đồng bào ta trong nạn đói 1945. Từ đó, tố cáo tội ác của bọn thực dân, phong kiến đã gây ra nạn đói thê thảm, khủng khiếp trong lịch sử, đẩy người nông dân vào bước đường cùng.

– Mặt khác, trong cảnh chết chóc nghèo đói, người ta đoạn trích vẫn làm ánh lên tình người, tình yêu thương và lòng ham sống vô bờ bến. Tưởng chừng như đang trong bờ vực của cái chết lắt lay, người ta chỉ nghĩ đến những thống khổ nhưng không, ở đây người đọc vẫn bắt gặp tình thương của một người mẹ dành cho con, tình cảm của người vợ dành cho chồng và trách nhiệm của một người chồng dành cho gia đình của mình.

– Và nhà văn bằng sự đồng cảm, chia sẻ cũng hướng con người đến một tương lai hạnh phúc và no đủ hơn.

Đoạn số 5:

Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Mặt hắn có một vẻ gì phởn phơ khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Mấy đứa trẻ con thấy lạ vội chạy ra đón xem. Sợ chúng nó đùa như trước, Tràng vội vàng nghiêm nét mặt, lắc đầu ra hiệu không bằng lòng (…)

Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải. Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói vào hai con mắt còn cay xè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã hót sạch.

Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà.

(…) Hôm ấy hắn láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh đấy. Họ đi cướp thóc đấy. Tràng không hiểu gì sợ quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh động đi lối khác.

À ra họ đi phá kho thóc chia cho người đói. Tự dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu.

Ngoài đình tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng đã buông đũa đứng dậy. 

Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…

                                                                                        (Trích, Vợ nhặt – Kim Lân)

Phân tích nhân vật Tràng trong đoạn trích trên. Từ đó, khái quát giá trị nhân đạo tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân.

Hướng dẫn làm bài

Trích 03 đoạn khác nhau, nhưng thâu tóm các tình tiết chính về nhân vật Tràng và tình huống truyện nên để làm đề bài này cần tham khảo hai đề bài về tình huống truyện và nhân vật Tràng. Các ý chính cần đạt:

  1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm
  2. Đoạn 1: Tình huống nhặt vợ và tâm trạng của Tràng khi dẫn vợ về – Hình ảnh người đàn bà trên đường về nhà chồng trở nên đúng mực, đầy nữ tính.
  3. Đoạn 2: Sự thay đổi của ngôi nhà, không khí gia đình và sự thay đổi của Tràng
  4. Đoạn 3: Nhà văn hướng người nông dân trong nạn đói đến với cách mạng để được đổi đời. Những người đói trong hoàn cảnh khốn cùng họ sẽ trở nên liều lĩnh, như người đàn bà liều lĩnh theo không anh cu Tràng. Tràng liều lĩnh lấy vợ trong nạn đói. Sự liều lĩnh của họ còn đi xa hơn khi người đói phá kho thóc Nhật. Trong bữa cơm ngày đói, trong óc Tràng xuất hiện đoàn người đi phá kho thóc, Việt Minh, lá cờ bay phấp phới chính là chi tiết dự báo những người đói sẽ đi theo cách mạng để được đổi đời. Vậy là người nông dân từ chỗ giải quyết các vấn đề cá nhân khi có cách mạng chỉ đường dẫn lối, họ sẽ đi theo cách mạng, góp phần làm nên lịch sử dân tộc.

Trong đoạn 3, cần kết hợp phân tích thêm chi tiết tiếng trống thúc thuế.

  1. Đánh giá chung về nghệ thuật và giá trị nhân đạo

 

KẾT LUẬN CHUNG

  1. Nhà phê bình văn học Nga Biêlinxki viết: Tác phẩm văn học sẽ chết nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay niềm vui sướng hân hoan, nếu nó không đặt ra câu hỏi hay trả lời những câu hỏi”. Đọc “Vợ nhặt”, ta không chỉ nghe thấy tiếng thét của nỗi đau khổ cùng cực của con người, niềm vui sướng hân hoan khi con người tìm thấy ánh sáng, niềm tin vào tương lai mà Kim Lân còn đặt ra nhiều câu hỏi về cuộc đời, thân phận con người trong nạn đói 1945. Cuộc đời của người lao động bị đẩy vào bước đường cùng rồi sẽ ra sao, tương lai của họ sẽ như thế nào, liệu họ có thể chiến thắng được bàn tay khủng khiếp của tử thần vì nạn đói? Với những giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật, Vợ nhặt của Kim Lân vinh dự đứng ngoài quy luật của sự quên lãng!
  2. “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì một xã hội công bằng, bình đẳng bái ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại(Leptonxtoi). Có thể khẳng định, “Vợ nhặt” của Kim Lân không chỉ được viết bằng tình yêu thương với con người, cuộc đời mà Kim Lân còn vắt kiệt dòng suy nghĩ của mình để hiến dâng cho đời một kiệt tác nghệ thuật vô giá với tình huống truyện độc đáo, sáng tạo, hấp dẫn mà chan chứa tình đời, tình người. Vợ nhặt xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam, một tác phẩm người viết mà hay như thần viết.

Ai đó từng nói rằng “Hãy hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ ngả sau lưng bạn”. Nhà văn Nguyễn Khải cũng viết “Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc bắt nguồn từ những gian khổ hy sinh. Ở đời không có con đường cùng chỉ có những ranh giới điều cốt yếu là phải có đủ sức mạnh để bước qua ranh giới đó”. Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân ta càng hiểu sâu sắc và thấm thía hơn chân lý đó.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *