MỞ BÀI CHUNG
Trong thế giới nghệ thuật của mình, mỗi nhà văn thường chọn cho mình một miền “đất nhớ”, đó là mảnh đất gắn bó, nơi lưu lại những cảm xúc yêu thương, tự hào. Nhà văn Nguyễn Trung Thành cũng có một miền đất nhớ như thế. Ông quê ở Quảng Nam nhưng gắn bó với Tây Nguyên trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Vùng đất Tây Nguyên với núi rừng hùng vĩ, đầy bí ẩn mà thơ mộng, có cánh chim Ling, chim Chơ rao rực rỡ sắc màu, có âm thanh trầm hùng ngân vang của đàn Gông, đàn Tơ Rưng cùng những con người bộc trực, dũng cảm, kiên trung một lòng gắn bó cách mạng được ông ưu ái và dành nhiều niềm thương yêu. Bởi vậy ông đặc biệt thành công khi viết về đề tài Tây Nguyên. Tác phẩm “Rừng xà nu” được viết năm 1965 khi cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc ta đang trong giai đoạn ác liệt. Tác phẩm được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc” và là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Trung Thành viết về Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
PHÂN TÍCH ĐOẠN VĂN
Đoạn số 1:
Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần,hoặc buổi sáng sớm và xế chiều,hoặc đứng bóng và sẩm tối,hoặc nủa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn
Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã … Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng …
Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.
(Trích Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành, Ngữ văn 12,Tập hai,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2008, tr 38)
Anh/chị hãy phân tích hình tượng cây xà nu trong đoạn văn trên. Từ đó, nhận xét ngắn gọn về nghệ thuật đặc sắc được nhà văn Nguyễn Trung Thành được thể hiện qua tác phẩm “Rừng xà nu”.
MỞ BÀI
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
– Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn văn “Làng trong tầm đạn giặc… tới chân trời” đã tập trung miêu tả vẻ đẹp của hình tượng cây xà nu, qua đó thể hiện bút pháp nghệ thuật đặc sắc của nhà văn Nguyễn Trung Thành.
THÂN BÀI
- Khái quát
Rừng xà nu là câu chuyện một đời người kể trong một đêm. Truyện kể về nhân vật Tnú sau ba năm đi “lực lượng” được về thăm làng. Đêm đó, bên bếp lửa, cụ Mết kể lại cho dân làng nghe câu chuyện cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man. Kết truyện, cụ Mết và Dít tiễn Tnú trở về đơn vị. Bên cạnh cốt truyện về cuộc đời Tnú, ngay ở nhan đề, đoạn văn mở đầu cũng như trong suốt truyện ngắn, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã nhắc đến và tập trung bút lực miêu tả về những cảnh rừng xà nu xanh bạt ngàn.
Xà nu là loài cây mọc nhiều ở Tây Nguyên, thuộc họ thông, gỗ và nhựa đều quý. Cây xà nu có sức sống dẻo dai, mãnh liệt có thể tồn tại trong điều kiện khắc nghiệt. Nó rất gắn bó với người dân Tây Nguyên, người dân Tây Nguyên từ khi sinh ra đến lúc chết đi đều gắn với cây xà nu. Gốc xà nu là nơi chôn rau cắt rốn và khi chết đi mộ của họ cũng nằm dưới những tán xà nu. Những cây xà nu có phẩm chất đặc biệt ấy đã gây ấn tượng mạnh mẽ và khơi nguồn cảm hứng cho tác giả tạo dựng lên hình tượng cây xà nu đậm sắc màu Tây Nguyên.
Hình ảnh rừng xà nu trong tác phẩm không chỉ mang đến người đọc phẩm khí vị của núi rừng mà còn mang tính biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Tây Nguyên, là biểu tượng về một làng Xô Man nhỏ bé nhưng kiên cường, bất khuất, khát khao độc lập, tự do.
- Hình tượng rừng xà nu trong đoạn văn
2.1. Cây xà nu mang vẻ đẹp thanh nhã, ham ánh nắng mặt trời
Cây xà nu có hình dáng vừa thanh nhã vừa rắn rỏi, đặc biệt là những cây xà nu non ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên và rất ham ánh nắng mặt trời, nó phóng lên rất nhanh để đón lấy ánh nắng bởi xà nu là loài cây rất ham ánh nắng mặt trời, ham sự sống “Trong rừng cũng hiếm có một thứ cây nào ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, …”. Vẻ đẹp thanh nhã của loài cây rừng Tây Nguyên còn được tô đậm từ qua hình ảnh và mùi hương lóng lánh vô số hạt bụi vàng, thơm mỡ màng từ nhựa cây bay ra.
2.2. Cây xà nu, rừng xà nu đau thương trong làn đạn giặc:
Năm 1965, đế quốc Mỹ đưa quân vào miền Nam, chúng mở rộng cuộc chiến tranh và dập tắt các phong trào đấu tranh cách mạng trên mảnh đất Tây Nguyên. Rừng xà nu nằm cạnh con nước lớn nằm trong tầm đạn đại bác của giặc, mỗi ngày đều chịu sự tàn phá khốc liệt do bom đạn của kẻ thù “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Với đoạn văn miêu tả thật sống động, nhà văn đã thổi linh hồn vào cây xà nu, rừng xà nu khiến nó hiện lên như một sinh thể có hồn. Cây xà nu mang dáng vẻ của một con người, một tập thể đang chịu đựng trước sự tàn phá do bom đạn của đế quốc. Đặc biệt, với nghệ thuật tăng cấp “cả rừng xà nu không có cây nào không bị thương” đã chứng tỏ, bọn giặc ra sức hủy diệt sức sống của thiên nhiên, tàn phá môi trường sống của người Tây Nguyên. Và hình ảnh “nhựa ứa ra, tràn trề … và đặc quyện thành từng cục máu lớn”, một hình ảnh nhân hóa độc đáo, chứng tỏ nhựa xà nu chính là hơi thở, mạch sống là máu thịt của con người Tây Nguyên đang chịu đựng sự đau thương tàn khốc trước bom đạn của Đế quốc, càng khơi dậy lòng căm thù sâu sắc của người dân Tây Nguyên đối với quân giặc.
Hình ảnh cây xà nu phải hứng chịu bom đạn tàn khốc tiếp tục được khắc họa độc đáo, gây xúc động mạnh trong lòng người đọc: “Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết”. Với ngôn ngữ đầy chất tạo hình, nhà văn đã gợi lên hình ảnh cây xà nu mang dáng vẻ đau thương như con người, những cây xà nu non đang vươn mình tràn đầy sức sống nhưng bị bom đạn của kẻ thù ra sức hủy diệt. Những cây non ấy không đủ sức đề kháng, vết thương cứ loét mãi ra rồi cây chết càng gợi cho người đọc thấy rõ sức sống thiên nhiên bị hủy diệt, càng cho thấy rõ sự chết chóc của bom đạn, tội ác của đế quốc trong chiến tranh ở Việt Nam.
2.3. Cây xà nu, rừng xà nu với sức sống mãnh liệt
Nhưng cây xà nu vẫn vươn mình trổi dậy thể hiện sức sống mãnh liệt, kì diệu: “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Bằng nghệ thuật tăng cấp, kết hợp biện pháp nhân hóa, so sánh tác giả đã nhấn mạnh sự tàn phá do bom đạn của đế quốc không thể nào hủy diệt sức sống của cây xà nu. Bởi vì, cứ một cây ngã gục lại có những cây con mọc lên, nhú lên những “ngọn xanh rờn” như mũi tên lao thẳng lên bầu trời để thay thế những cây đã ngã.
Sức sống của cây xà nu hiên ngang, thách thức bom đạn kẻ thù còn được thể hiện qua hình ảnh nhân hóa độc đáo, sáng tạo: “Có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng”. Với bút pháp miêu tả vừa hiện thực vừa lãng mạn, Nguyễn Trung Thành đã khắc họa hình ảnh cây xà nu mang một sức sống tiềm tàng, bất diệt. Sức sống mãnh liệt của cây xà nu không chỉ thể hiện qua dáng vẻ mạnh mẽ, cường tráng, cành lá sum sê mà tưởng như nguồn sống mạnh mẽ của núi rừng Tây Nguyên đã tạo cho cây xà nu sức sống nội sinh, không gì có thể hủy diệt.
2.3. Rừng xà nu hoành tráng, bất diệt.
Ngày nào giặc cũng bắn hai lần và hầu hết đạn đại bác đều rơi vào rừng xà nu khiến cả rừng xà nu đều bị thương nhưng kì lạ thay, suốt hai, ba năm nay, rừng xà nu vẫn sinh sôi nảy nở, vẫn vươn mình dưới ánh sáng mặt trời và đặc biệt vẫn “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”. Chỉ với một hình ảnh so sánh nhân hóa độc đáo, nhà văn đã vừa làm nổi bật sức sống bất diệt của cây xà nu vừa cho thấy sự gắn bó, tình nghĩa của cây xà nu với dân làng Xô man.
Sức sống mãnh liệt của cây xà nu còn tạo nên cả một rừng xà nu hoàng tráng, bất diệt: “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”. Nghệ thuật nhân hóa, tăng cấp cùng phát huy tác dụng gợi lên hình tượng rừng xà nu trùng trùng, điệp điệp, đứng sừng sững, kiên cường giữa vùng đất Tây Nguyên anh dũng. Để sau đó, cây xà nu trở thành niềm tự hào của người dân Tây Nguyên, thể hiện rõ qua lời cụ Mết: “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này”.
2.4. Hình tượng rừng xà nu có ý nghĩa biểu tượng
* Cây xà nu bị tàn phá dưới làn đạn giặc giống như dân làng Xô man đau thương tang tóc dưới sự kìm kẹp của đế quốc Mĩ.
Cây xà nu bị đạn đại bác tàn phá dữ dội là biểu tượng cho dân làng Xô Man trong cuộc chiến tranh chống Mĩ, phải chịu nhiều đau thương tang tóc. Nhà văn có thể không dừng lại miêu tả hết những tội ác của quân giặc đối với dân làng Xô man nhưng hình ảnh rừng cây dưới làn đạn đã nói lên tất cả. Rừng xà nu bị tàn phá dữ dội cũng như tội ác bọn giặc gây ra cho dân làng. Chúng giết anh Xút treo lên cây vả đầu làng, chặt đầu bà Nhan treo trên đầu sung, giết Mai và đứa con, đốt 10 đầu ngón tay của Tnú…Bao nhiêu cây xà nu bị hạ gục cũng là bấy nhiêu người dân Xô Man đã ngã xuống, bao nhiêu cây bị thương là bấy nhiêu con người mang trên mình chứng tích của bom đạn. Tội ác của giặc Mĩ đã được miêu tả gián tiếp qua hình ảnh rừng xà nu đầy ám ảnh bởi nhựa xà nu đâu còn là dòng nhựa cây vô hồn mà là cục máu lớn đọng đầy đau thương, căm hờn của người dân Tây Nguyên trong chiến tranh.
* Cây xà nu trở thành biểu trưng về phẩm chất, khát vọng của người dân làng Xô Man
Và cây xà nu luôn được miêu tả trong sự gắn bó, đối sánh với con người để nó trở thành hình ảnh biểu tượng cho dân làng Tây Nguyên. Cây xà nu có đặc tính ham ánh sáng và đặc tính ấy tượng trưng cho niềm khát khao tự do của người dân Tây Nguyên. Nguyễn Trung Thành viết trong rừng ít có loài cây nào ham ánh sáng mặt trời đến thế…Cây xà nu ham ánh nắng mặt trời có khác nào người Tây Nguyên luôn khao khát tự do. Mặc dù bọn giặc đã đe dọa, đã gây bao tội ác nhưng dân làng Xô man vẫn kiên trì nuôi giấu cán bộ, kiên trì theo cách mạng để đấu tranh cho tự do.
Hơn nữa,. Rừng xà nu với sức sống mãnh liệt, cứ một cây ngã có vô số cây con mọc lên thay thế cũng như dân làng Xô man thế hệ sau tiếp nối thế hệ trước kiên cường, bất khuất đánh giặc. Anh Quyết hy sinh, đã có Tnú cường tráng. Chị Mai ngã xuống lại có cô Dít đầy kiên cường. Khi Tnú bị bắt, bị hành hạ, tất cả thanh niên trong làng, mỗi người một cây gậy sáng loáng đạp lên sàn nhà ưng ào ào như trận bão lớn bùng lên trả thù. Khi Tnú vào quân giải phóng, cậu bé Heng, mới mấy năm, đã lớn nhanh như thổi, thay thế anh làm người liên lạc… Hình tượng cây xà nu vì vậy có ý nghĩa tượng trưng cho sức sống bất diệt và khả năng vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên trong chiến đấu.
- Đánh giá
3.1.Về nghệ thuật (Bút pháp miêu tả thiên nhiên):
Bút pháp miêu tả giàu chất sử thi và cảm hứng lãng mạn, bay bổng thể hiện một cái nhìn khâm phục, trân trọng và ngưỡng vọng đối với cái cao cả; cảm hứng ngợi ca, tôn vinh cái hùng, cái đẹp của thiên nhiên và con người. Với ngôn ngữ đậm chất sử thi nhưng cũng trữ tình, đầy chất thơ, khi mạnh mẽ, hùng tráng khi tha thiết, tự hào; vừa lãng mạn bay bổng, trữ tình sâu lắng… Mạnh mẽ, hùng tráng khi miêu tả, nhấn mạnh sự khốc liệt của chiến tranh; tha thiết, tự hào khi miêu tả sức sống kì diệu của cây xà nu. Giọng văn đầy biểu cảm với những cụm từ được lặp đi lặp lại gây cảm tưởng đoạn văn giống như một đoạn thơ trữ tình. Chất thơ và chất sử thi hòa làm một thể hiện rõ phong cách văn xuôi Nguyễn Trung Thành: vừa say mê, vừa trầm tư, vừa giỏi tạo hình vừa giàu tính khái quát.
Nghệ thuật xây dựng hình tượng nghệ thuật có vẻ đẹp lớn lao, kì vĩ. Khi miêu tả rừng xà nu tác giả sử dụng kĩ thuật điện ảnh lúc miêu tả cận cảnh (cây xà nu non, bị thương), lúc lùi xa (rừng xà nu chạt tít tắp), có lúc ống kính chao đảo (luồng ánh sáng thẳng tắp, long lánh bụi vàng)… Phối hợp cảm nhận của nhiều giác quan trong việc miêu tả những cây xà nu với vóc dáng đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa thơm, ngời xanh dưới ánh nắng… Miêu tả cây xà nu trong sự so sánh, đối chiếu thường xuyên với con người. Các hình thức nhân hóa, ẩn dụ, tượng trưng đều được vận dụng nhằm thể hiện sống động vẻ hùng vĩ, khoáng đạt của thiên nhiên đồng thời gợi nhiều suy tưởng sâu xa về con người, về đời sống. Đối lập giữa sự tàn khốc của chiến tranh với sức sống của cây xà nu.
3.2. Ý nghĩa của đoạn văn
Vẻ đẹp của cây xà nu của núi rừng Tây Nguyên đã để thương để nhớ cho Nguyễn Trung Thành “Tôi yêu say mê cây xà nu. Ấy là một cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạch. Mỗi cây cao vút, vạm vỡ ứ nhựa. Tán lá vừa thanh vừa rắn rỏi, mênh mông tưởng như đã sống ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau”. Đoạn trích mở đầu truyện ngắn Rừng xà nu mang đầy ý nghĩa biểu trưng, là âm hưởng chủ đạo tạo phông nền và không gian sử thi cho toàn bộ thiên truyện, khiến Tây Nguyên thời chống Mĩ đã trở thành huyền thoại của thế kỷ 20, đi vào những trang sử hào hùng của dân tộc.
Đoạn số 2:
(…) Ông cụ không nêm muối vào canh. Ông chia cho mỗi người mấy hạt, họ ăn sống từng hạt, ngậm rất lâu trong miệng để nghe chất mặn đậm đà tan dần. Cơm gạo trắng ghế rất nhiều củ pomchu. Ông cụ bưng chén cơm nói như thanh minh:
– Năm nay làng mình không đói. Gạo đủ ăn tới mùa suốt. Nhưng phải để dành, dự trữ mỗi bếp cho được ba năm. Mày đi cách mạng, người chỉ huy cũng dạy mày rồi, đánh thằng Mỹ phải đánh dài.
Rồi đột ngột, ông cụ hỏi:
– Mười ngón tay mày vẫn cụt thế à? Không mọc ra được nữa à?… ừ…
Ông cụ đặt chén cơm xuống, giận dữ:
– Nhưng lành hết rồi chớ? Được. Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được. Mày có đi qua chỗ rừng xà nu gần con nước lớn không? Nó vẫn sống đấy. Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này!… Kìa, ăn đi chớ. Gạo người Strá mình làm ra ngon nhất rừng núi này đấy, con ạ…
(…)Tiếng ông cụ Mết ồ ồ át tất cả:
– Hà hà… được!
Ông cụ đẩy hai, ba đứa bé ra, bước tới ngồi xuống trước bếp lửa, cạnh Tnú. Ông cụ gõ ống điếu lên đầu ông táo, bẻ một que nứa nhỏ ở sạp, cẩn thận soi cho hết tàn thuốc trong ống điếu, rồi ngẩng lên, nhìn quanh một lượt. Mọi người đã ngồi đâu vào đấy và lắng chờ. Ông cụ bắt đầu nói.
Bên ngoài lấm tấm một trận mưa đêm, rì rào như gió nhẹ. Ông cụ không cất cao giọng, tiếng nói rất trầm:
– Ông già bà già thì biết rồi. Thanh niên có đứa biết, có đứa chưa biết rõ. Còn lũ con nít thì chưa biết – Ông cụ trừng mắt nhìn lũ trẻ, chúng nó cảm thấy cái nghiêm trang trong lời ông già, đứa nào đứa nấy ngồi im lặng thin thít, dán mắt vào miệng ông cụ Mết – Anh Tnú của chúng mày về rồi đó. – Ông cụ đặt bàn tay chắc nịch lên vai Tnú – anh Tnú mà tau đã kể cho chúng mày nghe bao nhiêu lần rồi đó. Đấy, nó đấy, nó đi giải phóng quân đánh giặc, nay nó về thăm làng một đêm, cấp trên cho nó về một đêm, có chữ ký người chỉ huy, chị bí thư coi giấy rồi. Nó đấy! Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta. Đêm nay tau kể chuyện nó cho cả làng nghe, để mừng nó về thăm làng. Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ. Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe…
Phân tích nhân vật cụ Mết trong đoạn trích trên. Từ đó, anh chị nhận xét về vẻ đẹp của con người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
MỞ BÀI
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
– Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn văn “Ông cụ… con cháu nghe” đã tập trung miêu tả nhân vật cụ Mết và từ nhân vật làm nổi bật vẻ đẹp của con người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
THÂN BÀI
- Khái quát
Rừng xà nu là câu chuyện một đời người kể trong một đêm. Truyện kể về nhân vật Tnú sau ba năm đi “lực lượng” được về thăm làng. Đêm đó, bên bếp lửa, cụ Mết kể lại cho dân làng nghe câu chuyện cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man. Kết truyện, cụ Mết và Dít tiễn Tnú trở về đơn vị. Bên cạnh cốt truyện về cuộc đời nhân vật chính Tnú, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã có những trang văn đặc sắc, xây dựng được một hệ thống nhân vật phong phú, phản ánh hiện thực cuộc chiến đấu chống đế quốc Mĩ của đồng bào Tây Nguyên anh dũng. Tham gia cuộc chiến đấu ấy là các thế hệ của dân làng Xô Man như Bà Nhan, anh Xút, Tnú, Dít, Mai, bé Heng… và trong đó không thể không nhắc tới vai trò lãnh đạo của người đứng đầu buôn làng là Cụ Mết.
Nhân vật cụ Mết thuộc kiểu nhân vật già làng, tộc trưởng vốn rất quen thuộc trong các thiên anh hùng ca Tây Nguyên. Cụ chính là cây xà nu đại thụ, là biểu tượng cho sức mạnh truyền thống, tinh thần bất khuất kiên cường của nhân dân Tây Nguyên, là chỗ dựa tinh thần và là linh hồn của buôn làng.
- Hình tượng nhân vật cụ Mết trong đoạn văn
2.1. Cụ Mết kể câu chuyện cuộc đời Tnú cho dân làng nghe bên bếp lửa
Đoạn văn cho thấy nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm là lời kể tác giả kết hợp lời kể nhân vật nhưng chủ yếu là lời của nhân vật. Câu chuyện về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xôman được cụ Mết kể bên bếp lửa với giọng kể trang trọng như truyền cho các con cháu những trang sử bi thương mà anh hùng của cộng đồng. Cách trần thuật như vậy gợi nhớ cách kể các “khan” (trường ca) của người dân tộc ở Tây Nguyên. Bên bếp lửa chung của dân làng các bài khan được kể như hát suốt đêm, những trường ca đầy chất sử thi về lịch sử mang màu sắc huyền thoại của bộ tộc, về những người anh hùng tiêu biểu cho sức mạnh, khát vọng của cộng đồng. Tính chất truyện kể của núi rừng ấy được thể hiện rõ qua hình ảnh cụ Mết “bước tới ngồi xuống trước bếp lửa, cạnh Tnú” và nói với dân làng “Đêm nay tau kể chuyện nó cho cả làng nghe, để mừng nó về thăm làng”.Câu chuyện cụ Mết kể cho dân làng nghe là câu chuyện của thời hiện tại nhưng lại được kể như một câu chuyện lịch sử với giọng điệu, ngôn ngữ mang đậm tính sử thi, ca ngợi con người tiêu biểu, kết tinh từ sức mạnh, phẩm chất của cộng đồng “Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Hơn nữa, người con ưu tú của núi rừng Tây Nguyên ấy còn đi làm cách mạng trở thành niềm tự hào của dân làng Xô man “Đấy, nó đấy, nó đi giải phóng quân đánh giặc, nay nó về thăm làng một đêm, cấp trên cho nó về một đêm, có chữ ký người chỉ huy, chị bí thư coi giấy rồi”. Như vậy, đoạn văn đã thể hiện cụ Mết không phải là nhân vật chính trong tác phẩm nhưng lại có vai trò to lớn trong việc tô thắm hình tượng nhân vật Tnú với lối kể truyện lồng trong truyện.
2.2. Giọng kể
Ở những đoạn văn trước đó, nhân vật cụ Mết qua ngòi bút của nhà văn Nguyễn Trung Thành đã thực sự để lại những ấn tượng mạnh mẽ trong lòng bạn đọc.“Một bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy vai anh như một kìm sắt… Ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng!.. ngực căng như một cây xà nu lớn…”. Cùng giọng nói “ồ ồ, dội vang trong lồng ngực” ông cụ hiện lên với môt thân hình khỏe mạnh, cường tráng, trí tuệ tinh nhanh và sự uy cường của một vị già làng.
Trong đoạn văn này, nhà văn Nguyễn Trung Thành khắc họa thêm về nhân vật cụ mết qua một số chi tiết miêu tả giọng nói, giọng kể của ông cụ. Trong đêm kể chuyện bên bếp lửa “Tiếng ông cụ Mết ồ ồ át tất cả”. Cách miêu tả ấy không chỉ minh chứng cho sức ngân vang của giọng nói mà còn thể hiện uy lực lớn để có thể lãnh đạo được dân làng Xô-man. Và trong lúc kể chuyện “Ông cụ không cất cao giọng, tiếng nói rất trầm”. “ nghiêm trang” cho thấy giọng nói cụ Mết cũng thật đầm ấm, trang nghiêm, linh thiêng như huyền thoại. Giọng nói của cụ như là tiếng của cội nguồn, của núi rừng, của lịch sử, lời nói của cụ là sấm truyền sử thi, như những phán quyết của lịch sử, là sức mạnh của thời đại nên được dân làng tin tưởng, nghe theo “Ông cụ trừng mắt nhìn lũ trẻ, chúng nó cảm thấy cái nghiêm trang trong lời ông già, đứa nào đứa nấy ngồi im lặng thin thít, dán mắt vào miệng ông cụ Mết”. Có thể nói, với chỉ vài nét miêu tả nhà văn đã thể hiện được cụ nhân vật Mết là hội tụ sức mạnh thể chất và tinh thần, là hiện thân cho truyền thống thiêng liêng, biểu tượng cho sức mạnh dân tộc của các đồng bào Tây Nguyên, là niềm tự hào của cộng đồng buôn làng Xô Man.
2.3. Yêu dân làng và gắn bó máu thịt với quê hương
Qua ngòi bút của nhà văn Nguyễn Trung Thành, cụ Mết hiện lên là một con người có lòng yêu dân làng, yêu quê hương sâu sắc. Cụ yêu và thương dân làng Xô-man, đặc biệt là Tnú. Cụ quan tâm từ việc nhỏ nhất đến những chuyện lớn lao nhất diễn ra trong buôn làng. Khi được tặng gói muối vốn rất quý và hiếm hoi, cụ không giữ cho riêng mình mà chia cho dân làng “Ông cụ không nêm muối vào canh. Ông chia cho mỗi người mấy hạt, họ ăn sống từng hạt, ngậm rất lâu trong miệng để nghe chất mặn đậm đà tan dần”. Hơn nữa, bằng tầm nhìn xa rộng của người đứng đầu, lãnh đạo cụ động viên dân làng dự trữ lương thực để đánh giặc lâu dài, đùm bọc, lo lắng và che chở cho tất cả các thành viên trong làng Xô-man như người thân trong nhà “Năm nay làng mình không đói. Gạo đủ ăn tới mùa suốt. Nhưng phải để dành, dự trữ mỗi bếp cho được ba năm”. Khi Tnú trở về làng cụ Mết đón anh bằng sự quan tâm, tình cảm nồng hậu của một người cha. Cụ hỏi han anh “Mười ngón tay mày vẫn cụt thế à? Không mọc ra được nữa à?… ừ…”. Rồi cụ động viên “Nhưng lành hết rồi chớ? Được. Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được” khiến Tnú có thể cảm nhận về với dân làng là về với người thân yêu của mình. Ngồi ăn cơm với Tnú, nhìn hai bàn tay cụt đốt của anh, “ông cụ đặt chén cơm xuống giận dữ”. Sự giận dữ đó là biểu hiện sâu sắc nhất của nỗi đau đớn xót thương cho Tnú, nỗi căm giận kẻ thù tàn bạo không thể nguôi ngoai. Cụ luôn lấy Tnú làm tấm gương cho để giáo dục, nhắc nhở dân làng, nhất là thế hệ trẻ để chúng nhìn vào tấm gương ấy mà noi theo “Ông cụ đặt bàn tay chắc nịch lên vai Tnú – anh Tnú mà tau đã kể cho chúng mày nghe bao nhiêu lần rồi đó”. Từ đó, mà cụ trở thành người cha tinh thần, người truyền ngọn lửa tự do và là linh hồn cuộc khởi nghĩa đồng khởi của dân làng Xô- man.
Không chỉ yêu dân làng mà cụ Mết còn yêu và gắn bó với quê hương, tự hào về quê hương mình. Tình yêu và sự gắn bó tha thiết với quê hương ấy đã hóa thành niềm tự hào về cây xà nu của núi rừng Tây Nguyên và gạo của người Strá “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta, cây mẹ chết cây con lại mọc lên. Đố chúng nó giết được rừng xà nu này” và “Gạo của người Strá mình là ngon nhất núi rừng này đấy”. Với cụ, quê hương đất nước thật đẹp đẽ và lớn lao, thiêng liêng và thân thuộc, từ dòng nước trên nguồn, từ hạt gạo do dân làng trồng cấy trên nương hay những cánh rừng xà nu bạt ngàn, mạnh mẽ và cường tráng đều rất đáng tự hào.
2.4. Có phẩm chất cách mạng
Trong mối quan hệ với Đảng và cách mạng cụ Mết là sợi dây gắn kết dân làng với lí tưởng, chỉ dẫn của Đảng, bởi cụ luôn có niềm tin sâu sắc vào những đường lối của Đảng. Trong tác phẩm, đã có lần cụ khẳng định niềm tin ấy: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”. Cụ Mết đã đưa chân lí cách mạng vào thực tiễn cuộc đấu tranh chống bọn đế quốc bằng những lời nói thật giản dị “Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo!…”. Đặc biệt, trong đoạn trích cụ Mết đã thể hiện sự am hiểu về cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc “đánh thằng Mĩ phải đánh lâu dài”. Và việc cụ Mết nêu gương Tnú chính là thể hiện minh chứng cho những chân lí cách mạng ấy. Để rồi cụ nhắc nhở con cháu phải duy trì những truyền thống tốt đẹp: “Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể cho con cháu nghe . Lời dặn dò ấy của cụ với dân làng cho thấy trong các thế hệ dân làng Xô man theo cách mạng, cụ Mết thuộc thế hệ đi trước, là lịch sử, là người giữ lửa và truyền ngọn lửa cho các thế hệ trẻ, là tinh thần của dân tộc góp phần to lớn vào thắng lợi chung của cả nước.
- Đánh giá
3.1. Nghệ thuật
Ngôn ngữ đậm chất sử thi hùng tráng, trang trọng nhưng cũng mộc mạc giản dị; Nghệ thuật xây dựng nhân vật mang những nét độc đáo đượm khí vị Tây Nguyên. Nhân vật hiện lên qua nhiều khía cạnh khác nhau từ giọng nói, vẻ bên ngoài đến những phẩm chất cao quý, tốt đẹp bên trong. Xây dựng nhân vật như một cây cầu nối quá khứ và hiện tại, vừa có nét cá biệt vừa mang tính kết tinh khiến nhân vật không chỉ hiện lên với những phẩm chất ưu tú của cộng đồng mà còn là nhân vật có cá tính riêng đặc sắc.
3.2. Ý nghĩa của đoạn văn và vai trò của nhân vật
Cụ Mết là một hình tượng nhân vật đẹp gợi nhớ hình ảnh những già làng, tộc trưởng trong sử thi, thần thoại, truyền thuyết, trong những bản trường ca Tây Nguyên xưa. Cụ Mết là truyền thống, là cội nguồn, là Tây Nguyên từ cuộc kháng chiến chống Pháp còn vang vọng lại. Cụ là lịch sử bao trùm mà không hề che mất sự tiếp nối của các thế hệ sau. Thông qua nhân vật cụ Mết, Nguyễn Trung Thành đã ca ngợi lòng yêu nước, căm thù giặc và tinh thần chiến đấu kiên cường bất khuất của nhân dân Tây Nguyên trong thời đánh Mỹ, cũng đồng thời khái quát chân lý lịch sử lớn lao của thời đại, lý giải sâu sắc và thuyết phục con đường giải phóng nhân dân, đất nước. Vậy nên, dù nhân vật cụ Mết tuy xuất hiện ít trong tác phẩm nhưng những gì nhà văn miêu tả về người già làng với một lòng theo Đảng, tin tưởng cách mạng vẫn đủ làm cho tác phẩm Rừng xà nu có sức âm vang tới hôm nay và mai sau.
3.3. Vẻ đẹp của con người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ
Qua nhân vật cụ Mết cũng như hệ thống nhân vật trong tác phẩm, chúng ta có thêm nhiều hiểu biết về người Tây Nguyên và thực sự xúc động, trân trọng vẻ đẹp của con người ở vùng đất đầy nắng gió và có âm vang của tiếng cồng tiếng chiêng ấy. Đó là những con người anh hùng, có tâm hồn trong sáng, thủy chung; yêu quê hương, đất nước, căm thù giặc, gan góc dũng cảm; sớm lí tưởng giác ngộ cách mạng, trung thành với Đảng, cách mạng và sẵn sàng sàng hi sinh vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Họ đã phát huy truyền thống của dân tộc và là lực lượng nòng cốt của cách mạng những năm kháng chiến chống Mĩ. Chính những con người Tây Nguyên ấy đã đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp chiến đấu chung để giải phóng dân tộc để đất nước được độc lập, thống nhất như ngày nay.
Đoạn số 3
… Thằng Dục không giết Tnú ngay. Nó đốt một đống lửa lớn ở nhà ưng, lùa tất cả dân làng tới, cởi trói cho Tnú, rồi nói với mọi người:
– Nghe nói chúng mày đã mài rựa, mài giáo cả rồi phải không? Được, đứa nào muốn cầm rựa, cầm giáo thì coi bàn tay thằng Tnú đây.
Nó hất hàm ra hiệu cho thằng lính to béo nhất. Chúng nó đã chuẩn bị sẵn cả. Thằng lính mở tút-se, lấy ra một chùm giẻ. Giẻ đã tẩm dầu xà-nu. Nó quấn lên mười đầu ngón tay Tnú. Rồi nó cầm lấy một cây nứa. Nhưng thằng Dục bảo:
– Để nó cho tau!
Nó giật lấy cây nứa.
Tnú không kêu lên một tiếng nào. Anh trợn mắt nhìn thằng Dục. Nó cười sằng sặc. Nó dí cây lửa lại sát mặt anh:
– Coi kỹ cái mặt thằng cộng sản muốn cầm vũ khí này xem sao nào. Số kiếp chúng mày không phải số kiếp giáo mác. Bỏ cái mộng cầm giáo mác đi, nghe không?
Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc.
Tnú nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, trừng trừng.
Trời ơi! Cha mẹ ơi! Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy ở trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi. Anh không kêu rên. Anh Quyết nói: “Người cộng sản không thèm kêu van…” Tnú không thèm, không thèm kêu van. Nhưng trời ơi! Cháy, cháy cả ruột đây rồi! Anh Quyết ơi! Không, Tnú sẽ không kêu! Không!…
Tiếng cười giần giật của thằng Dục. Các cụ già chồm dậy. Bọn lính gạt ra. Tiếng kêu ré của đồng bào. Tiếng chân ai rầm rập quanh nhà ưng. Ai thế?
Tnú thét lên một tiếng. Chỉ một tiếng thôi. Nhưng là tiếng thét vang dội. Tiếp theo là tiếng “Giết!”. Tiếng chân người đạp trên sàn nhà ưng rào rào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh. Tiếng cụ Mết ồ ồ: “Chém! Chém hết!” Cụ Mết, đúng rồi, cụ Mết đã đứng đấy, lưỡi mác dài trong tay. Thằng Dục nằm dưới lưỡi mác của cụ Mết. Và thanh niên, tất cả thanh niên trong làng, mỗi người một cây rựa sáng loáng, những cây rựa mài bằng đá mà Tnú mang từ đỉnh núi Ngọc Linh về…”
(Trích Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành, Ngữ văn 12,Tập hai,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2015 tr 46, 47)
Cảm nhận của anh/ chị về hình tượng nhân vật Tnú trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét vẻ đẹp sử thi của nhân vật.
MỞ BÀI
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
– Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn văn “Thằng Dục không giết Tnú ngay… đỉnh núi Ngọc Linh về” đã thể hiện vẻ đẹp mang tính sử thi của nhân vật người anh hùng Tnú.
THÂN BÀI
- Khái quát
Rừng xà nu là câu chuyện một đời người kể trong một đêm. Truyện kể về nhân vật Tnú sau ba năm đi “lực lượng” được về thăm làng. Đêm đó, bên bếp lửa, cụ Mết kể lại cho dân làng nghe câu chuyện cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man. Kết truyện, cụ Mết và Dít tiễn Tnú trở về đơn vị. Trong tác phẩm, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã xây dựng được một hệ thống nhân vật phong phú, phản ánh hiện thực cuộc chiến đấu chống đế quốc Mĩ của đồng bào Tây Nguyên anh dũng. Tham gia cuộc chiến đấu ấy là các thế hệ của dân làng Xô Man như Bà Nhan, anh Xút, Tnú, Dít, Mai, bé Heng… và trong đó không thể không nhắc tới nhân vật chính của tác phẩm là Tnú.
Nhân vật Tnú trong tác phẩm: Nguyễn Trung Thành đã xây dựng thành công nhân vật Tnú giống như biểu tượng cho Tây Nguyên anh dũng trong chiến đấu bảo vệ nền độc lập dân tộc. Tnú có lai lịch xuất thân đặc biệt, vốn là đứa trẻ mồ côi, cha mẹ chết sớm, lớn lên trong sự đùm bọc, yêu thương của dân làng Xô Man, là đứa con chung của cộng đồng nên hội tụ vẻ đẹp cộng đồng. Số phận, tính cách và phẩm chất của nhân vật Tnú tiêu biểu và kết tinh cho số phận, vẻ đẹp và con đường cách mạng của nhân dân Tây Nguyên như già làng Mết đã nói về Tnú “Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”...
Nguyễn Trung Thành đã rất thành công với nghệ thuật điển hình hóa nhân vật Tnú với hình ảnh bàn tay mười ngón bị đốt cụt mỗi ngón một đốt, mà nó có thể được coi là trung tâm của mọi vẻ đẹp của nhân vật này. Trong đó, đoạn trích thuộc phần gần cuối của truyện, diễn tả cảnh nhân vật Tnú bị thằng Dục đốt mười đầu ngón tay nhưng anh vẫn cắn răng chịu đựng, thể hiện rõ phẩm chất của người cách mạng, của người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
- Hình tượng nhân vật Tnú trong đoạn văn
2.1. Hoàn cảnh của nhân vật Tnú trong đoạn văn:
Sau ba năm sống trong ngục tù của bọn giặc, Tnú vượt ngục trở về làng, trở thành một chàng trai cao lớn, rắn chắc như cây xà nu đẹp đẽ, cường tráng nhất khu rừng Tnú gặp lại Mai cô bạn liên lạc thuở nào nay đã trở thành một cô gái xinh đẹp, dịu dàng. Và chuyện tình của sau đó thật đẹp đẽ, thơ mộng. Họ lấy nhau, hạnh phúc trọn vẹn khi đứa con ra đời. Đó là đoạn đời hạnh phúc, đẹp đẽ nhất của Tnú. Nhưng tội ác của bọn giặc đã khiến chuyện tình của họ trở nên ngắn ngủi và nhuốm màu sắc bi tráng. Nghe tin Tnú trở về lãnh đạo dân làng Xô man chuẩn bị khởi nghĩa, kẻ thù quyết phải bắt được Tnú thì mới có thể dập tắt được phong trào cách mạng nên khủng bố dữ dội. Không bắt được Tnú, bọn giặc nghĩ ra một kế đê hèn, chúng bắt mẹ con Mai tra tấn dã man bằng cơn mưa gậy sắt. Khi chứng kiến cảnh vợ con bị tra tấn, lòng căm thù trong con người anh sục sôi nóng bỏng, hai tay Tnú “bíu chặt lấy gốc cây” rồi sau đó “anh đã bứt hàng chục trái vả mà không hay”. Để khi căm hờn và đau thương hòa quyện và dâng cao thì hai con mắt anh như hai cục lửa lớn – ngọn lửa của nỗi đau, sự yêu thương và căm hờn đang cháy sục sôi trong đáy mắt, trong con tim của Tnú. Mặc cho sự ngăn cản của cụ Mết, Tnú xông lên cứu mẹ con Mai nhưng anh đã không thể cứu được vợ con.
2.2. Vẻ đẹp bi hùng của nhân vật Tnú ngời sáng trong hoàn cảnh đau thương:
* Nỗi đau mà Tnú phải trải qua:
Vợ con Tnú chết ngay trước mắt anh và bản thân anh cũng bị bắt, bọn giặc cũng sẽ giết anh. Nhưng khi bắt được Tnú, bọn giặc không để cho anh chết ngay mà buộc anh phải trải qua nỗi đau cào xé khi từng phần trên cơ thể bị hủy hoại. Mặt khác, Bọn giặc đốt mười ngón tay Tnú nhằm khủng bố và tiêu diệt ý chí phản kháng của dân làng Xô Man. Thằng ác ôn Dục đã giơ cao ngọn đuốc, cười sằng sặc và dọa: đứa nào muốn cầm rựa, cầm giáo thì coi bàn tay thằng Tnú đây! Kẻ thù tìm mọi cách để tiêu diệt lòng yêu nước của dân làng Xô Man. Chúng lùa dân làng đến nhà ưng để chứng kiến việc đốt mười đầu ngón tay của Tnú. Thằng lính to béo nhất dùng giẻ tẩm dầu xà nu quấn lên mười đầu ngón tay Tnú rồi thằng Dục châm lửa đốt. Nhựa xà nu vốn bắt lửa rất nhanh nên chẳng bao lâu mười đầu ngón tay Tnú đã biến thành mười ngọn đuốc. Miêu tả sự kiện này, nhà văn đã sử dụng đến thủ pháp quay chậm của điện ảnh khi đếm: “Một ngón tay Tnú bốc cháy, 2 ngón, 3 ngón”…. Cách đếm chậm với những câu văn ngắn, nặng nề đã đè nặng lên tâm trí người đọc một nỗi ám ảnh khủng khiếp về nỗi đau đớn mà Tnú phải trải qua.
Nằm trong dòng chảy của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn nhưng Nguyễn Trung Thành không hề dễ dãi khi miêu tả nỗi đau của Tnú. Nhà văn cũng đem đến cho người đọc những hình dung xác thực nhất, chân thực nhất về nỗi đau đớn đến quằn quại của Tnú khi khẳng định: lửa không chỉ cháy trên mười đầu ngón tay Tnú mà còn thiêu đốt trong lồng ngực, trong bụng anh, thứ lửa ở bên ngoài đang cháy trên da thịt đã lan vào tận tâm can. Bởi vậy, Tnú đã cảm thấy “máu mặn chát ở đầu lưỡi. Rằng anh đã cắn nát môi anh rồi”.
* Cảnh Tnú bị tra tấn còn làm nổi bật ở anh vẻ đẹp của sức chịu đựng phi thường, của bản lĩnh và của sự dũng cảm đến kiên cường:
– Sức chịu đựng phi thường:
Nhưng ngay ở thời điểm nỗi đau tưởng như đã vượt qua giới hạn chịu đựng của người, Tnú đã thể hiện sức chịu đựng phi thường của mình. Nhớ đến lời dạy của anh Quyết “Người cộng sản không thèm kêu van…”, Tnú đã không kêu lấy một lời. Tình yêu Đảng, yêu cách mạng đã cho anh một sức mạnh phi thường để dồn nén tất cả nỗi đau vào bên trong và vượt qua.
Quá trình vật lộn với nỗi đau khủng khiếp từ da thịt, từ tâm can Tnú đã chứng minh cho phẩm chất không thể thiếu của một người anh hùng: sức chịu đựng phi thường và lòng dũng cảm. Những người anh hùng trong văn học 1945- 1975 cũng thường được các tác giả gắn với phẩm chất này, song ở đây nhờ thể hiện lòng dũng cảm của Tnú qua việc chống chọi với việc thân thể mình bị hủy hoại, tác giả đã thực sự gây được sự xúc động mãnh liệt cũng như sự cảm phục, thán phục với người anh hùng Tnú.
– Ngọn lửa đau thương đã làm bùng lên ngọn lửa căm thù
Có thể nhận thấy trong thời khắc Tnú bị giặc tra tấn, tác giả đã cố tình tô đậm nỗi đau đớn mà anh phải gánh chịu. Song ở những người anh hùng như Tnú, nỗi đau không bao giờ để gợi lên sự đáng thương, yếu ớt, gục ngã mà bao giờ cũng là chất xúc tác cực mạnh để làm bật lên ý chí và sức mạnh. Ngọn lửa mà giặc đốt trên mười đầu ngón tay Tnú đã lan vào đến tâm can của anh, nhưng nó đã không còn là ngọn lửa hủy diệt mà là ngọn lửa đấu tranh mãnh liệt cho sự sống. Điều đó thể hiện rất rõ qua tiếng thét dữ dội của Tnú “Giết”. Tác giả đã đưa ra những lời bình luận trực tiếp để cho thấy ý nghĩa tiếng hét của Tnú: “Tnú thét lên một tiếng. Chỉ một tiếng thôi. Nhưng tiếng thét của anh bỗng vang dội thành những tiếng thét dữ dội hơn”. Vượt qua ý nghĩa là tiếng thét gắn với nỗi đau cụ thể của một người cụ thể, tiếng thét của Tnú là sự cộng hưởng, là sự đồng vọng từ tiếng thét của đại ngàn, của hàng vạn cây xà nu, của nỗi đau mà dân làng Xô Man đã trải qua, lớn hơn đó cũng chính là tiếng thét của lịch sử, của đất nước, của thời đại để tố cáo tội ác của kẻ thù và để trở thành mệnh lệnh tiến công. Chỉ một tiếng thét của Tnú khi đã dội lên liền kéo theo tiếng thét ồ ồ của cụ Mết: Chém! Chém hết!. Như vậy, tiếng thét đau thương, căm thù của Tnú đã làm cho dân làng Xô Man bừng tỉnh, thôi thúc dân làng vùng dậy cầm giáo cầm mác vùng lên. Tiếng thét ấy khiến dân làng Xô Man có đủ dũng khí để dưới sự lãnh đạo của cụ Mết đồng khởi nổi dậy với một khí thế “long trờ lở đất”. Tiếng chân người đạp trên sàn nhà ưng ào ào. Bọn lính kêu lên thất thanh. Đầu tiên là cụ Mết. Cụ đứng đấy với cây mác dài trong tay. Bàn tay của người già làng ấy đã hạ gục thằng Dục. Rồi các thanh niên, tất cả các thanh niên trong làng, mỗi người một cây rựa sáng loáng, những cây rựa được mài bằng đá núi Ngọc Linh mà Tnú mang về. Mười tên giặc đã bị giết hết bằng giáo mác mà chính bàn tay dân làng Xô Man và Tnú đã làm ra. Ánh lửa xà nu đang cháy ngùn ngụt giữa nhà ưng sau đó soi tỏ mười xác kẻ thù ngổn ngang trong đêm đồng khởi
Như vậy, ngay ở hoàn cảnh khó khăn nhẩt, Tnú vẫn khơi dậy, thổi bùng lên ý chí và sức mạnh đấu tranh cho cả buôn làng. Đó thực sự là phẩm chất của một người anh hùng.
- Đánh giá
3.1. Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật
Nhà văn khắc hoạ nhân vật bằng chính diễn biến, những sự việc quan trọng trong cuộc đời Tnú làm nổi bật tính cách với nỗi đau và bi kịch cá nhân, bằng ngôn ngữ và hành động mang đậm màu sắc Tây Nguyên. Tnú được xây dựng bằng bút pháp sử thi bi tráng, anh trở thành người anh hùng của núi rừng Tây Nguyên. Nghệ thuật xây dựng nhân vật kết hợp giữa tả thực và biểu tượng, phân tích thế giới nội tâm nhân vật sắc sảo, lời văn trau chuốt giàu hình ảnh, giọng điệu ngợi ca, tự hào…. Tnú gắn với một biểu tượng về sức sống bất diệt của Tây Nguyên là cây xà nu. Đôi bàn tay Tnú là biểu tượng độc đáo cho cuộc đời và số phận của nhân vật. Không khí kể chuyện như một cuộc kể khan của già làng. Lối viết hiện đại pha trộn nhiều yếu tố sử thi dân gian làm cho Tnú, một nhân vật của thời kháng chiến chống Mĩ lại phảng phất hình bóng của người anh hùng trong sử thi cổ đại.
3.2. Nhận xét vẻ đẹp sử thi của nhân vật Tnú:
Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi), có quy mô hoành tráng, có tính chất toàn dân và có ý nghĩa lớn lao trọng đại đối với cộng đồng, dân tộc, ca ngợi những người anh hùng tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng của dân tộc. Qua hình tượng Tnú, Nguyễn Trung Thành gợi ra được số phận và phẩm chất của cả cộng đồng trong cuộc chiến đấu bảo vệ buôn làng thân yêu. Đó là tình cảm gắn bó thiết tha sâu nặng với quê hương đất nước, với núi rừng Tây Nguyên, căm thù giặc sâu sắc, một lòng một dạ đi theo cách mạng, không ngại khó khăn, gian khổ, hi sinh, tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng. Đặc biệt, chi tiết bàn tay Tnú khi bị thiêu đốt bằng chính nhựa xà nu thành mười ngọn đuốc trở thành biểu tượng đậm chất sử thi. Hai bàn tay đuốc lửa của Tnú đã châm ngòi cho phong trào Đồng khởi của dân làng Xô Man vùng lên tiêu diệt bọn giặc tàn ác và trở thành biểu tượng của khí phách Việt Nam trong công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thời đại ngày nay. Lời văn khi thể hiện nhân vật rất giàu hình ảnh, giàu nhạc tính có nhịp điệu, với nhiều cấu trúc thành trùng điệp, những hình ảnh tương phản có giọng điệu khi hào hùng khi tha thiết…
3.3. Nhận xét về t tính sử thi trong tác phẩm “Rừng xà nu”
– Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi), có quy mô hoành tráng, có tính chất toàn dân và có ý nghĩa lớn lao trọng đại đối với cộng đồng, dân tộc, ca ngợi những người anh hùng tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng của dân tộc.
– Tính sử thi trong truyện ngắn “Rừng xà nu” được thể hiện ở các phương diện:
+ Nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm là lời kể tác giả kết hợp lời kể nhân vật nhưng chủ yếu là lời nhân vật. Câu chuyện về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xôman được cụ Mết kể bên bếp lửa với giọng kể trang trọng như truyền cho các con cháu những trang sử bi thương và hào hùng của cộng đồng. Cách trần thuật như vậy gợi nhớ cách kể các “khan” (trường ca) của người dân tộc ở Tây Nguyên. Bên bếp lửa chung của dân làng các bài khan được kể như hát suốt đêm, những trường ca đầy chất sử thi về lịch sử mang màu sắc huyền thoại của bộ tộc, về những người anh hùng tiêu biểu cho sức mạnh, khát vọng của cộng đồng. Trong “Rừng xà nu” câu chuyện cụ Mết kể cho dân làng nghe là câu chuyện của thời hiện tại nhưng lại được kể như một câu chuyện lịch sử với giọng điệu, ngôn ngữ mang đậm tính sử thi.
+ Thiên nhiên trong “Rừng xà nu” thấm đẫm một cảm hứng sử thi và chất thơ hào hùng thể hiện qua từng trang sách miêu tả về rừng xà nu. Mở đầu và kết thúc tác phẩm vẫn là rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời.
+ Bằng bút pháp sử thi, với những hình ảnh đặc tả giàu khả năng gợi cảm, nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, nhà văn xây dựng thành công hình tượng một tập thể anh hùng. Những anh hùng được kể đến trong tác phẩm đều có tính đại diện cao, mang trong mình phẩm chất của cả một dân tộc. Tập thể anh hùng trong Rừng xà nu là tập thể đa dạng về lứa tuổi và giới tính. Mỗi gương mặt anh hùng đều có những nét riêng, thể hiện một số phận riêng. Tuy nhiên, tất cả họ đều giống nhau ở những phẩm chất cơ bản: gan dạ, trung thực, một lòng một dạ đi theo cách mạng, yêu núi nước, yêu buôn làng, quyết tâm đánh giặc đến cùng.
+ Giọng văn mang âm hưởng vang dội như tiếng cồng tiếng chiêng của đất rừng Tây Nguyên đại ngàn hùng vĩ. Giọng văn đó ẩn chứa chất liệu làm nên tính sử thi hoàng tráng của tác phẩm. Giọng văn ấy cũng thấm đượm trong việc miêu tả thiên nhiên, khiến cho hình ảnh rừng xà nu bỗng thổi tới trong lòng người đọc một cảm giác say sưa.
+ Kết cấu truyện theo lối vòng tròn hay còn gọi là đầu cuối tương ứng. Chính kết cấu đó tạo nên dư âm hùng tráng đặc biệt. Lối kết cấu này như cái khung bền vững để nhà văn khai triển câu truyện. Câu truyện mở ra bằng hình ảnh rừng xà nu được đặc tả kỹ lưỡng và sắc nét. Cuối tác phẩm rừng xà nu cũng xuất hiện để khép lại câu truyện. Đây là lối kết cấu vừa đóng vừa mở. Câu chuyện đóng lại để mở một câu truyện khác. Điều này làm chúng ta tưởng tượng đây chỉ là một chương trong lịch sử ngàn đời của người Xô man, chỉ là một chương trong bản anh hùng ca vô tận của Tây Nguyên.
3.4. Đánh giá chung về nhân vật Tnú
Tác giả Nguyễn Trung Thành đã xây dựng nhân vật Tnú thành hình tượng tiêu biểu cho con người Tây Nguyên dũng cảm, kiên cường trong thời đại chống Mĩ cứu nước. Hình ảnh đôi bàn tay Tnú được nhắc đi nhắc lại trong tác phẩm như một biểu tượng đầy ý nghĩa về cuộc đời đau thương, mất mát, hờn căm; là chứng tích tội ác của kẻ thù, thể hiện tính chất khốc liệt của cuộc chiến tranh giải phóng và vẻ đẹp của chủ nghĩa yêu nước, anh hùng cách mạng. Hình ảnh đôi bàn tay Tnú còn tượng trưng cho sức sống mãnh liệt không bạo lực nào có thể tiêu diệt được của con người Tây Nguyên. Hai bàn tay Tnú đã trở thành một chi tiết nghệ thuật đặc biệt có giá trị thẩm mĩ và ý nghĩa khái quát lớn lao, sâu sắc.
Đoạn trích thể hiện bi kịch và vẻ đẹp phẩm chất của Tnú trong cuộc đấu tranh cách mạng đau thương mà anh dũng, tiêu biểu cho số phận và tinh thần quật khởi của người dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Đề bài tham khảo thêm
Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc.
Tnú nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, nhìn trừng trừng.
Trời ơi! Cha mẹ ơi! Anh không cảm thấy lửa cháy ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi. Anh không kêu rên. Anh Quyết nói: “Người Cộng sản không thèm kêu van…” Tnú không thèm, không thèm kêu van. Nhưng trời ơi! Cháy! Không, Tnú sẽ không kêu! Không!
(Trích Rừng xà nu– Nguyễn Trung Thành, Ngữ văn 12, Tập 2, NXB Giáo dục)
Cảm nhận của anh(chị) về hình tượng nhân vật T’nú trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét khí phách kiên cường, gan dạ qua hình ảnh đôi bàn tay của người cách mạng Tnú trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.
Gợi ý làm bài
- Khái quát vài nét về tác giả và nhân vật
Nguyễn Trung Thành đã rất thành công với nghệ thuật điển hình hóa nhân vật, đặc biệt là Tnú với hình ảnh bàn tay mười ngón bị đốt cụt, mỗi ngón một đốt, có thể được coi là trung tâm của mọi vẻ đẹp của nhân vật.
- Về nội dung
– Đôi bàn tay của sự yêu thương sâu thẳm: Tnú với đôi bàn tay trắng nhảy vào giữa lòng giặc quyết tâm sống chết cùng với mẹ con Mai. Đôi tay rắn chắc như lim của một người đàn ông với trách nhiệm bảo vệ gia đình.
– Đôi bàn tay của sự đau thương mất mát và sự kiên cường mạnh mẽ:
+ Giặc đốt đôi bàn tay của Tnú nhưng anh không hề kêu rên một tiếng nào, trong mắt anh là sự kiên cường, thủy chung với cách mạng, không chịu khuất phục trước những trò bẩn thỉu của bọn giặc hung tàn.
+ Đôi tay của Tnú cũng là đại diện tố cáo tội ác của quân giặc, là hình ảnh đau thương ám ảnh của nhân dân ta trong những năm tháng chiến tranh ác liệt.
– Đôi bàn tay của người anh hùng tàn nhưng không phế, của lý tưởng cách mạng, đôi bàn tay của ký ức không bao giờ quên.
+ Gợi nhắc Tnú những mối hận nước thù nhà sâu sắc làm sáng rõ thêm lý tưởng sống và chiến đấu để trả thù.
+ Bi kịch cuộc đời, đã khiến Tnú càng thêm mạnh mẽ, gan lì trong chiến đấu, giờ đây anh chẳng cần vũ khí, chỉ một đôi bàn tay không lành lặn cũng có thể giết chết quân thù.
- Về nghệ thuật
– Dùng phép liệt kê, tăng tiến: Nhằm tố cáo tội ác man rợ của kẻ thù.
– Ca ngợi tinh thần trung thành cách mạng, bản lĩnh kiên cường, dũng cảm của nhân vật Tnú. Đó còn là biểu tượng bi hùng, giàu chất sử thi và cảm hứng lãng mạn.
- Đánh giá về đôi bàn tay bị đốt từng ngón
– Ngón tay có sức tố cáo tội ác dã man của kẻ thù (thằng Dục), chúng chọn ngón tay để đốt vì chúng biết T’nú sẽ đau đớn, không thể chịu nỗi cực hình, đồng thời uy hiếp dân làng, buộc họ phải bỏ mộng cầm giáo mác chống lại chúng.
– Ngón tay bị đốt trở thành ngọn đuốc sống, gợi vẻ đẹp bi hùng, đậm chất sử thi và lãng mạn.
– Ngón tay thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng của người chiến sĩ cộng sản trong cuộc chiến đấu không cân sức với kẻ thù.
KẾT LUẬN
Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Những tác phẩm nghệ thuật đạt đến chuẩn mực của cái hay, cái đẹp sẽ và mãi “vượt qua mọi sự băng hoại của thời gian và chỉ mình nó không chấp nhận cái chết”. Với những đặc sắc về nghệ thuật và ý nghĩa sâu sắc về nội dung của “Rừng xà nu”, ta có thể tin rằng tác phẩm sẽ vẫn mãi vẹn nguyên và tỏa sáng bất chấp thời gian.