Đề trọng tâm thi TN 2022: Đề chuyên sâu đoạn văn Tuyên Ngôn Độc Lập – Hồ Chí Minh

MỞ BÀI CHUNG

“Những ai muốn biết thế nào là một con người thực sự, vẻ đẹp của thế giới ở đâu, sự chiến thắng của chân lý trên trái đất ở nơi nào, mùa xuân ở đâu, xin mời đến thăm cuộc đời của chủ tịch Hồ Chí Minh, sự hiện diện mẫu mực của một con người anh hùng của thời đại…”. Đó là nhận xét rất xác đáng của tác giả Rơ-nê Đê Pêstre, người Cu-ba về chủ tịch Hồ Chí Minh. Người không chỉ là một lãnh tụ tài ba, người anh hùng đã giải phóng dân tộc, đất nước Việt Nam thoát khỏi xiềng xích của nô lệ mà Người còn là một nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc với nhiều tác phẩm đặc sắc trên nhiều thế loại khác nhau. Đặc biệt, bản “Tuyên ngôn độc lập” ra đời vào năm 1945 là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất, tiêu biểu cho phong cách văn chính luận của Người. Tác phẩm có giọng văn hùng hồn thống thiết, có lập luận chặt chẽ sắc bén, có sức thuyết phục cao đối với người đọc và người nghe. Bản “Tuyên ngôn Độc lập” là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu người đã hi sinh, bao nhiêu người bị tù đày… “là kết quả của bao nhiêu hi vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam” (Trần Dân Tiên).

PHÂN TÍCH ĐOẠN VĂN

Đề số 1:

Hỡi đồng bào cả nước,

“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc“.

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

 Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.

(Tuyên ngôn Độc lập – Hồ Chí Minh,

Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr39-40)

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn Độc lập” để làm nổi bật giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

 

MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

– Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích mở đầu của Bản tuyên ngôn: “Hỡi đồng bào… chối cãi được” đã làm nổi bật giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của chủ tích Hồ Chí Minh.

THÂN BÀI

  1. Khái quát

Sau gần 100 năm bị áp bức nô lệ, nhân dân ta đứng lên đấu tranh và được độc lập tự do. Mùa thu năm 1945, cả nước ta tưng bừng, hân hoan chiến thắng. Cách mạng tháng Tám thành công đã rũ bỏ khỏi vai người dân Việt Nam những xiềng xích nô lệ và áp bức, đưa dân tộc ta qua ngưỡng cửa tối tăm bước tới vùng sáng độc lập tự do. Sáng ngày 2/9, một buổi sáng trời trong với nắng vàng ấm áp, trước hàng triệu nhân dân trên quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, chính thức khai sinh một nước Việt Nam mới, một nước Việt Nam tự do, độc lập và dân chủ. Bản tuyên ngôn được Người viết ra bằng tất cả tâm hồn và trí tuệ, bằng những xúc cảm mãnh liệt. Người đã truyền đến hàng triệu trái tim người Việt Nam yêu nước những rung động sâu xa và thấm thía, đồng thời tuyên bố một cách vững chắc và hào hùng với thế giới về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của nước ta.

Toàn văn bản tuyên ngôn không dài, chỉ gói trọn trong khoảng chưa đầy một ngàn chữ nhưng vô cùng chặt chẽ và súc tích. Bản tuyên ngôn có bố cục 3 phần, cụ thể gồm: cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn và lời tuyên bố độc lập. Sức thuyết phục của “Tuyên ngôn độc lập” được tạo nên chủ yếu từ hai yếu tố là lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực và sức lay động lòng người. Điều đó được thể hiện ngay từ đoạn mở đầu.

  1. Giá trị nội dung của phần mở đầu bản tuyên ngôn:

2.1. Mở đầu bản Tuyên ngôn bằng trích dẫn Tuyên ngôn của Pháp và Mĩ

Phần mở đầu nêu nguyên lí chung làm cơ sở tư tưởng cho bản tuyên ngôn. Trong đó, Hồ Chí Minh đã trích dẫn hai bản Tuyên ngôn: Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791. Cả hai bản tuyên ngôn đều thể hiện tư tưởng rất tiến bộ, được nhân loại biết đến và thừa nhận.  Trong đó, Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 nêu rõ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.  Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

2.2. Tác dụng của việc trích dẫn

Việc trích dẫn hai văn bản này có tác dụng rất lớn. Đầu tiên, nó thể hiện sự tôn trọng những giá trị, tư tưởng tiến bộ của nhân loại, đó là khẳng định các quyền lợi cơ bản, chính đáng của con người: Quyền sống, quyền bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc.

Mặt khác, “Tuyên ngôn độc lập” ra đời giữa lúc tình thế đất nước vẫn đang trong thời kì nguy ngập. Chính quyền mới ra đời, đất nước vẫn đang nằm giữa bốn bề hùm sói, hai đầu đất nước đều có kẻ thù ngoại bang đe dọa. Ở biên giới phía Bắc là 20 vạn quân Tưởng đang ngấp nghé ở cửa biên giới, chuẩn bị kéo vào miền Bắc nước ta. Phía sau đội quân này là sự nhòm ngó muốn can thiệp vào Đông Dương của đế quốc Mỹ. Ở phía Nam, thực dân Anh được giao nhiệm vụ của phe đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, đằng sau quân Anh là quân Pháp đang lăm le muốn quay trở lại xâm lược đất nước ta. Nhà cầm quyền Pháp lúc này tuyên bố: Đông Dương là thuộc địa của Pháp bị quân Nhật chiếm, đương nhiên Đông Dương phải thuộc quyền bảo hộ của người Pháp. Sử dụng trích dẫn trong hai bản tuyên ngôn có giá trị, được thế giới công nhận làm cơ sở pháp lý cũng là cách Hồ Chí Minh nhắc nhở dã tâm và hành động xâm lược của bọn đế quốc, thực dân; phê phán, thực dân Pháp và đế quốc Mĩ- những kẻ xâm lược đã chà đạp lên chân lí, chà đạp lên lương tâm và lý tưởng của cha ông chúng. Chính phủ và  chính phủ Mĩ phụng sự cho tinh thần của “Tuyên ngôn nhân quyền” đầy lẽ phải kia hóa ra lại đang thi hành những hành động trái ngược hẳn. Dùng lí lẽ của chính Pháp và Mĩ để nhắc nhở, ngăn chặn, bác bỏ mọi luận điệu và hành động phi nghĩa của chúng, chiêu thức này trong dân gian được gọi là “gậy ông đập lưng ông”. Với chiêu thức này, Hồ Chí Minh thực sự đã nắm được và phát huy sức mạnh của văn học “Văn chương phải là thế trận đuổi nghìn quân giặc.” (Trần Thái Tông).

Hồ Chí Minh  dẫn hai câu danh ngôn, một câu trong bản Tuyên ngôn độc lập và một câu trong Tuyên ngôn nhân quyền và Dân quyền còn là để khẳng định cách mạng Việt Nam cùng một lúc làm được hai nhiệm vụ: Nhiệm vụ thứ nhất là đánh đuổi thực dân, phát xít xâm lược giành độc lập tự chủ và nhiệm vụ thứ hai là lật đổ chế độ phong kiến giành quyền sống cho con người. Cũng như ở đoạn sau của bản Tuyên ngôn, Người viết “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.”

Đồng thời bằng cách này, Bác đã đặt tuyên ngôn của Việt Nam sánh vai với tuyên ngôn Pháp và Mỹ, thể hiện lòng tự tôn dân tộc. Đặt ba bản tuyên ngôn ngàng hàng nhau, ba cuộc cách mạng ngang bằng nhau, Người muốn khẳng định mục đích cao cả của cách mạng Việt Nam, của cách mạng Mĩ và Pháp đều là vì hạnh phúc của con người. Chúng ta chiến đấu vì hạnh phúc của con người. Niềm tự hào dân tộc ấy cùng một cảm hứng với “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, bởi ở thời phong kiến Nguyễn Trãi cũng đặt vị thế dân tộc ta ngang hàng với phong kiến phương Bắc hùng mạnh:

“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”

Nhưng đóng góp lớn nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh ở đây là Người đã vận dụng sáng tạo hai đoạn trích dẫn của hai bản tuyên ngôn. Từ quyền của con người được nhắc đến trong hai câu danh ngôn ấy, Người nâng lên quyền của cả dân tộc. Tầm nhìn sâu rộng của Bác đã tạo nên một lời khẳng định đanh thép: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Như vậy, bằng lập luận chặt chẽ, sáng tạo Người khẳng định các dân tộc trên thế giới đều có quyền độc lập, tự do. Đây chính là cơ sở cho hệ thống lập luận trong toàn tác phẩm. Phép suy rộng ra ấy không chỉ có ý nghĩa khẳng định quyền độc lập tự do, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam mà còn có ý nghĩa  khơi dậy, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên toàn thế giới.

Khép lại phần mở đầu là câu văn chắc nịch, đanh thép. Người khẳng định mọi quyền lí lẽ chính đáng của con người, dân tộc là những “lẽ phải không ai chối cãi được”. Đây chính là bức tường pháp lí sừng sững, là tiền đề triển khai toàn bộ nội dung bản “Tuyên ngôn Độc lập” ở phần tiếp theo. Câu văn này cũng thể hiện tính luận chiến quyết liệt của ngòi bút Hồ Chí Minh.

  1. Nghệ thuật lập luận:

Cách mở đầu bản Tuyên ngôn cho thấy lập luận của Hồ Chí Minh vừa ngắn gọn, súc tích, vừa khéo léo vừa kiên quyết, lập luận sắc sảo, linh hoạt, sáng tạo và đầy sức thuyết phục. Đầy khéo léo bởi Hồ Chí Minh tỏ ra trân trọng những tư tưởng tiến bộ, những danh ngôn bất hủ của người Mĩ, người Pháp… nhưng rất kiên quyết vì một mặt Hồ Chí Minh khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam dựa trên những chân lí mà người Mĩ và người Pháp đã đưa ra, đồng thời cảnh báo nếu thực dân Pháp tiến quân xâm lược Việt Nam một lần nữa thì chính họ đã phản bội lại tổ tiên của mình, làm nhơ bẩn lá cờ nhân đạo, thiêng liêng mà những cuộc cách mạng vĩ đại của cha ông họ đã dành được. Đặc biệt, lập luận sắc sảo, linh hoạt, sáng tạo nhất là: lời suy rộng ra của Người mang tư tưởng lớn của nhà cách mạng. Người đã phát triển quyền lợi của con người lên (thành) quyền tự quyết, quyền bình đẳng của các dân tộc trên thế giới. Phép suy rộng ra ấy  là sự sáng tạo đầy bản lĩnh, trí tuệ, thể hiện tư duy lí luận sắc bén của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là một đóng góp riêng của Hồ Chí Minh và cũng là của dân tộc ta vào một trong những trào lưu tư tưởng cao đẹp vừa mang tầm vóc quốc tế, vừa mang ý nghĩa nhân đạo của nhân loại trong thế kỉ XX.

  1. Đánh giá

Với nội dung là nêu nguyên lí chung, phần mở đầu của tác phẩm còn thể hiện rõ tài năng của tác giả trên địa hạt văn chương. Việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn đã tạo nên một dẫn chứng xác thực góp phần củng cố lí lẽ, luận điểm đanh thép của tác phẩm.Tất cả đã tạo nên một lập luận chặt chẽ và giàu sức thuyết phục, vừa khôn khéo vừa kiên quyết để tạo nên nền tảng pháp lí vững vàng để tác giả tố cáo tội ác của bọn thực dân. Phần mở đầu “Tuyên ngôn Độc lập”, không chỉ thể hiện nội dung tư tưởng cao đẹp mà ta còn thấy văn phong đặc sắc của Hồ Chí Minh: ngắn gọn, súc tích, thấm thìa, rung động lòng người, “Tuyên ngôn Độc lập” thực sự là một tuyệt đỉnh nghệ thuật văn chương và lịch sử.

 

Đoạn số 2:

Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.

Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.

Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.

Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.

Chúng tôi tin rằng các nước đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các hội nghị Tê-hê-răng và Cựu-kim-sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.

Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! dân tộc đó phải được độc lập!

Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:

Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.

Phân tích lời tuyên bố độc lập trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về phong cách văn chính luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

 

MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

– Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Sự thật là…độc lập ấy” nằm ở phần cuối của bản tuyên ngôn và góp phần thể hiện rõ phong cách văn chính luận của Hồ Chí Minh.

THÂN BÀI

  1. Khái quát

Sau gần 100 năm bị áp bức nô lệ, nhân dân ta đứng lên đấu tranh và được độc lập tự do. Mùa thu năm 1945, cả nước ta tưng bừng, hân hoan chiến thắng. Cách mạng tháng Tám thành công đã rũ bỏ khỏi vai người dân Việt Nam những xiềng xích nô lệ và áp bức, đưa dân tộc ta qua ngưỡng cửa tối tăm bước tới vùng sáng độc lập tự do. Sáng ngày 2/9, một buổi sáng trời trong với nắng vàng ấm áp, trước hàng triệu nhân dân trên quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, chính thức khai sinh một nước Việt Nam mới, một nước Việt Nam tự do, độc lập và dân chủ. Bản tuyên ngôn được Người viết ra bằng tất cả tâm hồn và trí tuệ, bằng những xúc cảm mãnh liệt. Người đã truyền đến hàng triệu trái tim người Việt Nam yêu nước những rung động sâu xa và thấm thía, đồng thời tuyên bố một cách vững chắc và hào hùng với thế giới về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của nước ta.

Toàn văn bản tuyên ngôn không dài, chỉ gói trọn trong khoảng chưa đầy một ngàn chữ nhưng vô cùng chặt chẽ và súc tích. Bản tuyên ngôn có bố cục 3 phần, cụ thể gồm: cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn và lời tuyên bố độc lập. Sức thuyết phục của “Tuyên ngôn độc lập” được tạo nên chủ yếu từ hai yếu tố là lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực và sức lay động lòng người.

  1. Lời tuyên bố độc lập trong đoạn trích

2.1. Nêu rõ quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta:

“Tuyên ngôn độc lập” ra đời giữa lúc tình thế đất nước vẫn đang trong thời kì nguy ngập. Tuy đã giành được độc lập nhưng chính quyền thì mới ra đời, đất nước vẫn đang nằm giữa bốn bề hùm sói, hai đầu đất nước đều có kẻ thù ngoại bang đe dọa. Đặc biệt, để hợp thức hóa việc quay trở lại xâm lược nước ta, nhà cầm quyền Pháp lúc này tuyên bố: Đông Dương là thuộc địa của Pháp bị quân Nhật chiếm. Nay phát xít Nhật thua trận, đương nhiên Pháp có quyền quay trở lại bảo hộ Đông Dương.

Trong đoạn văn này Hồ Chí Minh đã nêu rõ quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta, vạch trần và bác bỏ hoàn toàn luận điệu xảo trá của Pháp. Người nêu rõ sự thật là từ năm 1940 nước ta là thuộc địa của Nhật chứ không còn là thuộc đọa của Pháp. Khi Nhật thua chạy thì nhân dân ta đã nổi dậy cướp chính quyền từ tay Nhật. Nhân dân ta cùng lúc phá tan ba tầng xiềng xích khiến Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị để lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Định ngữ “Sự thật là” được nhắc đi nhắc lại càng có ý nghĩa khẳng định một cách chắc chắn thực tiễn lịch sử đó.

Chính phủ nước Việt Nam mới đã ra đời, thực sự là chính quyền của nhân dân Việt Nam và dân tộc Việt Nam không còn là thuộc địa của Pháp nên Người tuyên bố thoát li hoàn toàn mối quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết các hiệp ước Pháp đã kí hết với Việt Nam, xóa hết mọi đặc quyền đặc lợi của Pháp trên đất nước Việt Nam. Tiếp đó, Người còn khẳng định đanh thép “Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp”.

Đây chính là những bằng chứng thực tiễn xác thực, thể hiện một cuộc tranh luận ngầm với những lời lẽ giả dối, sai sự thật của thực dân Pháp, khẳng định không có thế lực nào có quyền xâm phạm nền độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam kể cả thực dân  Pháp. “Cách lập luận của Hồ Chí Minh về phía ta như một trái táo còn về phía kẻ thù nó giống như một trái lựu đạn nhét vào cổ họng chúng. Nuốt không vô mà khạc cũng không ra”. (Chế Lan Viên)

2.2. Khẳng định cuộc đấu tranh của nhân dân ta là chính nghĩa

Trước khi tuyên bố độc lập, Hồ Chí Minh đã khẳng định sâu sắc cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của ta là chính nghĩa. Bởi vì dân tộc ta là một dân tộc gan góc, có truyền thống kiên cường bất khuất bảo vệ đất nước. Bằng chứng là nhân dân ta gan góc chống ách nô lệ của thực dân Pháp hơn 80 năm, gan góc đứng về phía Đồng minh chống phát xít suốt mấy năm để rồi lấy lại đất nước từ tay Nhật. Trước đó, trong bản Tuyên ngôn Người cũng nêu rõ dân tộc ta là dân tộc luôn nêu cao tinh thần nhân đạo: Khi Pháp thua chạy còn giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái, Cao Bằng. Nhưng khi chúng thua chạy ta lại giữa thái độ khoan hồng, nhân đạo giúp người Pháp chạy qua biên thùy, bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ. Tinh thần nhân đạo ấy có lẽ được kế thừa từ truyền thống dân tộc, từng được thể hiện trong “Bình Ngô đại cáo”:

“Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.

     Mã Kì, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể mà hồn bay phách lạc;

     Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước vẫn tim đập, chân run”.

Lập trường chính nghĩa của dân tộc ta còn được thể hiện rõ khi nó rất phù hợp với các điều khoản quy định về nguyên tắc dân tộc bình đẳng tại hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn “Chúng tôi tin rằng các nước đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các hội nghị Tê-hê-răng và Cựu-kim-sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”. Ở đây, Hồ Chí Minh đã rất khôn khéo khi viện dẫn các nguyên tắc dân tộc bình đẳng. Bởi vì, nó không chỉ để khẳng định quyền độc lập tự chủ của dân tộc ta mà còn có ý nghĩa kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam.

2.3. Tuyên bố độc lập

Sau khi đã khẳng định một cách sâu sắc quyền độc lập dân tộc, Hồ Chủ tịch đã sử dụng những lời lẽ hùng hồn, đanh thép, trịnh trọng, kết cấu trùng lặp, liên tục nhấn mạnh và xoáy sâu vào hai vấn đề chính là “độc lập” và “tự do” để tuyên bố nền độc lập của dân tộc: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Trong lời tuyên bố ấy, Người khẳng định dân tộc Việt Nam về lí lẽ có quyền được hưởng tự do độc lập và trong thực tiễn đã giành được tự do, độc lập, cũng hoàn toàn xứng đáng trở thành một nước tự do, độc lập.

Lời tuyên bố độc lập của Hồ Chí Minh xuất phát từ trái tim của một con người có lòng yêu nước, yêu dân, yêu chuộng hòa bình sâu sắc; là những khát khao cháy bỏng không chỉ của riêng mình Bác mà còn chính là thay lời muốn nói của toàn thể dân tộc Việt Nam, muốn tuyên bố với cả thế giới rằng nước Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền lãnh thổ.

2.4. Ý  chí bảo vệ chủ quyền dân tộc

Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh không chỉ để tuyên bố nền độc lập, tự do của dân tộc mà còn có ý nghĩa cảnh cáo âm mưu xâm lược của bọn thực dân, đế quốc. Người viết “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy!”. Toàn dân Việt Nam nhận thức rõ âm mưu của kẻ thù xâm lược nên nhắc nhở chúng rằng: Nếu chúng còn dã tâm xâm lược, nhân dân Việt Nam quyết hy sinh tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để bảo vệ nền độc lập thiêng liêng, cao quý ấy.

  1. Đánh giá

3.1. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật của đoạn văn

Đoạn trích cũng như bản “Tuyên ngôn độc lập” mang giá trị văn chương to lớn bởi  cho thấy tài năng bậc thầy trong ngòi bút chính luận của Hồ Chí Minh. Đó là một áng văn chính luận mẫu mực nhất, thuyết phục và có sức hấp dẫn nhất với lập luận, chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, đanh thép, luận cứ được hun đúc từ thực tế khách quan; Kết cấu, bố cục khá chặt chẽ với mỗi phần một ý nghĩa và liên hệ chặt chẽ với nhau; Ngôn ngữ ngắn gọn, chính xác, súc tích; lời văn vừa sống động, gây xúc động lòng người tác động mạnh vào nhận thức và tình cảm và có sức lay động sâu xa; Các biện pháp tu từ như điệp từ, điệp ngữ…được sử dụng được sử dụng linh hoạt hiệu quả làm cho lý lẽ thêm sinh động rõ ràng. Bản “Tuyên ngôn độc lập” trở thành một áng văn nghị luận mẫu mực không chỉ bởi lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực mà còn lay động hàng triệu trái tim người Việt Nam yêu nước bởi tình cảm thiết tha của tác giả. Những tình cảm thiết tha đó được biểu lộ thông qua những giọng điệu khác nhau, khi nồng nàn tha thiết, khi xót xa thương cảm, khi hừng hực căm thù, khi hào sảng khích lệ…

 “Tuyên ngôn độc lập” là áng văn chương yêu nước của thời đại, kết tinh khát vọng cháy bỏng của cả dân tộc về độc lập, tự do. Bản tuyên ngôn đã tố cáo rõ tội ác thực dân, khẳng định quyền tự do độc lập và sự thật nước Việt Nam đã thành nước tự do, độc lập. Hơn nữa, đoạn trích cũng như tác phẩm còn nêu cao truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta là truyền thống yêu nước, kiên cường chống giặc ngoại xâm; thể hiện tâm huyết và hội tụ vẻ đẹp của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

3.2. Nhận xét về phong cách văn chính luận Hồ Chí Minh

– Ngắn gọn, giản dị, súc tích; cách dùng từ, đặt câu hết sức linh hoạt: Cả một nội dung lớn diễn ra trong thời gian gắn một thế kỉ, nhưng tác giả đã cô đọng lại trong vài ba trang giấy. Từ ngữ mà Người sử dụng đọc lên là hiểu ngay. Đối với những câu dài, có cấu trúc phức tạp, Người vẫn tìm cách diễn đạt thật ngắn gọn. Có câu rất ngắn nhưng giàu ý tứ.

– Văn phong trong sáng: Trong sáng ở việc dùng từ đặt câu, tuân thủ các nguyên tắc và chuẩn mực của tiếng Việt. Trong sáng về tư tưởng tình cảm, ở thái độ rõ ràng, yêu ghét phân minh trên lập trường chính nghĩa.

–  Tính chiến đấu và trí tuệ: Đanh thép, sắc sảo là biểu hiện tính chiến đấu không khoan nhượng, thái độ dứt khoát thể hiện một bản lĩnh vững vàng, phi thường, sắc sảo ở trí tuệ, lối lập luận chặt chẽ, sắc bén.

– Ngòi bút chính luận vừa chặt chẽ, thuyết phục vừa trữ tình, có sức lay động lòng người: Bản tuyên ngôn được viết với cách lập luận chặt chẽ. Người đưa ra những lí lẽ đanh thép, những bằng chứng hùng hồn không ai chối cãi được. Ngòi bút chính luận vừa hùng hồn vừa trữ tình; Văn chính luận mà vẫn thấm đượm tình cảm, giàu hình ảnh, giọng điệu đa dạng.

KẾT LUẬN CHUNG

“Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh đã đánh dấu mốc son trong lịch sử dân tộc, mãi mãi là áng thiên cổ hùng văn ngang tầm với “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, là niềm tự hào của những người Việt Nam yêu nước. Với phong cách nghệ thuật độc đáo và riêng biệt, Hồ Chí Minh đã để lại tên tuổi của mình và làm rạng rỡ nền văn học Việt Nam.  Tấm lòng yêu nước, thương dân, tâm huyết và khát vọng cháy bỏng của Hồ Chí Minh về độc lập tự do của dân tộc thực sự đã trở thành một ngọn lửa thần tạo nên tài năng văn chương của Người, đúng như nhận định của Raxun Gazatôp: Giống như ngọn lửa thần bốc lên từ trong cành khô, tài năng bắt nguồn từ những tình cảm mạnh mẽ nhất của con người.”

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *