Đề trọng tâm thi TN 2022: Đề chuyên sâu đoạn văn Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt – Lưu Quang Vũ

MỞ BÀI CHUNG

Đối tượng của văn học vốn là thân phận con người, nên chỉ có kẻ nào đọc và hiểu nó sẽ hóa thành không phải là một chuyên gia nghiên cứu văn học mà là một kẻ hiểu biết con người một cách sâu sắc”. (Văn chương lâm nguy, Todorov). Quả đúng như vậy bởi văn học chính là cuộc đời, cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học. Mỗi nghệ sĩ lớn đều ý thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học và cuộc sống. Đời sống và con người là nguồn đề tài không bao giờ vơi cạn cho những sáng tác đầy nảy nở, bước đi của những nẻo đường là một giọt chắt chiu tư tưởng được hình thành. Những năm tám mươi của thế kỉ XX, Lưu Quang Vũ là một hiện tượng của sân khấu kịch trường Việt Nam. Ông là một trong những người đi trước trong phong trào đổi mới văn học, nghệ thuật, dùng ngòi bút của mình để góp phần đem đến những điều tốt đẹp cho con người. Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được viết năm 1981, có nguồn gốc từ một truyện cổ dân gian được công diễn vào năm 1998, là một trong những tác phẩm kịch xuất sắc nhất của Lưu Quang Vũ. Bằng ngòi bút giàu chất triết lý, Lưu Quang Vũ đã thổi vào tích xưa một luồng gió mới. Kịch bản của ông không đơn thuần là chuyện vay mượn xác tái sinh mà còn đặt vấn đề về lẽ sống con người qua nỗi khổ “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, qua mâu thuẫn giữa tâm hồn (thanh cao) và thể xác (phàm tục), vở kịch mang chứa những triết lý nhân sinh.

 

PHÂN TÍCH ĐOẠN

Đoạn số 1

Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt trong đoạn trích sau. Từ đó, nhận xét ngắn gọn về quan điểm triết lí nhân sinh của Lưu Quang Vũ được thể hiện trong đoạn trích.

Hồn Trương Ba: (ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi đứng vụt dậy) Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! (nhìn chân tay thân thể) Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó được tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ là một lát!

(Trên sân khấu, hồn Trương Ba tách ra khỏi xác anh hàng thịt và hiện lờ mờ trong dáng nhân vật Trương Ba thật. Thân xác bằng thịt vẫn ngồi nguyên trên chõng và lúc này chỉ còn là thân xác)

Xác hàng thịt: (bắt đầu) Vô ích, cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi được tôi đâu, dù tôi chỉ là thân xác..

Hồn Trương Ba: A, mày cũng biết nói kia à? Vô lí, mày không thể biết nói! Mày không có tiếng nói, mày chỉ là xác thịt âm u đui mù…

Xác hàng thịt: Có đấy! Xác thịt có tiếng nói đấy! Ông đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến. Chính vì âm u, đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả linh hồn cao khiết của ông đấy!

Hồn Trương Ba: Nói láo! Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng không có cảm xúc!

Xác hàng thịt: Có thật thế không?

Hồn Trương Ba: Hoặc nếu có thì chỉ là những thứ thấp kém mà bất cứ con thú nào cũng thèm được: Thèm ăn ngon, thèm rượu thịt…

Xác hàng thịt: Tất nhiên, tất nhiên. Sao ông không kể tiếp: Khi ông ở bên nhà tôi…Khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại.. Đêm hôm đó suýt nữa thì…

Hồn Trương Ba: Im đi, đấy là mày chứ, chân tay mày hơi thở của mày…

Xác hàng thịt: Thì tôi có ghen đâu! Ai lại ghen với chính thân thể mình nhỉ? Tôi chỉ trách là sao đêm hôm ấy, ông lại tự dưng bỏ chạy, hoài của… Này nhưng ta nên thành thật với nhau một chút: Chẳng nhẽ ông không xao xuyến chút gì à? Hà hà, cái món tiết canh cổ hủ, khấu đuôi và đủ các thứ thú vị khác không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc được sao? Để thoả mãn tôi, chẳng nhẽ ông không tham dự vào chút đỉnh gì? Nào hãy thành thật trả lời đi!

Hồn Trương Ba: Ta…ta… đã bảo mày im đi!

Xác hàng thịt: Rõ là ông không dám trả lời. Giấu ai chứ không thể giấu tôi được! Hai ta đã hoà với nhau làm một rồi!

Hồn Trương Ba: Không! Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn…

Xác hàng thịt: Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!

Hồn Trương Ba: (bịt tai lại)Ta không muốn nghe mày nữa!

Xác hàng thịt: (lắc đầu) Ông cứ việc bịt tai lại! Chẳng có cách nào chối bỏ tôi được đâu! Mà đáng lẽ ông phải cảm ơn tôi. Tôi đã cho ông sức mạnh. Ông có nhớ hôm ông tát thằng con ông toé máu mồm máu mũi không? Cơn giận của ông lại có thêm sức mạnh của tôi! Ha ha..

Hồn Trương Ba: Ta cần gì đến cái sức mạnh làm ta trở thành tàn bạo.

Xác hàng thịt: Nhưng tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục! Đâu phải lỗi tại tôi.. (buồn rầu) Sao ông có vẻ khinh thường tôi thế nhỉ? Tôi cũng đáng được quý trọng chứ! Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới. ông nhìn ngắm trời đất cây cối người thân…Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi… Khi muốn hành hạ tâm hồn con người. Người ta xâm phạm thể xác.. Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào có tâm hồn là quý, khuyên con người ts sống với hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi khổ sở nhếch nhác.. Mỗi bữa cơm rôi đòi ăn tám, chín bát cơm, tôi thèm ăn thịt hỏi có gì là tội lỗi nào? Lỗi là ở chỗ không có đủ tám, chín bát cơm cho tôi ăn chứ?

Hồn Trương Ba: Nhưng…nhưng..

Xác hàng thịt: Hãy công bằng hơn, ông Trương Ba ạ! Từ nãy tới giờ chỉ có ông nặng lời với tôi, chứ tôi thì vẫn nhã nhặn với ông đấy chứ? (thì thầm) Tôi rất biết cách chiều chuộng linh hồn.

Hồn Trương Ba: Chiều chuộng?

Xác hàng thịt: Chứ sao? Tôi thông cảm với những trò chơi tâm hồn của ông. Nghĩa là những lúc một mình một bóng, ông cứ việc nghĩ rằng ông có một tâm hồn bên trong cao khiết, chẳng qua vì hoàn cảnh vì để sống mà ông phải nhân nhượng tôi. Làm xong điều gì xấu ông cứ đổ tội cho tôi, để ông được thanh thản. Tôi biết cần phải để cho tính tự ái của ông được ve vuốt. Tâm hồn là thứ lắm sĩ diện. hà hà…miễn là.. ông vẫn làm đủ mọi việc để thoả mãn những thèm khát của tôi!

Hồn Trương Ba: Lí lẽ của anh thật ti tiện!

Xác hàng thịt: Ấy đấy, ông bắt đầu gọi tôi là anh rồi đấy! Có phải lí lẽ của tôi đâu, tôi chỉ nhắc lại những điều ông vẫn tự nói với mình và những người khác đấy chứ! Đã bảo chúng ta tuy hai mà một mà!

Hồn Trương Ba: (như tuyệt vọng) Trời! Xác hàng thịt (an ủi) Ông đừng nên tự dằn vặt làm gì! Tôi đâu muốn làm khổ ông, bởi tôi cũng rất cần đến ông. Thôi, đừng cãi cọ nhau nữa. Chằng còn cách nào khác đâu! Phải sống hoà thuận với nhau thôi! Cái hồn vía ương bướng của tôi ơi, hãy về với tôi này!

(Hồn Trương Ba bần thần nhập lại vào xác hàng thịt. Trên sân khấu nhân vật Trương Ba biến đi. Chỉ còn lại xác hàng thịt mang hồn Trương Ba ngồi lặng lẽ bên chõng…)

(Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ,

Ngữ văn 12, tập hai, NXBGD Việt Nam, 2019)

 

MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

– Giới thiệu đoạn trích: Trong đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” Lưu Quang Vũ đã dựng lên các cuộc đối thoại để đẩy xung đột nội tâm của hồn Trương Ba lên đến tận cùng buộc phải giải quyết. Từ đó ý nghĩ tư tưởng, những triết lí nhân sinh được phát biểu một cách sâu sắc, thấm thía. Trong đó, cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt là đáng chú ý hơn cả.

THÂN BÀI

  1. Khái quát

1.1.  Giới thiệu về hồn Trương Ba

Trương Ba là một ông lão làm vườn 60 tuổi, có tài đánh cờ, giỏi làm vườn, có tâm hồn thanh cao trong sạch. Do sự sơ xuất, tắc trách Nam Tào, Bắc Đẩu mà ông bị bắt chết nhầm. Sự sửa sai của Nam Tào, Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế Thích nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn. Con người vốn là một tổng thể thống nhất, vậy mà Trương Ba lại phải trú nhờ linh hồn minh trong thân xác của người khác, bi kịch hồn này, xác nọ “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Sống lại trong thể xác hàng thịt, Hồn Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái, phải sống, nhân vật hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè, cả những người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình. Bản thân Trương Ba cũng bị lây nhiễm một số thói xấu cùng với những nhu cầu vốn không phải của bản thân ông… Những điều đó làm Trương Ba vô cùng đau khổ. Ông đau đớn, chán chường trước cuộc sống không thật là mình.

  1. Đối thoại hồn Trương Ba và xác hàng thịt

2.1 . Tâm thế của hồn Trương Ba trong cuộc đối thoại:

Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, Lưu Quang Vũ đã để cho hồn Trương Ba “ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” và tự giãi bày tâm sự, nỗi lòng của mình “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát”. Tư thế ngồi “ôm đầu” đã cho người đọc thấy hình ảnh của một con người đầy đau khổ, lại có sự kết hợp của ba từ phủ định liên tiếp “không…không…không”, lời thoại của hồn là các câu cảm thán, ngắn, lời văn dồn dập, hối thúc thể hiện tâm trạng căng thẳng, bức bối, đau khổ, dằn vặt, bế tắc đến cùng cực, không thể chịu đựng dày vò hơn được nữa nên vụt đứng dậy… Có thể thấy hồn Trương Ba đang đau khổ, bức bối là bởi ông không còn được là mình nữa. Ông phải sống trong thân xác của một kẻ khác và cái thân xác ấy làm ông ghê tởm. Ông ước muốn có hình hài riêng và muốn được tách ra khỏi xác hàng thịt dù chỉ giây lát. Nắm bắt được nguyện vọng của nhân vật, Lưu Quang Vũ đã sáng tạo ra tình huống hồn và xác phân thân để đối đáp với nhau. Tưởng rằng, khi tách ra khỏi xác hàng thịt, hồn sẽ phần nào giải tỏa được nỗi đau khổ bị dồn nén bấy lâu khi có cơ hội cất lên tiếng nói của mình nhưng hóa ra không phải vậy.

2.2. Xác hàng thịt lấn lướt, sỉ nhục hồn Trương Ba

    Trong cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt hồn Trương Ba gọi xác hàng thịt là mày, sau đó gọi là anh. Xác hàng thịt gọi hồn Trương ba là ông. Dựa trên cách xưng hô này thì vai trên vai dưới rất rõ ràng. Hồn Trương Ba ở vai trên và xác hàng thịt ở vai dưới. Tuy nhiên, trong cuộc đối thoại xác hàng thịt không hề lép vế, yếu thế mà còn lấn lướt và sỉ nhục hồn Trương Ba. Bởi vì xác hàng thịt ngày càng ý thức được vai trò của nó. Nó nói” “Có đấy! Xác thịt có tiếng nói đấy! Ông đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến. Chính vì âm u, đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả linh hồn cao khiết của ông đấy! Nó còn khẳng định nó là “cái bình để giữ linh hồn”, nhờ nó mà hồn Trương Ba mới có thể làm lụng, cuốc xới, ngắm nhìn trời đất, người thân. Xác thịt tuy âm u, đui mù nhưng có thể lấn át, sai khiến, thậm chí đồng hóa linh hồn cao khiết. Hồn không thể còn nguyên vẹn, trong sạch, khi phải chung sống và chiều theo những đòi hỏi của xác thịt dung tục. Để chứng minh điều đó nó đã kể ra những việc mà hồn Trương Ba đã làm dướu sự sai khiến của nó. Đó là cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại”“suýt nữa thì…”. Hồn Trương Ba sống trong thể xác phàm tục của người hàng thịt giờ đã có cảm xúc lâng lâng trước các món ăn mà trước đây ông cho là dung tục như tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi. Khi giận dữ, hồn Trương Ba đã sử dụng vũ lực một cách tàn bạo với con trai. Với sức mạnh của xác hàng thịt, ông đã tát thằng con đến toé máu mồm, máu mũi…

Rõ ràng, Hồn Trương Ba đã nhiễm những thói hư tật xấu của xác hàng thịt. Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: “Ta vẫn có một đời sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Nó nói “Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!”. Nó còn sỉ nhục  khi nói Trương Ba hãy chơi trò chơi tâm hồn. Hãy thỏa mãn nó và mỗi khi làm việc xấu hãy đổ tội hết cho nó. Hãy cứ nghĩ mình cao khiết nhưng chỉ vì hoàn cảnh. Thậm chí nó cho rằng đấy chính là lí lẽ hồn Trương Ba tự nói với mình và người khác “Có phải lí lẽ của tôi đâu, tôi chỉ nhắc lại những điều ông vẫn tự nói với mình và những người khác đấy chứ!”. Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo, khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn Trương Ba thanh cao, trong sạch phải sống với xác hàng thịt thô lỗ, phàm tục, đầy thói hư tật xấu đã là đau khổ lắm rồi. Vậy mà thật sỉ nhục khi xác hàng thịt nhắc đi nhắc lại cái điều “Đã bảo chúng ta tuy hai mà một mà!”.

Ngoài ra, xác hàng thịt còn bày tỏ những bất công mà mình phải gánh chịu khi sống với linh hồn Trương Ba “Nhưng tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục! Đâu phải lỗi tại tôi.. (buồn rầu) Sao ông có vẻ khinh thường tôi thế nhỉ? Tôi cũng đáng được quý trọng chứ!”. Xác hàng thịt cho rằng khi sống chung với hồn Trương Ba nó bị xúc phạm, bị bỏ bê nhếch nhác, khổ sở…vì những lý do không chính đáng. Chẳng hạn “Mỗi bữa cơm rôi đòi ăn tám, chín bát cơm, tôi thèm ăn thịt hỏi có gì là tội lỗi nào? Lỗi là ở chỗ không có đủ tám, chín bát cơm cho tôi ăn chứ?”. Một mặt nó đấu tranh cho những nhu cầu chính đáng của mình, mặt khác nó tìm cách ve vuốt, đề nghị hồn Trương Ba trở về sống hoà hợp với mình.

Nhìn chung, trong cuộc đối thoại, xác hàng thịt có thế chủ động, đặt nhiều câu hỏi phản biện, lí lẽ giảo hoạt, trở thành kẻ thắng thế, buộc Trương Ba phải quy phục.

2.3. Thái độ của Hồn Trương Ba trước sự lấn lướt sỉ nhục của xác hàng thịt

Khi tách khỏi xác hàng thịt, hồn Trương Ba có cơ hội bày tỏ tâm trạng uất ức, tức giận vì phải chung sống với cái xác thô lỗ, tầm thường, dung tục. Hồn cũng không che giấu sự coi thường, khinh bỉ đối với xác là “kẻ âm u đui mù, không cảm xúc, không tư tưởng, không có tiếng nói”…; kẻ có nhu cầu vật chất thấp kém gần với con thú (thèm ăn ngon, thèm rượu thịt), sức mạnh thể chất gắn với sự tàn bạo… Hồn cũng phủ nhận sự lệ thuộc của linh hồn vào xác thịt, khẳng định linh hồn có đời sống riêng: “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”… Ông mắng xác hàng thịt là “lí lẽ của anh thật là ti tiện” và “Ta…ta…đã bảo mày im đi”…Nhưng trước lí lẽ của xác hàng thịt, Trương Ba cuối cùng cũng phải thừa nhận rằng mình đuối lí, mình đang sống nhờ thể xác kẻ khác và bị thể xác đó điều khiển, dẫn đến sự tha hoá không có cách gì chuyển biến được. Những đối thoại ngắn và dần dần là những lời thoại bỏ lửng cho thấy sự đuối lí của hồn trong cuộc đối thoại cùng xác.

Một mặt tức tối trước những lí lẽ ti tiện của xác hàng thịt, mặt khác Trương Ba hoàn toàn bối rối, lúng túng, không thể phản bác những ý kiến đó. Kết thúc cuộc đối thoại, hồn Trương Ba dằn vặt, đau đớn, hoang mang, tuyệt vọng trở về cuộc sống trái với chính mình, chấp nhận trở lại xác hàng thịt trong nỗi đau khổ, tuyệt vọng và trở thành người thua cuộc. Chi tiết “Hồn Trương Ba bần thần nhập lại vào xác hàng thịt, ngồi lặng lẽ bên chõng” đã diễn tả cô đọng tính chất căng thẳng của xung đột kịch và sự bế tắc của hồn Trương Ba.

  1. Đánh giá

3.1. Nghệ thuật xây dựng cuộc đối thoại:

Lưu Quang Vũ đã tạo ra một tình huống nghệ thuật đặc sắc, giàu tính biểu tượng, xây dựng những nhân vật có tính cách đa diện, phức tạp và sống động qua lời thoại giàu tính cá thể và hành động kịch logic, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hành động bên ngoài và hành động bên trong. Ngôn ngữ kịch vừa có màu sắc mỉa mai, dí dỏm, vừa mang tính chất triết lí nghiêm trang, phù hợp với tính cách nhân vật.

3.2. Nhận xét về triết lí nhân sinh trong đoạn trích (Ý nghĩa của cuộc đối thoại)

Triết lí nhân sinh hay nhân sinh quan là vấn đề quan trọng đối với mỗi con người, là toàn bộ những kinh nghiệm, cách nhìn nhận chung nhất về cuộc sống của con người và cũng là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt mục tiêu, hành động của con người. Bên cạnh đó nhân sinh quan còn là nguồn gốc của mọi suy nghĩ, hành vi và chi phối các hoạt động của con người trong đời sống. Nói vắn tắt thì nó là cách người ta nhìn cuộc đời hay là cái đạo làm người của người ta. Trong đoạn trích Lưu Quang Vũ đã thể hiện những sáng tạo nghệ thuật đặc sắc. Nếu trong tích truyện dân gian, được sống là niềm hạnh phúc lớn lao, nên mặc dù mang thân anh hàng thịt nhưng Trương Ba vẫn sống cuộc sống vui vẻ, thì trong vở kịch của Lưu Quang Vũ, việc phải trú nhờ vào thân xác thô kệch của anh hàng thịt lại là một nghịch cảnh phi lý, trái tự nhiên, là hoàn cảnh trớ trêu mà hồn Trương Ba buộc phải chấp nhận, quy phục. Đây chính là mấu chốt của tấn bi kịch mang tên hồn Trương Ba, da hàng thịt. Chính vì vậy cuộc đối thoại giữa hồn và xác tuy căng thẳng, quyết liệt nhưng mang đến nhiều ý nghĩa và triết lí nhân sinh sâu sắc:

Trong tích truyện cổ, dân gian tuyệt đối hóa vai trò của linh hồn, cho rằng hồn luôn quyết định và điều khiển thể xác. Còn ở đây Lưu Quang Vũ đã thể hiện quan niệm mới mẻ là linh hồn và thể xác dù có mối quan hệ hữu cơ với nhau nhưng chúng vẫn có sự tồn tại độc lập tương đối, chi phối lẫn nhau. Sự chi phối của xác hàng thịt với hồn Trương Ba cho thấy rất rõ điều đó.

Hơn nữa, hồn và xác là những ẩn dụ nghệ thuật. Xác hàng thịt là ẩn dụ cho bản năng, nhu cầu ham muốn, dục vọng tầm thường của con người, hồn Trương Ba là thế giới tinh thần luôn hướng đến sự thanh cao, trong sạch, lương thiện. Xung đột giữa Hồn và Xác là một tình huống kịch đặc sắc, tô đậm bi kịch “bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo”, sự thiếu hài hòa, không thống nhất trên các phương diện: linh hồn và thể xác, vật chất và tinh thần, nội dung và hình thức, bản năng và lý tưởng, cao cả và tầm thường… là xung đột dai dẳng giữa các mặt tồn tại trong một con người. Có thể nói cuộc đấu tranh giữa linh hồn và xác thịt chính là cuộc đấu tranh giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng và dục vọng, giữa phần người và phần con trong mỗi con người. Trong cuộc đấu tranh thường xuyên diễn ra trong con người ấy thì linh hồn phải biết kiểm soát, chế ngự thể xác chứ không được để thể xác lấn át rồi đổ hết tội cho nó. Nếu để thể xác lấn át, con người sẽ trở nên phàm phu, thô tục, tha hóa, sẽ chạy theo những ham muốn tầm thường.

Từ bi kịch của hồn Trương Ba không được sống là mình, Lưu Quang Vũ đặt ra vấn đề khuyên người ta phải biết sống hài hòa giữa linh hồn và thể xác, sống đúng là mình. Ông cũng phê phán lối sống giả, không đúng là mình khiến con người dễ bị tha hóa. Mặt khác, tác giả cũng phê phán lối sống chỉ vì linh hồn, vì quá trọng linh hồn mà bỏ bê thể xác khiến thể xác nhếch nhác, khổ sở. Đó cũng là lối sống duy tâm, cực đoan, lười biếng và không tưởng. Sự tha hóa của hồn Trương Ba còn khiến chúng ta nhận ra rằng con người sống trong môi trường dung tục rất dễ bị tha hóa, dung tục hóa. Điều này làm ta nhớ đến một câu nói “Những thói xấu ban đầu là người khách lạ qua đường, sau đó là người bạn thân ở chung nhà và kết cục trở thành ông chủ khó tính” hoặc nhớ đến câu tục ngữ mà cha ông ta bằng trải nghiệm của mình đã đúc rút thành “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Vì vậy, con người cần luôn tự hào về đời sống tâm hồn của mình; dũng cảm nhìn thẳng vào sự tha hoá của bản thân; nỗ lực đấu tranh với nghịch cảnh, với dục vọng tầm thường để vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.

Sâu sắc hơn, từ mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác trong đoạn trích, Lưu Quang Vũ còn hướng chúng ta đến mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Nội dung và hình thức vốn là hai phạm trù khác nhau, không thể từ cái nọ suy ra cái kia nhưng chúng phải thống nhất với nhau trong một chỉnh thể . Nếu đúng thống nhất và phù hợp với nhau thì có thể tạo nên giá trị và sức mạnh. Còn nếu chúng không phù hợp với nhau sẽ làm giảm giá trị, thậm chí có nguy cơ đe dọa đến đến sự tồn tại của sự vật hiện tượng.

 

Đoạn số 2:

Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba với người thân trong đoạn trích “Hồn Trương ba, da hàng thịt” (Trích trong vở kịch cùng tên) của Lưu Quang Vũ.

 

MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

– Giới thiệu đoạn trích: Trong đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” Lưu Quang Vũ đã dựng lên các cuộc đối thoại để đẩy xung đột nội tâm của hồn Trương Ba lên đến tận cùng buộc phải giải quyết. Từ đó ý nghĩ tư tưởng, những triết lí nhân sinh được phát biểu một cách sâu sắc, thấm thía. Trong đó, cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân cũng đem đến rất nhiều ý nghĩa cho vở kịch.

THÂN BÀI

  1. Khái quát

1.1.  Giới thiệu về hồn Trương Ba

Trương Ba là một ông lão làm vườn 60 tuổi, có tài đánh cờ, giỏi làm vườn, có tâm hồn thanh cao trong sạch. Do sự sơ xuất, tắc trách Nam Tào, Bắc Đẩu mà ông bị bắt chết nhầm. Sự sửa sai của Nam Tào, Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế Thích nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn. Con người vốn là một tổng thể thống nhất, vậy mà Trương Ba lại phải trú nhờ linh hồn minh trong thân xác của người khác, bi kịch hồn này, xác nọ “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Sống lại trong thể xác hàng thịt, Hồn Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái, phải sống, nhân vật hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè, cả những người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình. Bản thân Trương Ba cũng bị lây nhiễm một số thói xấu cùng với những nhu cầu vốn không phải của bản thân ông… Những điều đó làm Trương Ba vô cùng đau khổ. Ông đau đớn, chán chường trước cuộc sống không thật là mình. Trước cuộc đối thoại của hồn Trương Ba với người thân là màn đối thoại của hồn Trương Ba với xác hàng thịt. Trong cuộc đối thoại ấy, xác hàng thịt đã lấn lướt, sỉ nhục hồn Trương Ba làm hồn Trương Ba vốn đã rất đau khổ, bức bối vì sống không phải là mình càng trở nên đau khổ và bế tắc hơn. Kết thúc cuộc đối thoại, hồn Trương Ba dằn vặt, đau đớn, hoang mang, tuyệt vọng trở về cuộc sống trái với chính mình, chấp nhận trở lại xác hàng thịt trong nỗi đau khổ, tuyệt vọng và trở thành người thua cuộc. Chi tiết “Hồn Trương Ba bần thần nhập lại vào xác hàng thịt, ngồi lặng lẽ bên chõng” đã diễn tả cô đọng tính chất căng thẳng của xung đột kịch và sự bế tắc của hồn Trương Ba. Bi kịch của hồn Trương Ba càng trở nên đau đớn hơn trong cuộc đối thoại với người thân.

  1. Đối thoại hồn Trương Ba và người thân

Gia đình là một mái ấm mà ở đó, ta nhận được tình yêu thương của những người thân. Những lúc mệt mỏi, vấp ngã, nơi đầu tiên ta muốn tìm về là gia đình, người đầu tiên ta muốn chia sẻ, giãi bày là những người thân, bởi họ luôn ở đó, yêu thương ta một cách vô điều kiện. Khi bị rơi vào bi kịch đầy bế tắc, Trương Ba cũng tìm về với những người thân yêu với mong muốn được chia sẻ. Nhưng khi đối mặt với họ, ông lại càng đau khổ, tuyệt vọng hơn. Những người thân của ông đều cho rằng ông đã thay đổi khiến họ không còn nhận ra. Việc trò chuyện với họ còn khiến Trương Ba chợt hiểu rằng ông đã làm cho người thân của mình đau khổ và họ đang dần xa lánh ông. Hồn Trương Ba đau khổ gấp bội bởi vì với một người như Trương Ba, không có gì đau đớn hơn khi chính mình làm người thân của mình đau khổ.

2.1. Cuộc đối thoại với vợ

Trong cái nhìn của người vợ, Trương Ba là người rất yêu thương vợ con. Nhưng bây giờ bà nhận ra ông đã thay đổi quá nhiều:“ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”. Ngay cả người vợ, người gần gũi nhất với ông nhất cũng đã không còn hiểu nỗi lòng của ông, không còn nhận ra ông. Trương Ba bây giờ đâu còn là một người làm vườn chăm chỉ, hết lòng thương yêu vợ con, quan tâm tới hàng xóm láng giềng như ngày trước. Ông Trương Ba được mọi người kính trọng đã chết rồi. Bởi vậy mà bây giờ, ông cũng không dạy được con, để nó bán vườn đi mở thêm cửa hàng thịt. Người vợ mà ông yêu thương cũng đòi bỏ ông mà đi. Với bà “đi đâu cũng được… còn hơn là thế này”. Hóa ra, Trương Ba đã mang đến cho vợ bao nhiêu đớn đau, buồn tủi. Vì thương ông nên bà đã nhường ông cho cô vợ hàng thịt nhưng những mâu thuẫn cứ ngày một nhiều để rồi bà phải than với trời đất rằng “Cái thân tôi sao trời không bắt đi cho rảnh”. Bà sẽ đi thật xa, đi biệt cấy thuê, làm mướn ở đâu cũng được để tránh xa thực tế đau khổ này. Kết thúc đối thoại, bà vợ bỏ đi, hồn Trương Ba chỉ biết ngồi ôm đầu đau đớn.

2.2. Cuộc đối thoại với cháu gái

Cái Gái là cháu nội của Trương Ba thì phản ứng quyết liệt và dữ dội hơn nhiều. Trong kí ức của nó, ông nội nó là người giỏi làm vườn, quý cây, khéo léo và nhân hậu. Khi ông nội chết, đêm nào nó cũng khóc vì thương ông, nó cất giữ, nâng niu những vật dụng của ông như đôi guốc gỗ, bó đóm thuốc lào, nhất là những cây cối trong vườn như những kỉ vật về ông. Vì vậy nên với tâm hồn tuổi thơ trong sáng, không chấp nhận sự giả dối, nó không thể chấp nhận việc người ông nó hết mực yêu thương lại ở trong thể xác anh hàng thịt xa lạ, đáng ghét. Nó một mực không nhận ông: “Tôi không phải là cháu ông”, “Ông nội tôi chết rồi”. Trong mắt cái Gái cái kẻ có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non” “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” làm sao lại có thể là ông nội nó. Nó còn kể tội hồn Trương Ba đòi chữa diều cho cu Tị mà lại làm gãy nan, rách cả diều khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc. Với nó “ông nội đời nào, thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”.

2.3. Cuộc đối thoại với con dâu

Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn và biết phải trái. Chị là người thấu hiểu và thương bố chồng nhất. Chị thương ông hơn cả trước kia vì biết ông bây giờ “ khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng chị cũng đau đớn mà thấy rằng tình cảnh gia đình bây giờ rất đáng buồn “như sắp tan hoang ra cả”. Chính chị cũng không thể nhận ra bố chồng, không thể giữ được những điều tốt lành của Trương Ba ở lại. Bởi vậy, chị đã nói với bố chồng về nỗi buồn và những lo lắng của chị: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… Mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…”.

Không phải ngẫu nhiên mà tác giả không cho anh con trai thực dụng của Trương Ba vào trong màn đối thoại với người thân. Bởi vì nếu nhân vật này xuất hiện anh ta sẽ ủng hộ hồn Trương Ba sống trong xác hàng thịt để giúp anh ta hành nghề bán thịt. Điều đó sẽ không làm nổi bật bi kịch bị người thân xa lánh của hồn Trương Ba.

=> Vợ, cháu gái và con dâu, người thì chua xót dằn dỗi, tủi thân (vợ), người thì tức tưởi xua đuổi (cháu); người thì lại thấu hiểu sẻ chia (con dâu). Mỗi người trong gia đình ở một vị trí, một thái độ khác nhau nhưng đều có điểm chung là họ rất yêu quý và muốn níu giữ Trương Ba ở lại nhưng bất lực. Dù vậy, họ đều nhận thấy Trương Ba đã thay đổi, không còn nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn và họ đều rất đau khổ, chán nản, buồn rầu, than phiền vì điều đó. Họ không muốn chấp nhận tình trạng hai mảnh hồn và xác bất nhất của chồng, cha, ông mình. Họ đã nói ra thành lời nỗi đau của họ rằng với họ cái ngày chôn xác Trương Ba xuống đất họ đau, họ khổ nhưng “cũng không khổ bằng bây giờ”. Kết quả Trương Ba vỡ lẽ, nhận ra sự thay đổi của bản thân và sự lấn át của phần xác đối với phần hồn trong ông. Đây là lúc mâu thuẫn kịch lên đến đỉnh điểm khiến hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Mỗi lời nói của người thân trong gia đình như mũi dao găm vào trái tim đang đau đớn, bế tắc của Trương Ba, để giờ đây còn đẩy Trương Ba vào sự tuyệt vọng khôn cùng. Không còn gia đình để bấu víu, hy vọng Trương Ba hiểu mình đã mất tất cả, đã rơi vào trạng thái hoàn toàn cô độc. Ông cũng hiểu rõ nếu tiếp tục tồn tại bi kịch ấy sẽ còn tiếp diễn và theo chiều hướng tiêu cực hơn nữa. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn dần… lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào buộc ông phải đi đến quyết định cuối cùng.

Sau đó, Lưu Quang Vũ lại một lần nữa để cho hồn Trương Ba ngồi lại một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng, để hồn Trương Ba tự mình nghĩ ra cách cứu mình, quyết định tìm đường thoát khỏi tấn bi kịch cuộc đời. Những câu hỏi liên tiếp“lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình?”,“Chẳng còn cách nào khác”! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn cách nào khác?” đó thật sự là những câu hỏi cuộn xoáy dữ dội, giằng xé trong lòng Trương Ba. Để rồi ông đã tìm ra con đường của mình: “Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”. Lời thoại này cho thấy hồn Trương Ba đã tìm ra con đường giải thoát cho mình và cho người thân nên ông đã dứt khoát thắp nhang khấn mời tiên Đế Thích xuống giúp đỡ để được từ giã sự sống vênh lệch ấy.

  1. Đánh giá

3.1. Nghệ thuật

Lưu Quang Vũ đã tạo ra một tình huống nghệ thuật đặc sắc, giàu tính biểu tượng, xây dựng những nhân vật có tính cách đa diện, phức tạp và sống động qua lời thoại giàu tính cá thể và hành động kịch logic, độc thoại nội tâm giúp bộc lộ tính cách nhân vật. Ngôn ngữ kịch đậm chất triết lí nghiêm trang, phù hợp với tính cách nhân vật.

3.2. Ý nghĩa của cuộc đối thoại

Thông qua đoạn đối thoại của hồn Trương Ba với người thân, Lưu Quang Vũ đã giúp người đọc cảm nhận được bi kịch đầy đau đớn của hồn Trương Ba, từ đó nhận ra những quan niệm nhân sinh sâu sắc mà tác giả muốn gửi gắm. Nếu trong tích truyện dân gian, được sống là niềm hạnh phúc lớn lao, nên mặc dù mang thân anh hàng thịt nhưng Trương Ba vẫn sống cuộc sống vui vẻ, thì trong vở kịch của Lưu Quang Vũ, việc phải trú nhờ vào thân xác thô kệch của anh hàng thịt lại là một nghịch cảnh phi lý, trái tự nhiên, là hoàn cảnh trớ trêu mà hồn Trương Ba buộc phải chấp nhận, quy phục. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba với người thân cho thấy giống như tất cả mọi người trong cuộc đời này, Trương Ba cũng ham sống, ông càng khao khát được sống bên những người ông yêu thương và cũng rất yêu thương ông. Nhưng khi phải đối diện với bi kịch của một cuộc sống không phải của mình, Trương Ba khẳng định chua xót và thấm thía sống như thế còn khổ hơn là cái chết. Với một người nhân hậu như Trương Ba, ông còn day dứt vì sự sống vay mượn, giả tạo của mình đã đem đến bao đau khổ cho người thân, khiến gia đình như sắp tan hoang ra cả…Đó là những cái giá quá đắt cho cả Trương Ba và gia đình ông, cái giá mà ông không thể trả dù là cho sự sống quí giá của chính mình. Chính vì vậy mới dẫn đến sự lựa chọn của hồn Trương Ba trong đoạn sau của vở kịch. Và như vậy cuộc dối thoại giữa Trương Ba với người thân của mình góp phần đem đến nhiều ý nghĩa cho vở kịch. Từ bi kịch của hồn Trương Ba không được sống là mình, Lưu Quang Vũ đặt ra vấn đề khuyên người ta phải biết sống hài hòa giữa linh hồn và thể xác, sống đúng là mình. Ông cũng phê phán lối sống giả, không đúng là mình khiến con người dễ bị tha hóa.

 

Đoạn số 3:

Hồn Trương Ba: Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được!

Đế Thích: Sao thế?Có gì không ổn đâu!

Hồn Trương Ba: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn.

Đế Thích: Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư? Ngay cả tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông. Ông đã bị gạch tên khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù gì của ông đâu!

Hồn Trương Ba: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết

Đế Thích: Nhưng mà ông muốn gì?

Hồn Trương Ba: Ông từng nói: Nếu thân thể người chết còn nguyên vẹn, ông có thể làm cho hồn người đó trở về. Thì đây, thân thể anh hàng thịt còn lành lặn nguyên xi đây, tôi trả lại cho anh ta. Ông hãy làm cho hồn anh ta được sống lại với  thân xác này

Ðế Thích: Sao lại có thể đổi tâm hồn đáng quý của bác lấy chỗ cho cái phần hồn tầm thường của anh hàng thịt?

Hồn Trương Ba: Tầm thường, nhưng đúng là của anh ta, sẽ sống hòa thuận được với thân anh ta, chúng sinh ra là để sống với nhau. Vả lại, còn…còn chị vợ anh ta nữa…chị ta thật đáng thương!”

Đế Thích: Nhưng thế hồn ông muốn trú vào đâu?

Hồn Trương Ba: Ở đâu cũng được, chứ không ở đây nữa. Nếu ông không giúp, tôi sẽ…tôi sẽ… nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất.

(Trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” – Lưu Quang Vũ,

SGK Ngữ văn 12 tập hai, trang 149, NXB  Giáo dục 2008, tr149)

Phân tích vẻ đẹp nhân cách của Trương Ba thể hiện qua đoạn đối thoại với Đế Thích. Từ đó nhận xét về chiều sâu triết lí được tác giả gửi gắm qua đoạn trích?

    

MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

– Giới thiệu đoạn trích:

Trong đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” Lưu Quang Vũ đã dựng lên các cuộc đối thoại để đẩy xung đột nội tâm của hồn Trương Ba lên đến tận cùng buộc phải giải quyết. Từ đó ý nghĩ tư tưởng, những triết lí nhân sinh được phát biểu một cách sâu sắc, thấm thía. Trong đó, cuộc đối thoại này giữa hồn Trương Ba và Đế Thích thuộc đoạn giữa phần 3 cảnh VII, gần màn kết vở kịch cũng là một đoạn thoại đáng chú ý.

THÂN BÀI

  1. Khái quát

1.1.  Giới thiệu về hồn Trương Ba

Trương Ba là một ông lão làm vườn 60 tuổi, có tài đánh cờ, giỏi làm vườn, có tâm hồn thanh cao trong sạch. Do sự sơ xuất, tắc trách Nam Tào, Bắc Đẩu mà ông bị bắt chết nhầm. Sự sửa sai của Nam Tào, Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế Thích nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn. Con người vốn là một tổng thể thống nhất, vậy mà Trương Ba lại phải trú nhờ linh hồn minh trong thân xác của người khác, bi kịch hồn này, xác nọ “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Sống lại trong thể xác hàng thịt, Hồn Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái, phải sống, nhân vật hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè, cả những người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình. Bản thân Trương Ba cũng bị lây nhiễm một số thói xấu cùng với những nhu cầu vốn không phải của bản thân ông… Những điều đó làm Trương Ba vô cùng đau khổ. Ông đau đớn, chán chường trước cuộc sống không thật là mình. Trước cuộc đối thoại của hồn Trương Ba với Đế Thích là màn đối thoại của hồn Trương Ba với xác hàng thịt và người thân. Trong cuộc đối thoại với giữa hồn và xác, xác hàng thịt đã lấn lướt, sỉ nhục hồn Trương Ba làm hồn Trương Ba vốn đã rất đau khổ, bức bối vì sống không phải là mình càng trở nên đau khổ và bế tắc hơn. Kết thúc cuộc đối thoại, hồn Trương Ba phải chấp nhận trở lại xác hàng thịt trong nỗi đau khổ, tuyệt vọng và trở thành người thua cuộc. Trong cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba với người thân, bi kịch của hồn Trương Ba càng trở nên đau đớn hơn khi ông nhận ra việc sống trong xác hàng thịt khiến ông không chỉ bị người thân xa lánh mà còn làm khổ những người ông yêu thương nhất.

  1. Đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích

Bi kịch lên đến đỉnh điểm khiến hồn Trương Ba không thể chịu đựng thêm được nữa nên ông đã gọi Đế Thích xuống nhờ giúp đỡ. Cuộc trò chuyện giữa hồn Trương Ba với Đế Thích có vai trò quyết định trong việc giải quyết mâu thuẫn kịch. Nó cũng trở thành nơi tác giả gởi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết, về cả những triết lí nhân sinh.

2.1. Sự lựa chọn của Hồn Trương Ba

Một triết gia người Đức đã từng nói: “Anh phải trở về cái gì của chính anh”. Câu nói ấy là tiếng nói phải được sống là chính mình để trở thành một con người hoàn thiện và rất đúng đắn giống như lựa chọn của hồn Trương Ba trong đoạn trích. Khi gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ kiên quyết chối từ, không chấp nhận cái cảnh phải sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo “Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được!”. Hồn Trương Ba không thể chấp nhận sống chung với xác hàng thịt thô lỗ, phàm tục. Ông muốn được sống đúng là mình một cách toàn vẹn nhất“Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước khi đi đến quyết định.

Lúc đầu Đế Thích ngạc nhiên nhưng khi hiểu ra thì khuyên hồn Trương Ba nên chấp nhận vì “thế giới vốn không toàn vẹn, dưới đất, trên trời đều thế cả”, thậm chí đến cả người có quyền lực tối thượng như Ngọc Hoàng cũng không thể sống hoàn toàn là mình. Ngọc Hoàng cũng phải khuôn phép để sống đúng với địa vị của mình. Nhưng Trương Ba không chấp nhận lí lẽ đó. Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích và trách móc: “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên nay đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống thế nào thì ông chẳng cần biết”. Lời nói của Trương Ba cho thấy Đế Thích có lòng tốt với Trương Ba, nhưng lòng tốt không phải lúc nào cũng đem lại điều tốt lành cho người khác. Những người có lòng tốt mà vô tâm thậm chí còn đem đến những điều tệ hại, nghịch cảnh, bi kịch hơn. Vì lòng tốt với người bạn cờ của mình mà Đế Thích đã một lần sai khi giúp Nam Tào, Bắc Đẩu sửa lỗi, khiến hồn Trương Ba phải sống đầy bi kịch trong xác anh hàng thịt. Những tưởng mạng sống là quý giá nhưng có một điều còn quý giá hơn đó là được sống là chính mình. Sống thực sự cho ra con người quả thực không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa, thậm chí khi đó cuộc đời chỉ còn là chuỗi bi kịch đầy đau đớn. Mặt khác, lời thoại này cũng cho thấy hồn Trương Ba đã thấm thía nỗi khổ vì sự vênh lệch giữa linh hồn và thể xác, khiến Trương Ba không thể chịu đựng thêm.

Đế Thích vì yêu mến trân trọng Trương Ba nên luôn mong muốn Trương Ba được sống. Ông chỉ rõ hồn Trương Ba muốn tiếp tục sống thì phải sống nhờ thân xác, bởi vì “Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù gì của ông đâu!”. Đế Thích trân trọng và muốn giữ lại tâm hồn đáng quý của Trương Ba “Sao lại có thể đổi tâm hồn đáng quý của bác lấy chỗ cho cái phần hồn tầm thường của anh hàng thịt?”. Dù Đế Thích có thuyết phục thế nào thì hồn Trương Ba vẫn kiên quyết lựa chọn cái chết và muốn trả lại sự sống cho anh hàng thịt. Ông muốn trả lại sự sống cho xác hàng thịt vì dẫu có phàm tục, tầm thường, thô lỗ nhưng anh ta sẽ được sống hài hòa giữa linh hồn và thể xác. Hơn nữa, Trương Ba muốn trả lại sự sống cho xác hàng thịt còn vì ông thấy tình cảnh của người vợ hàng thịt cũng thật đáng thương. Sự kiên quyết lựa chọn cái chết của hồn Trương Ba còn được thể hiện rõ qua câu nói của ông “Nếu ông không giúp, tôi sẽ…tôi sẽ… nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất”.

Qua diễn biến của đoạn thoại, chúng ta có thể cảm nhận được những mâu thuẫn trái ngược trong quan niệm sống của hồn Trương Ba và Đế Thích. Quan điểm của Trương Ba là không chấp nhận lối sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Bởi đó là lối sống giả dối, gây đau khổ cho người thân, gây phiền toái cho chính mình. Vì thế, Trương Ba đã dũng cảm đối diện với hoàn cảnh nghiệt ngã, dám từ bỏ cuộc sống không phải là mình, chiến thắng sự hèn nhát tầm thường, yếu đuối của bản thân, không chịu lùi bước trước xác hàng thịt. Với Trương Ba được sống là mình trọn vẹn cả linh hồn và thể xác mới thực sự là sống có ý nghĩa, sống hạnh phúc và đem lại hạnh phúc cho mọi người. Còn Ðế Thích nghĩ đơn giản, quan liêu và hời hợt khi cho rằng không ai được sống là mình, trên trời dưới đất đều sống kiểu bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo, kể cả Trương Ba, Đế Thích và thậm chí cả Ngọc hoàng thượng đế tối cao cũng vậy. Ðó là sự thật phải chấp nhận không nên thay đổi, phủ nhận. Chỉ cần có thể xác cho linh hồn trú ngụ còn thể xác và linh hồn không thống nhất không quan trọng. Vậy quan điểm của Ðế Thích không coi trọng sự sống thực sự mà chỉ coi trọng sự tồn tại. Sống bên trong một đằng bên ngoài một nẻo không nguy hại gì cho ai, vì vậy hãy cố gắng chập nhận và sống chung với hoàn cảnh đó.

  1. Đánh giá

3.1. Nghệ thuật:

Màn đối thoại thể hiện sự xung đột quyết liệt, căng thẳng và kịch tính căng ra trong những xung đột, những mâu thuẫn bên ngoài và bên trong nhân vật. Ngôn ngữ sinh động, giọng điệu biến hoá, lời thoại vừa hướng nội vừa hướng ngoại, thấm đẫm triết lí nhân sinh. Hành động kịch góp phần quan trọng thể hiện tính cách nhân vật. Cách giải quyết xung đột kịch bất ngờ và đậm chất nhân văn. Đoạn thoại cũng góp phần thể hiện những đặc trưng thể loại kịch: mâu thuẫn phát triển từ “đỉnh điểm” đi đến “mở nút”.

3.2. Đánh giá về sự lựa chọn của Trương Ba và ý nghĩa của đoạn thoại

Sự mâu thuẫn trong hai quan điểm sống giữa hồn Trương Ba với Đế Thích và sự lựa chọn của hồn Trương Ba đã thể hiện nhiều ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.

*  Đây là sự lựa chọn nhân văn

           Quyết định dứt khoát xin tiên cờ Đế Thích cho mình được chết là kết quả của một quá trình nhận thức tỉnh táo, sáng suốt. Trong trang sách hay trên sân khấu, lời lẽ của Hồn Trương Ba đều làm xúc động lòng người bởi nó rất nhân văn. Nhân văn ở chỗ:

+ Lựa chọn ấy xuất phát từ khát vọng sống cao đẹp, khát vọng  được sống đúng là mình mình toàn vẹn cả tâm hồn và thể xác.

+  Đặc biệt, sự lựa chọn của ông không chỉ giải thoát được nghịch cảnh mà còn cho thấy Trương Ba là người nhân hậu, luôn biết nghĩ cho người khác. Ông sẵn sàng từ bỏ mạng sống của mình để anh hàng thịt được sống, để giúp đỡ người vợ anh hàng thịt. Từ đó, vở kịch thắp lên ngọn lửa ấm áp của tình người, khẳng định lẽ sống cao đẹp của con người là cần phải biết quan tâm đến người khác, nhất là những người có hoàn cảnh đáng thương.

* Đoạn đối thoại thể hiện quan niệm, triết lí về đời sống và con người 

Qua màn đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích, tác giả gửi gắm nhiều thông điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ, quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về cuộc sống và con người:

Với lời thoại của hồn Trương Ba “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”, Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm vào đó thông điệp: Con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hoà. Cuộc sống của con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống đúng là mình, hài hòa giữa linh hồn và thể xác. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Và không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục tội lỗi. Ngược lại, khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng đỗ lỗi cho thân xác và tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn vì thể xác chính là cái bình chứa đựng linh hồn. Thông điệp nữa ở đây là với con người được sống là điều may mắn nhưng sống thế nào cho thật ý nghĩa mới là điều quan trọng. Và sống thực sự cho ra con người, được sống đúng với mình quả không hề dễ dàng, đơn giản vì đến cả Ngọc Hoàng cũng khó có thể được tuyệt đối là mình.

Cũng thông qua sự lựa chọn của hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đề cao, ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của con người trong cuộc đấu tranh với cái dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn, hợp tự nhiên và để hoàn thiện nhân cách vươn tới sự cao khiết về linh hồn và khỏe mạnh về thể xác. Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ cũng được bộc lộ ở đây.

Qua đoạn thoại, tác giả Lưu Quang Vũ còn muốn nói đến một chuẩn mực trong đánh giá về con người là con người trong mối quan hệ với những người xung quanh. Con người sống không chỉ nghĩ đến mình mà còn phải biết sống vì người khác để tâm hồn mình thanh thản và để cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.

Hơn nữa, với tinh thần chiến đấu thẳng thắn của một nghệ sĩ hăng hái tham dự vào tiến trình cải cách xã hội, trong vở kịch này nói chung và đoạn trích nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ. Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hường thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Nói như Chế Lan Viên trong một bài thơ đã từng cảnh báo “muốn nuôi sống xác thân đem làm thịt linh hồn”. Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Thực chất đây là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, của sự lười biếng, không tưởng. Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán.

Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.

3.3.  Bình luận tác hại của lối sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo (nếu cần)

– Ðối với bản thân người có lối sống đó: dần dần sẽ bị tha hóa, ích kỉ, thực dụng, giả dối, suy thoái nhân cách, đánh mất danh dự, lòng tự trọng.: tham nhũng, hối lộ, gây ra những tệ nạn xã hội. Bị mọi người coi thường xa lánh.

– Ðối với cộng đồng: mất đoàn kết, hiểu lầm, mâu thuẫn, tranh giành, hãm hại nhau, kìm hãm sự phát triển.

– Cách phòng tránh: Sống yêu thương nhân hậu vị tha, mạnh dạn dũng cảm đấu tranh với biểu hiện tiêu cực, giả dối, bảo vệ người tốt.

 

Đề bài tham khảo thêm số 1

Hồn Trương Ba: Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được!

Đế Thích: Sao thế? Có gì không ổn đâu!

Hồn Trương Ba: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn.

Đế Thích: Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư? Ngay cả tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông. Ông đã bị gạch tên khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù gì của ông đâu!

Hồn Trương Ba: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”

                                      (Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Ngữ văn 12, Tập hai,

NXB Giáo dục Việt Nam, 2013, tr.149)

          Phân tích khát vọng của nhân vật Hồn Trương Ba thể hiện trong đoạn trích trên. Từ đó, hãy nêu giá trị nhân văn cao cả được tác giả gửi gắm qua vở kịch.

Gợi ý

  1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và đoạn trích
  2. Khát vọng của nhân vật Trương Ba:

– Khát vọng được thoát ra khỏi nghịch cảnh, không phải sống nhờ trong thân xác anh hàng thịt:

+ Trương Ba nhận ra mình đang bị tha hoá, nhiểu khi phải thoả hiệp với những đòi hỏi xác – thịt, không giữ được bản tính cao khiết như trước đây.

+ Ông luôn bị dằn vặt, day dứt bởi chính nghịch cảnh phải sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.

– Khát vọng được sống là chính mình:

+ Khi đối thoại với Đế Thích, Trương Ba thể hiện ý nguyện của mình: Tôi muốn được là tôi toàn vẹn – thể xác và linh hồn hòa hợp

+ Lời thoại cho thấy sự thay đổi trong nhận thức của Hồn Trương Ba. Từ chỗ đánh giá phiến diện về thân xác con người, Trương Ba đã có cái nhìn đúng đắn về sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn.

+ Khao khát mãnh liệt, cháy bỏng “là tôi toàn vẹn” của Hồn Trương Ba còn cho thấy nhân cách cao đẹp của Hồn Trương Ba. Nhân vật đã không còn chấp nhận chung đụng với cái thô lỗ tầm thường, dung tục và để nó sai khiến, mà muốn được trở về sống trọn vẹn với cái lương thiện, trong sáng, tốt đẹp vốn có.

  1. Đánh giá

* Nghệ thuật:

– Nghệ thuật xây dựng mâu thuẫn kịch: chặt chẽ, logic, hợp lý. Các chi tiết, hành động kịch nối tiếp nhau, đẩy mâu thuẫn kịch lên đến đỉnh cao, tạo nên kịch tính vô cùng căng thẳng, hấp dẫn.

– Nghệ thuật diễn tả tâm lý nhân vật: thông qua ngôn ngữ, hành động kịch, tác giả đã thể hiện tâm trạng phức tạp của nhân vật Hồn Trương Ba.

– Ngôn ngữ kịch: giản dị, sáng rõ, đặc biệt rất giàu tính triết lý.

* Ý nghĩa:

– Khát vọng của nhân vật Hồn Trương Ba: Sống là chính mình, không chấp nhận lối sống gửi, sống nhờ. Biết đấu tranh chống lại sự dung tục, tầm thường để giữ gìn nhân cách. Khát vọng đó đã làm sáng lên nhân cách tốt đẹp, cao cả của nhân vật Hồn Trương Ba.

– Đoạn trích góp phần thể hiện tài năng và phong cách nghệ thuật của Lưu Quang Vũ.

* Nhận xét về giá trị nhân văn cao cả qua vở kịch: Sự sống thật sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên, hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Hạnh phúc của con người là chiến thắng được bản thân, chiến thắng sự dung tục, hoàn thiện được nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.

 

Đề bài tham khảo thêm số 2

Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ có đoạn:

“Hồn Trương Ba: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn là tôi toàn vẹn.

Đế Thích: Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư? Ngay cả tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng.Dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông.Ông đã bị gạch tên khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù gì của ông đâu!

Hồn Trương Ba: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác, đã là chuyện không nên, đằng này cái thân tôi cũng phải sống nhờ vào anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!

Đế Thích: (không hiểu) Nhưng mà ông muốn gì?

Hồn Trương Ba: Ông từng nói: Nếu thân thể người chết còn nguyên vẹn, ông có thể làm cho hồn người đó trở về. Thì đây, (chỉ vào người mình) thân thể anh hàng thịt còn lành lặn nguyên xi đây, tôi trả lại cho anh ta. Ông hãy làm cho hồn anh ta được sống lại với  thân xác này.

Đế Thích: Sao lại có thể đổi tâm hồn đáng quý của bác lấy chỗ cho cái phần hồn tầm thường của anh hàng thịt ?

Hồn Trương Ba: Tầm thường, nhưng đúng là của anh ta, sẽ sống hòa thuận được với thân anh ta, chúng sinh ra là để sống với nhau. Vả lại, còn…còn chị vợ anh ta nữa…chị ta thật đáng thương!”

(Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt – Lưu Quang Vũ, SGK Ngữ văn 12, trang 149, NXBGD)

Chỉ ra sự khác biệt trong quan niệm sống của Trương Ba và Đế Thích.Từ đó anh/chị hãy bình luận ngắn gọn về khát vọng được sống là chính mình.

Gợi ý

  1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và đoạn trích
  2. So sánh quan điểm của hai nhân vật qua đoạn trích.

– Giải thích quan điểm: cách nhìn về cuộc sống (mục đích, ý nghĩa, lí do…sự sống của con người). Quan điểm  đúng thể hiện lập trường, đạo đức, vốn sống, văn hóa và sự tiến bộ, tích cực trong cuộc sống. Quan điểm sai lệch biểu hiện lối sống tiêu cực, hành động sai trái, tạo cơ hội cho kẻ xấu làm điều ác, hãm hại người tốt…

– Hoàn cảnh của Trương Ba: Bất đắc dĩ phải sống trong thân xác hàng thịt, dần dần Trương Ba bị nhiễm nhiều thói xấu của xác hàng thịt, làm người thân đau khổ, bản thân ông bế tắc tuyệt vọng.

– Quan điểm của Trương Ba:

+ Không chấp nhận lối sống : bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Đó là lối sống giả dối, gây đau khổ cho người thân, gây phiền toái cho chính mình. Điều đó chứng tỏ Trương Ba đã dũng cảm đối diện với hoàn cảnh nghiệt ngã, dám từ bỏ cuộc sống không phải là mình, chiến thắng sự hèn nhát tầm thường, yếu đuối của bản thân, không chịu lùi bước trước xác hàng thịt.

+ Khát vọng được sống là mình: trọn vẹn cả linh hồn và thể xác. Đó mới thực sự là sống có ý nghĩa, sống hạnh phúc và đem lại hạnh phúc cho mọi người.

+  Phê phán Đế Thích nghĩ đơn giản, sống quan liêu hời hợt: Chỉ cần cho tôi sống nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết. Đối với Trương Ba, sống không được là mình mà phải nhờ vả, mượn thân xác người khác chẳng qua là sự tồn tại, vô hồn, không ý nghĩa.

+  Dám từ bỏ những thứ không phải của mình để trả lại sự sống cho anh hàng thịt. Trương Ba không chỉ cao thượng mà rất nhân hậu vị tha.

=>Quan điểm của Trương Ba không chấp nhận cuộc sống giả tạo, gượng ép,chắp vá, vô nghĩa. Trương Ba có lòng tự trọng, sống cao thượng, khao khát sống là chính mình trọn vẹn thể xác và linh hồn. Đó là lối sống đẹp đẽ, đáng trân trọng của những người hiểu rõ mục đích ý nghĩa của cuộc sống.

–  Quan điểm của Đế Thích:

+ Không ai được sống là mình, trên trời dưới đất đều sống kiểu bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo: Tôi, ông và cả Ngọc hoàng cũng vậy. Đó là sự thật phải chấp nhận không nên thay đổi, phủ nhận.

+  Chỉ cần thể xác được sống lại cho linh hồn trú ngụ còn thể xác và linh hồn không thống nhất không quan trọng. Vì vậy hãy cố gắng chập nhận và sống chung với hoàn cảnh đó. Đó là quan điểm sống hời hợt, vô cảm.

– Nhận xét hai quan điểm sống:

+ Trương Ba đúng đắn, tích cực, coi trọng sự sống thực sự là mình còn Đế Thích sai lầm, quan liêu chỉ coi trọng sự tồn tại còn sống được là mình không cần quan tâm.

+ Quan điểm của Trương Ba thể hiện tư tưởng chủ đề của vở kịch và cũng là thông điệp của nhà văn đến mọi người: Hãy sống là mình, trọn vẹn thống nhất thể xác và linh hồn. Nếu không chỉ là sự tồn tại vô nghĩa, tạo cơ hội cho kẻ xấu lợi dụng, cái ác hoành hành.

+ Nhà văn phê phán lối sống giả tạo, lối sống hời hợt, chắp vá, gượng ép hoặc quá đề cao nhu cầu vật chất hơn tinh thần, tinh thần hơn vật chất đang diễn ra phổ biến, trở thành trào lưu đáng báo động trong xã hội.

  1. Đánh giá

– Nghệ thuật: từ một tình huống trong truyện cổ dân gian, nhà văn đã sử dụng sáng tạo thành xung đột kịch gay gắt căng thẳng; ngôn ngữ kịch giản dị, có sức khái quát cao, thể hiện rõ xung đột kịch và tích cách nhân vật. Tính chất triết lí từ hai nhân vật có quan điểm sống trái ngược nhau làm nên thành công của vở kịch. Mâu thuẫn được giải quyết.

– Bình luận khát vọng được sống là chính mình: Trương Ba không chấp nhận sống chung với sự tầm thường giả dối của người khác, ông muốn được sống thuận theo lẽ tự nhiên: trọn vẹn là mình hòa hợp linh hồn thể xác. Từ đó, tác giả muốn nhắn nhủ mỗi người chúng ta phải trang bị tri thức, kĩ năng, luôn chủ động, linh hoạt trước những biến đổi của cuộc sống. Cần giữ vững cá tính, phong cách của bản thân, sống hòa nhập nhưng không hòa tan, sống theo cá tính, phong cách riêng nhưng không lập dị khác thường, con người sẽ có được hạnh phúc thực sự.

 

Đoạn số 4:

Đế Thích: Ông Trương Ba… (đắn đo rất lâu rồi quyết định) Vì lòng quí mến ông, tôi sẽ làm cu Tị sống lại, dù có bị phạt nặng… Nhưng còn ông… rốt cuộc ông muốn nhập vào thân thể ai?

Hồn Trương Ba: (sau một hồi lâu): Tôi đã nghĩ kĩ… (nói chậm và khẽ) Tôi không nhập vào hình thù ai nữa! Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!

Đế Thích: Không thể được! Việc ông phải chết chỉ là một lầm lẫn của quan thiên đình. Cái sai ấy đã được sửa bằng cách làm cho hồn ông được sống.

Hồn Trương Ba: Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc đúng khác. Việc đúng còn làm kịp bây giờ là làm cu Tị sống lại. Còn tôi, cứ để tôi chết hẳn…

Đế Thích: Không! Ông phải sống, dù với bất cứ giá nào…

Hồn Trương Ba: Không thể sống với bất cứ giá nào được, ông Đế Thích ạ! Có những cái giá đắt quá, không thể trả được… Lạ thật, từ lúc tôi có đủ can đảm đi đến quyết định này, tôi bỗng cảm thấy mình lại là Trương Ba thật, tâm hồn tôi lại trở lại thanh thản, trong sáng như xưa…

Đế Thích: Ông có biết ông quyết định điều gì không? Ông sẽ không còn lại một chút gì nữa, không được tham dự vào bất cứ nỗi vui buồn gì! Rồi đây, ngay cả sự ân hận về quyết định này, ông cũng không có được nữa.

Hồn Trương Ba: Tôi hiểu. Ông tưởng tôi không ham sống hay sao? Nhưng sống thế này, còn khổ hơn là cái chết. Mà không phải chỉ một mình tôi khổ! Những người thân của tôi sẽ còn phải khổ vì tôi! Còn lấy lí lẽ gì khuyên thằng con tôi đi vào con đường ngay thẳng được? Cuộc sống giả tạo này có lợi cho ai? Họa chăng chỉ có lão lí trưởng và đám trương tuần hỉ hả thu lợi lộc! Đúng, chỉ bọn khốn kiếp là lợi lộc.

(Lưu Quang Vũ, Hồn Trương Ba,da hàng thịt,Ngữ văn 12,

tập Hai, NXB Giáo dục – 2008, tr.151-152)‌ ‌

‌‌Cảm‌ ‌nhận‌ ‌của‌ ‌anh/chị‌ ‌về‌ ‌nhân‌ ‌vật‌ ‌Hồn‌ ‌Trương‌ ‌Ba‌ ‌trong‌ ‌đoạn‌ ‌trích‌ ‌trên.‌ ‌Từ‌ ‌đó,‌ ‌nhận‌ ‌xét‌ ‌chiều‌ ‌sâu‌ ‌triết‌ ‌lí‌ ‌về‌ ‌con‌ ‌người‌ ‌của‌ ‌ ‌Lưu‌ ‌Quang‌ ‌Vũ.‌ 

 

MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

– Giới thiệu đoạn trích:

Trong đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” Lưu Quang Vũ đã dựng lên các cuộc đối thoại để đẩy xung đột nội tâm của hồn Trương Ba lên đến tận cùng buộc phải giải quyết. Từ đó ý nghĩ tư tưởng, những triết lí nhân sinh được phát biểu một cách sâu sắc, thấm thía. Trong đó, cuộc đối thoại này giữa hồn Trương Ba và Đế Thích thuộc cảnh VII, gần màn kết vở kịch cũng là một đoạn thoại đáng chú ý.

THÂN BÀI

  1. Khái quát

1.1.  Giới thiệu về hồn Trương Ba

Trương Ba là một ông lão làm vườn 60 tuổi, có tài đánh cờ, giỏi làm vườn, có tâm hồn thanh cao trong sạch. Do sự sơ xuất, tắc trách Nam Tào, Bắc Đẩu mà ông bị bắt chết nhầm. Sự sửa sai của Nam Tào, Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế Thích nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn. Con người vốn là một tổng thể thống nhất, vậy mà Trương Ba lại phải trú nhờ linh hồn minh trong thân xác của người khác, bi kịch hồn này, xác nọ “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Sống lại trong thể xác hàng thịt, Hồn Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái, phải sống, nhân vật hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè, cả những người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình. Bản thân Trương Ba cũng bị lây nhiễm một số thói xấu cùng với những nhu cầu vốn không phải của bản thân ông… Những điều đó làm Trương Ba vô cùng đau khổ. Ông đau đớn, chán chường trước cuộc sống không thật là mình. Trước cuộc đối thoại của hồn Trương Ba với Đế Thích là màn đối thoại của hồn Trương Ba với xác hàng thịt và người thân. Trong cuộc đối thoại với giữa hồn và xác, xác hàng thịt đã lấn lướt, sỉ nhục hồn Trương Ba làm hồn Trương Ba vốn đã rất đau khổ, bức bối vì sống không phải là mình càng trở nên đau khổ và bế tắc hơn. Kết thúc cuộc đối thoại, hồn Trương Ba phải chấp nhận trở lại xác hàng thịt trong nỗi đau khổ, tuyệt vọng và trở thành người thua cuộc. Trong cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba với người thân, bi kịch của hồn Trương Ba càng trở nên đau đớn hơn khi ông nhận ra việc sống trong xác hàng thịt khiến ông không chỉ bị người thân xa lánh mà còn làm khổ những người ông yêu thương nhất.

  1. Đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích

Việc sống nhờ trong thân xác hàng thịt khiến bi kịch của Trương Ba lên đến đỉnh điểm khiến ông thể chịu đựng thêm được nữa nên gọi Đế Thích xuống nhờ giúp đỡ. Trương Ba kiên quyết chọn cái chết nhưng Đế Thích thuyết phục Trương Ba nếu sống trong thân xác anh hàng thịt quá phiền toái thì ông sẽ giúp hồn Trương Ba được sống trong xác của cu Tị vừa mới chết. Nhưng Trương Ba vẫn kiên quyết chối từ và đề nghị nhường mạng sống của mình cho cu Tị. Hồn Trương Ba đã hình dung ra những “nghịch cảnh” khi phải sống trong thân xác một đứa trẻ, đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước khi đi đến quyết định. Cuộc trò chuyện sau đó giữa hồn Trương Ba với Đế Thích có vai trò quyết định trong việc giải quyết mâu thuẫn kịch. Đoạn thoại cũng trở thành nơi tác giả gởi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết, về cả những triết lí nhân sinh.

Đế Thích vì yêu mến, trân trọng Trương Ba nên luôn mong muốn Trương Ba được sống và tìm mọi cách để giúp Trương Ba. Ngay cả khi Trương Ba xin cho cu Tị được sống, Đế Thích sau một hồi đắn đo, suy nghĩ vẫn cố gắng đáp ứng “Vì lòng quí mến ông, tôi sẽ làm cu Tị sống lại, dù có bị phạt nặng… Nhưng còn ông… rốt cuộc ông muốn nhập vào thân thể ai?”. Lời nói này cho thấy Đế Thích sẽ vừa để cho cu Tị được sống vừa cho Trương Ba cơ hội tự lựa chọn thân xác mà mình muốn trú ngụ. Đế Thích quyết tâm thuyết phục, thậm chí sẵn sàng chịu phạt để giúp hồn Trương Ba được sống. Ông phân tích cho Trương Ba thấy “Việc ông phải chết chỉ là một lầm lẫn của quan thiên đình. Cái sai ấy đã được sửa bằng cách làm cho hồn ông được sốngvà khẳng định Ông phải sống, dù với bất cứ giá nào...

Ấy thế nhưng dù Đế Thích có cố gắng giúp đỡ, thuyết phục thế nào thì hồn Trương Ba vẫn kiên quyết lựa chọn cái chết. Trương Ba phản bác lại quan niệm “sai đã sửa” của Đế Thích, vì theo ông “Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc đúng khác. Và việc đúng đắn nhất lúc này chính là cứu lấy linh hồn ngây thơ, trong sáng của cu Tị. Còn Trương Ba đã chết rồi thì hãy để cho ông chết hẳn, không chắp vá vì sự chắp vá chỉ càng thêm vênh lệch và bi kịch. Dẫu Đế Thích có cố thuyết phục, cảnh báo Trương Ba về việc ông sẽ biến mất hoàn toàn “Ông sẽ không còn lại một chút gì nữa, không được tham dự vào bất cứ nỗi vui buồn gì! Rồi đây, ngay cả sự ân hận về quyết định này, ông cũng không có được nữanhưng hồn Trương Ba vẫn đi đến khẳng định chấp nhận cái chết vì dẫu ông có ham sống thì “sống thế này, còn khổ hơn là cái chết. Sống trong thân xác kẻ khác ông đau khổ, vợ, con, cháu ông đau khổ và con hư thì ông lấy tư cách gì để dạy bảo con… Hồn Trương Ba còn đặt ngược lại vấn đề rồi đi đến kết luận: “Cuộc sống giả tạo này có lợi cho ai? Họa chăng chỉ có lão lí trưởng và đám trương tuần hỉ hả thu lợi lộc! Đúng, chỉ bọn khốn kiếp là lợi lộc”. Bằng những trải nghiệm đầy đau khổ khi sống trong xác hàng thịt và đã nhận thức được đúng đắn về tình cảnh của mình nên hồn Trương Ba đã kiên định sự lựa chọn của mình. Và khi đã can đảm lựa chọn và kiên định với lựa chọn ấy, hồn Trương Ba lại thấy mình trở về là Trương Ba của ngày xưa, là một ông Trương Ba có tâm hồn trong sạch, thanh cao. Ông đã thoát khỏi bi kịch của chính mình để tìm thấy sự thanh thản trong tâm hồn.

Qua diễn biến của đoạn thoại, chúng ta có thể cảm nhận được những mâu thuẫn trái ngược trong quan niệm sống của hồn Trương Ba và Đế Thích. Quan điểm của Trương Ba là không chấp nhận lối sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Bởi đó là lối sống giả dối, gây đau khổ cho người thân, gây phiền toái cho chính mình. Vì thế, Trương Ba đã dũng cảm đối diện với hoàn cảnh nghiệt ngã, dám từ bỏ cuộc sống không phải là mình, chiến thắng sự hèn nhát tầm thường, yếu đuối của bản thân, không chịu lùi bước trước xác hàng thịt. Với Trương Ba được sống là mình trọn vẹn cả linh hồn và thể xác mới thực sự là sống có ý nghĩa, sống hạnh phúc và đem lại hạnh phúc cho mọi người. Còn Ðế Thích nghĩ đơn giản, quan liêu và hời hợt khi cho rằng cái sai của Nam Tào, Bắc Đẩu khi bắt chết nhầm Trương Ba là có thể sửa chữa được và đã được sửa. Thậm chí Đế Thích còn cho rằng chỉ cần có thể xác cho linh hồn trú ngụ còn việc thể xác và linh hồn không thống nhất không quan trọng. Vậy quan điểm của Ðế Thích không coi trọng sự sống thực sự mà chỉ coi trọng sự tồn tại. Đế Thích cho rằng sống bên trong một đằng bên ngoài một nẻo không nguy hại gì cho ai, vì vậy hãy cố gắng chập nhận và sống chung với hoàn cảnh đó. Đế Thích còn sai lầm ở chỗ vì tính háo danh, muốn “người trên trời, dưới đất mới biết tôi cao cờ như thế nào” nên Đế Thích mới chắp vá và gượng ép cho Hồn Trương Ba nhập vào xác hàng thịt tạo nên nỗi thống khổ cho Trương Ba và những người thân. Cũng vì ích kỉ, háo danh mà Đế Thích quyết phạm thêm một sai lầm khác là định cho Hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị. Bởi vậy, có thể nhận thấy mâu thuẫn giữa quan niệm của hồn Trương Ba và Đế Thích, cơ hội mà Đế Thích tạo ra cho Trương Ba trong đoạn thoại chính là một sáng tạo nghệ thuật của Lưu Quang Vũ. Nhà văn tạo ra mâu thuẫn và tình huống ấy chính là để một lần nữa đặt hồn Trương Ba vào thử thách, nhấn mạnh thêm sự lựa chọn kiên định, sáng suốt của hồn Trương Ba.

  1. Đánh giá

3.1. Nghệ thuật:

Màn đối thoại thể hiện sự xung đột quyết liệt, căng thẳng và kịch tính căng ra trong những xung đột, những mâu thuẫn bên ngoài và bên trong nhân vật. Ngôn ngữ sinh động, giọng điệu biến hoá, lời thoại vừa hướng nội vừa hướng ngoại, thấm đẫm triết lí nhân sinh. Hành động kịch góp phần quan trọng thể hiện tính cách nhân vật. Cách giải quyết xung đột kịch bất ngờ và đậm chất nhân văn. Đoạn thoại cũng góp phần thể hiện những đặc trưng thể loại kịch: mâu thuẫn phát triển từ “đỉnh điểm” đi đến “mở nút”.

3.2. Đánh giá về sự lựa chọn của Trương Ba và ý nghĩa của đoạn thoại

Một triết gia người Đức đã từng nói: “Anh phải trở về cái gì của chính anh”. Câu nói ấy là tiếng nói phải được sống là chính mình để trở thành một con người hoàn thiện và rất đúng đắn giống như lựa chọn của hồn Trương Ba trong đoạn trích. Việc Trương Ba từ chối các cơ hội được sống mà Đế Thích đưa ra và chọn cái chết là một sự lựa chọn đầy nhân văn, thể hiện nhiều ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.

*  Đây là sự lựa chọn nhân văn

           Quyết định dứt khoát xin tiên cờ Đế Thích cho mình được chết là kết quả của một quá trình nhận thức tỉnh táo, sáng suốt. Trong trang sách hay trên sân khấu, lời lẽ của Hồn Trương Ba đều làm xúc động lòng người bởi nó rất nhân văn. Nhân văn ở chỗ:

+ Lựa chọn ấy xuất phát từ khát vọng sống cao đẹp, khát vọng  được sống đúng là mình mình toàn vẹn cả tâm hồn và thể xác.

+  Đặc biệt, sự lựa chọn của ông không chỉ giải thoát được nghịch cảnh mà còn cho thấy Trương Ba là người nhân hậu, luôn biết nghĩ cho người khác. Ông hiểu rằng chỉ khi ông “chết hẳn”, ông mới tìm lại được sự thanh thản, trong sáng cho tâm hồn; những người thân cũng sẽ không còn phải khổ vì ông; người con cả của ông sẽ có cơ hội trở lại con đường ngay thẳng. Ông sẵn sàng từ bỏ mạng sống của mình cũng để cho cụ Tị được sống, để chị Lụa không phải khóc vì thương nhớ con. Từ đó, vở kịch thắp lên ngọn lửa ấm áp của tình người, khẳng định lẽ sống cao đẹp của con người là cần phải biết quan tâm đến người khác, nhất là những người có hoàn cảnh đáng thương. Rõ ràng ở đây nhà văn đã đề cao lối sống vị tha, cao thượng và ở khía cạnh này chúng ta thấy tư tưởng của nhà văn dù tiến bộ và mới mẻ đến đâu vẫn có sự bắt rễ sâu và hoàn toàn thống nhất với truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc.

* Đoạn đối thoại thể hiện quan niệm, triết lí về đời sống và con người 

Qua màn đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích, tác giả gửi gắm nhiều thông điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ, quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về cuộc sống và con người:

Với sự lựa chọn đầy nhân văn của Trương Ba, Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm vào đó thông điệp: Con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hoà. Cuộc sống của con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống đúng là mình, hài hòa giữa linh hồn và thể xác. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Và không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục tội lỗi. Ngược lại, khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng đỗ lỗi cho thân xác và tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn vì thể xác chính là cái bình chứa đựng linh hồn. Thông điệp nữa ở đây là với con người được sống là điều may mắn nhưng sống thế nào cho thật ý nghĩa mới là điều quan trọng. Và sống thực sự cho ra con người, được sống đúng với mình quả thực là điều không hề dễ dàng.

Cũng thông qua sự lựa chọn của hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đề cao, ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của con người trong cuộc đấu tranh với cái dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn, hợp tự nhiên và để hoàn thiện nhân cách vươn tới sự cao khiết về linh hồn và khỏe mạnh về thể xác. Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ cũng được bộc lộ ở đây.

Qua đoạn thoại, tác giả Lưu Quang Vũ còn muốn nói đến một chuẩn mực trong đánh giá về con người là con người trong mối quan hệ với những người xung quanh. Con người sống không chỉ nghĩ đến mình mà còn phải biết sống vì người khác để tâm hồn mình thanh thản và để cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.

Hơn nữa, với tinh thần chiến đấu thẳng thắn của một nghệ sĩ hăng hái tham dự vào tiến trình cải cách xã hội, trong vở kịch này nói chung và đoạn trích nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ. Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hường thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Nói như Chế Lan Viên trong một bài thơ đã từng cảnh báo “muốn nuôi sống xác thân đem làm thịt linh hồn”. Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Thực chất đây là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, của sự lười biếng, không tưởng. Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán.

Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.

Lưu Quang Vũ còn thể hiện cảm hứng thế sự, thể hiện một triết lí đầy sâu sắc trước cuộc đời rằng thần thánh cũng sai lầm, nhưng có những việc sai có thể sửa được những có những việc càng sửa càng sai. Bởi vậy trước những sai lầm, thất bại trong cuộc sống con người cần biết tỉnh táo để nhận thức về sai lầm của mình, từ đó có thể sửa chữa hay thay vào đó bằng một việc làm đúng để cho xã hội ngày cảng trở nên tốt đẹp hơn.

Đoạn số 5:

Vợ Trương Ba: Ông ở đâu? Ông ở đâu?

(Giữa màu xanh cây vườn, Trương Ba chập chờn xuất hiện)

Trương Ba: Tôi ở đây bà ạ. Tôi vẫn ở liền ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta, trong ánh lửa bà nấu cơm, cầu ao bà vo gạo, trong cái cơi bà đựng trầu, con dao bà giẫy cỏ… Không phải mượn thân xác ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta, trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu.

(Dưới một gốc cây, hiện lên cu Tị và cái Gái)

Cái Gái: (Tay cầm một trái na) Cây na này, ông nội tớ trồng đấy. Quả to mà ngon lắm. Ta ăn chung nhé!

(Bẻ quả na đưa cho cu Tị một nửa. Đôi trẻ ăn ngon lành. Cái Gái lấy những hạt na vùi xuống đất.)

Cu Tị: Cậu làm gì thế?

Cái Gái: Cho nó mọc thành cây mới. Ông nội tớ bảo vậy. Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn. Mãi mãi…

(Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ,

Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục, tr.153)

Phân tích đoạn trích trên, từ đó rút ra thông điệp được Lưu Quang Vũ gửi gắm qua vở kịch.

 

MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

– Giới thiệu đoạn trích:

“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” thể hiện rõ những đặc trưng thể loại kịch: mâu thuẫn phát triển từ “đỉnh điểm” đi đến “mở nút” và cuối cùng là đoạn kết. Và đoạn kết trong vở kịch là vĩ thanh có đầy sức ngân vang, lay động lòng người.

THÂN BÀI

  1. Khái quát

1.1.  Giới thiệu về vở kịch

Trương Ba là một ông lão làm vườn 60 tuổi, có tài đánh cờ, giỏi làm vườn, có tâm hồn thanh cao trong sạch. Do sự sơ xuất, tắc trách Nam Tào, Bắc Đẩu mà ông bị bắt chết nhầm. Sự sửa sai của Nam Tào, Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế Thích nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn. Con người vốn là một tổng thể thống nhất, vậy mà Trương Ba lại phải trú nhờ linh hồn minh trong thân xác của người khác, bi kịch hồn này, xác nọ “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Sống lại trong thể xác hàng thịt, Hồn Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái, phải sống, nhân vật hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè, cả những người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình. Bản thân Trương Ba cũng bị lây nhiễm một số thói xấu cùng với những nhu cầu vốn không phải của bản thân ông… Những điều đó làm Trương Ba vô cùng đau khổ. Ông đau đớn, chán chường trước cuộc sống không thật là mình. Trước cuộc đối thoại của hồn Trương Ba với Đế Thích là màn đối thoại của hồn Trương Ba với xác hàng thịt và người thân. Trong cuộc đối thoại với giữa hồn và xác, xác hàng thịt đã lấn lướt, sỉ nhục hồn Trương Ba làm hồn Trương Ba vốn đã rất đau khổ, bức bối vì sống không phải là mình càng trở nên đau khổ và bế tắc hơn. Kết thúc cuộc đối thoại, hồn Trương Ba phải chấp nhận trở lại xác hàng thịt trong nỗi đau khổ, tuyệt vọng và trở thành người thua cuộc. Trong cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba với người thân, bi kịch của hồn Trương Ba càng trở nên đau đớn hơn khi ông nhận ra việc sống trong xác hàng thịt khiến ông không chỉ bị người thân xa lánh mà còn làm khổ những người ông yêu thương nhất. Việc sống nhờ trong thân xác hàng thịt khiến bi kịch của Trương Ba lên đến đỉnh điểm khiến ông thể chịu đựng thêm được nữa nên gọi Đế Thích xuống nhờ giúp đỡ. Trương Ba kiên quyết chọn cái chết nhưng Đế Thích thuyết phục Trương Ba nếu sống trong thân xác anh hàng thịt quá phiền toái thì ông sẽ giúp hồn Trương Ba được sống trong xác của cu Tị vừa mới chết. Nhưng Trương Ba vẫn kiên quyết chối từ và đề nghị nhường mạng sống của mình cho cu Tị để được “là tôi toàn vẹn”. Từ đây mà dẫn đến đoạn kết của tác phẩm.

1.2. Giới thiệu về kết thúc vở kịch

Đoạn kết những vở kịch được trình diễn, phần kết kịch bao giờ cũng là phần đáng mong chờ và thường để lại dư vang trong tâm khảm người đọc, người xem. Người đọc, người xem kịch có thể đã thấy những cái kết bi phẫn, đau thương, có cái kết hào hùng, hoành tráng … Còn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ lại đem đến một cái kết đầy chất thơ, dịu nhẹ và trong trẻo. vừa có ý nghĩa giải quyết xung đột kịch vừa nêu bật tư tưởng tình cảm của người tác giả,

  1. Phân tích đoạn kết

Đoạn kết có thể chia thành hai phân cảnh là cảnh hồn Trương Ba hiện lên giữa màu xanh cây vườn để trò chuyện với vợ và cảnh cái Gái cùng cu Tị ăn trái na rồi gieo hạt ở trong vườn.

2.1. Cảnh 1: Trương Ba hiện giữa màu xanh cây vườn để trò chuyện với vợ

* Mô tả và phân tích cảnh 1:

Cảnh một của đoạn kết diễn ra trong khung cảnh một khu vườn lung linh ánh sáng. Ở một góc nhà đó, hiện lên cảnh tượng cu Tị đang ôm chầm lấy mẹ, chị Lụa cuống quít vuốt ve con… Sự ra đi của Trương Ba đã mang lại sự sống mới cho cu Tị. Chị Lụa đang đớn đau tột độ vì tưởng chừng như sắp tuột mất đứa con yêu dấu khỏi tay mình, nay nó lại trở về khỏe mạnh vui cười quấn quít ngay cạnh bên. Niềm hạnh lớn lao vô cùng mà Trương Ba mang lại cho hai mẹ con mang ý nghĩa rất thiêng liêng và cao cả.

Trong khung cảnh ấy văng vẳng bên tai lời gọi của vợ Trương Ba. Người vợ ấy là một phụ nữ hiền hậu, đảm đang, bà đã từng mất lòng tin về người chồng bà yêu thương khi hồn Trương Ba trú ngụ và tha hóa trong xác hàng thịt. Giờ đây, sau khi Trương Ba lựa chọn cái chết để được trở về là chính mình, giải thoát mình và người thân khỏi bi kịch thì hình ảnh người chồng nhân hậu, hiền từ lại trở về trong lòng người vợ yêu thương. Người vợ gọi chồng: “Ông ở đâu? Ông ở đâu?”. Tiếng gọi thân thương ấy giống như những lần Trương Ba đi làm vườn, chiều chiều vợ gọi vào quây quần bên nồi cơm mới thổi. Cảnh tượng ấy thật đẹp đẽ, ấm áp xiết bao. Trương Ba vẫn là “ông Trương Ba làm vườn” của những ngày xưa ấy, để lại thật nhiều kỉ niệm trong tim người còn sống trên đời. Bóng Trương Ba chập chờn xuất hiện giữa màu xanh cây vườn. Hình ảnh Trương Ba trước sau vẫn vậy, vẫn gắn chặt với khu vườn xanh non mơn mởn, với bao trái ngọt hoa thơm, với những điều bình dị, mộc mà mà nặng nghĩa nặng tình. Lời đáp của Trương Ba thật chân tình, da diết, chan chứa tình yêu thương vốn có trong con người nhân hậu này: “Tôi đây bà ạ”. Chưa bao giờ Trương Ba ngừng yêu thương người vợ bao dung của mình, có chăng là vì sống trong xác hành thịt nên Trương Ba khác đi trong mắt bao người chứ thực sự lòng Trương Ba vẫn trước sau như một, không hề đổi thay. Trương Ba chết thật! Thể xác Trương Ba đã tan rã tự bao giờ trong lòng đất quê hương. Nhưng hồn Trương Ba vẫn sống, hình bóng Trương Ba không vĩnh viễn mất đi mà hóa thân vào các sự vật thân thương, được mọi người nâng niu, trân trọng. Trương Ba “vẫn ở liền” ngay bên người vợ của mình. Trên cái bậc cửa nhà có bóng hình Trương Ba dõi mắt theo cái Gái, theo những người thân thuộc. Trương Ba trong ánh lửa bập bùng gian bếp mỗi lúc vợ nấu cơm. Ánh lửa của yêu thương, chắt chiu, ánh lửa của sự sống vĩnh hằng không bao giờ dập tắt, Trương Ba hóa thân vào chiếc cầu ao quê nhà, trong cái cơi đựng trầu tình nghĩa vợ bưng ra mỗi khi có khách đến thăm. Trương Ba đã sống trong nghĩa tình cao quý, trong những điều tốt đẹp của cuộc đời. “Không phải mượn thân ai cả”, Trương Ba đang tồn tại với linh hồn độc lập, sống là chính mình, yêu thương và nhận lại thương yêu. Một cuộc ra đi thanh thản, Trương Ba vẫn tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân thuộc của mình. Cuộc sống lại tuần hoàn theo quy luật muôn đời.

* Ý nghĩa cảnh 1:

Trương Ba chấp nhận cái chết nhường lại cơ hội sống cho cu Tị thể hiện một vẻ đẹp đạo đức ở con người ông, ấy là vẻ đẹp của tấm lòng cao thượng, bao dung, biết sống vì người khác. Lời thủ thỉ chuyện trò của Trương Ba với người vợ đã nói lên một chân lý của cuộc đời rằng: Cuộc sống của con người không chỉ là sự tồn tại sinh học như ta nhìn thấy bên ngoài mà sự sống của tâm hồn mới là bất diệt. Con người phải sống như thế nào để cuộc đời mình thực sự có ý nghĩa, trọn vẹn giá trị nhân sinh và trở nên tốt đẹp trong suy nghĩ của những người xung quanh mới thực sự quan trọng. Bởi vì, vẻ đẹp tâm hồn sẽ trường tồn dài lâu, bất tử so với sự tồn tại của thể xác.

2.2. Cảnh 2: Cu Tị và cái Gái ăn na trong vườn

* Mô tả và phân tích cảnh 2:

Ở cảnh thứ hai của đoạn kết, trong khu vườn lung linh ánh sáng, Cu Tị cùng ăn trái na với cái Gái trong vườn. Trong câu chuyện của hai đứa trẻ có bóng dáng Trương Ba, có tình yêu thương, kính trọng của cái Gái với người ông mà nó hết lòng yêu quí. Cái Gái kể về cây na “Cây na này, ông nội tớ trồng đấy! Quả to mà ngon lắm! Ta ăn chung nhé!”. Cây na với quả to và ngon là biểu tượng của những điều tốt đẹp mà Trương Ba để lại trên cuộc đời. Đôi bạn ăn chung quả na tượng trưng cho sự sẻ chia, đồng cảm, đó là những bài học vô cùng cao quý mà có lẽ chính Trương Ba đã dạy đứa cháu mà ông yêu thương. Lời thoại cho thấy trong kí ức của đứa cháu gái, ông nội vẫn hiền hậu, nghĩa tình và thân thương như ngày nào. Cái Gái sau đó đã gieo hạt na “Cho nó mọc thành cây mới”, để nó “nối nhau mà lớn lên mãi mãi” như lời dặn dung dị mà đầy ý nghĩa tốt đẹp của người ông đã mất.

* Ý nghĩa của cảnh 2:

Dấu chấm lửng giữa dòng được đặt cuối tác phẩm như rót vào lòng người những nỗi niềm thương nhớ, và cũng là sự đồng tình, đồng thuận với sự lựa chọn của hồn Trương Ba. Nếu như lúc trước, cái Gái nhất quyết không chịu nhận Trương Ba bên trong cái xác anh hàng thịt, thậm chí nó còn tỏ rõ thái độ căm ghét, xua đuổi ông. Thì giờ đây khi Trương Ba đã chấp nhận cái chết để trở về là chính mình, nó lại thể hiện sự thương yêu như nó đã yêu thương ông nội trước đây. Điều ấy một lần nữa nói lên chân lý của cuộc sống: Chỉ khi được sống làm chính mình, cuộc sống mới có ý nghĩa trọn vẹn. Không thể nào sống nương nhờ vào kẻ khác, vào những thứ không phải của chính mình.

Việc Trương Ba nhường mạng sống cho cu Tị  là thuận theo tự nhiên, giống như một chiếc lá vàng rụng xuống để mầm non mọc lên.Trương Ba chọn cái chết vì ông tin và muốn khẳng định những điều tốt đẹp sẽ còn mãi trên đời. Hạt na mà cái Gái gieo xuống chính là những điều tốt đẹp mà Trương Ba để lại cho cuộc đời. Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn mãi mãi cũng giống như cái đẹp sẽ tồn tại mãi trong cuộc đời. Trương Ba chết là để gieo mầm cho cái đẹp, cái thiện mãi sinh sôi, nảy nở giữa cõi đời. Ông không chỉ để lại những ký ức tốt đẹp mà còn là một tấm gương đạo đức sáng ngời cho con cháu, gieo vào lòng thế hệ sau những tư tưởng tốt đẹp để những giá trị tốt đẹp ấy tồn tại mãi về sau này.

  1. Đánh giá

Như vậy, hai phân cảnh kết thúc của vở kịch khẳng định một chân lý rằng con người ta không thể sống mà hồn một đằng, xác một nẻo được. Sống hoàn toàn, sống thật sự chỉ khi giữa xác và hồn có sự thống nhất biện chứng với nhau. Được sống làm người nhưng được sống đúng mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thật sự có ý nghĩa khi con người đc sống tự nhiên, hài hoà giữa thể xác và tâm hồn. Hạnh phúc của con người là chiến thắng được bản thân, chiến thắng sự dung tục, hoàn thiện được nhân cách và vươn tới những giá trị về tinh thần cao quý.

Trương Ba chết là để cuộc đời trở về với đúng quy luật tự nhiên. Ông chết nhưng đó cũng chính là một cách để được trở về đúng là mình, được “sống” một cách thực sự.  Khi sống trong xác hàng thịt ông bi người thân xa lánh. Khi chết ông được trở về là chính mình, là một người chồng, người cha, người ông hiền lành, sống trong sạch, thanh cao, giỏi chơi cờ, khéo léo và được người thân trân trọng, yêu quý như trước. Kết thúc ấy thể hiện chiến thắng của cái chân, thiện, mĩ, của các giá trị nhân văn trong cuộc đời. Trương Ba chết cả hồn lẫn xác, cát bụi trở về với cát bụi nhưng ông  nhận được kết thúc có hậu, ông vẫn cao khiết và trở nên bất tử trong lòng người thân.

Đoạn kết trong một vở kịch thương có vai trò mở nút nhưng đoạn kết trong tác phẩm này không chỉ thế mà còn là một khúc ca trữ tình, vừa có tính gợi mở, vừa thấm đẫm chất thơ và thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc. Với kết thúc như một bài ca ca ngợi sự sống, ca ngợi những điều tốt đẹp mà con người luôn vươn tới, Lưu Quang Vũ đã khắc sâu trong lòng chúng ta bài học của sự sống, của đạo đức và nhân cách, học được ý nghĩa của sự sống và cái chết khiến chúng ta tràn đầy niềm tin vào sự bất tử của cái đẹp, tin rằng cái đẹp sẽ mãi tồn tại, sinh sôi giữa cuộc đời. “Tác phẩm chân chính không chấm dứt ở trang cuối cùng”, mà sẽ còn lưu đọng mãi, gợi mở những ý nghĩa sâu xa trong lòng độc giả. Kết thúc “Hồn Trương Ba, da Hàng thịt” của nhà viết kịch nổi tiếng Lưu Quang Vũ là một kết thúc tác phẩm như thế.

  1. Liên hệ

Đoạn kết vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” đã để lại âm vang ngọt ngào trong tâm hồn bao người. Rõ ràng khát vọng được sống là chính mình, không vay mượn giả tạo, không cố tạo ra cái vỏ bọc cho mình để rồi chết đi trong hình hài của một bản sao dị dạng. Trong cuộc sống, có đôi lần ta ước mình giống một ai đó mà ta thần tượng, ta buồn bã, chán nản cho thực tại của ta rồi đổ lỗi cho số kiếp an bày. Nhưng ta quên rằng được sống là mình mới thực sự đáng quý. Mỗi người là một sắc màu, một mảnh ghép của cuộc đời. Mỗi người đem lại cho đời một ý nghĩa, hương sắc riêng biệt để khu vườn thêm muôn vẻ muôn màu. Đừng bao giờ để phai nhạt sắc hương mình rồi khoác lên mình sắc hương người mà mình vừa vay mượn. Có con ốc mượn hồn nào mà không chịu đớn đau?

 

Tham khảo thêm cách đánh giá khác về đoạn kết

* Nghệ thuật

Có thể nói, đây là một đoạn kết giàu chất thơ với ngôn từ tha thiết, thấm đẫm tình cảm và có dư ba bởi những hình ảnh tượng trưng về sự sống nảy nở ( “ vườn cây rung rinh ánh sáng, hai đứa trẻ cùng ăn quả na rồi gieo hạt na xuống đất cho nó mọc thành cây mới). Đó là khúc ca trữ tình ca ngợi sự sống, ca ngợi những giá trị nhân văn mà con người luôn phải vươn tới và gìn giữ.

* Đoạn kết góp phần thể hiện thông điệp của vở kịch:

+ Lưu Quang Vũ muốn phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ: con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu thô thiển.

+ Lấy cớ tâm hồn là quý đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Cả hai quan niệm cách sống trên đều cực đoan đáng phê phán.

+ Tình trạng con người phải sống giả không dám và cũng không được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.

– Qua màn kết, tác giả gửi gắm thông điệp về cuộc sống: sự sống thật sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên,hài hòa giữa thể xác và tâm hồn.

– Hạnh phúc của con người là chiến thắng được bản thân, chiến thắng sự dung tục, hoàn thiện được nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý. Không chỉ phục sinh lại những giá trị tốt đẹp của bản thân, Trương Ba còn trở nên bất tử trong suy nghĩ của tất cả những người thân bằng tình cảm nhớ thương, yêu quý.

KẾT LUẬN CHUNG

“Con người sinh ra không phải để tan biến đi như một hạt cát vô danh. Họ sinh ra để in dấu lại trên mặt đất, in dấu lại trong trái tim mọi người”. Nếu mỗi con người sinh ra để làm tròn nghĩa vụ ấy cho đến suốt cuộc đời thì Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) nhà biên kịch lớn của nền văn học Việt Nam đã làm lên điều ấy bằng tác phẩm “Hồn Trương Ba da hàng thịt”. Ông viết vở kịch có lẽ cũng là để trả lời cho câu thơ mình dường như đã bỏ ngỏ “Có những lúc tâm hồn tôi rách nát /… Tôi biết làm gì, tôi biết đi đâu?”. Tài năng xuất sắc của nhà soạn kịch Lưu Quang Vũ khiến vở kịch có sức lôi cuốn mạnh mẽ, gửi tới người đọc những thông điệp sâu sắc về cuộc sống. Những triết lí về cuộc đời, về con người, về xã hội… đặt ra trong vở kịch luôn có ý nghĩa với mọi người, mọi thời. Lưu Quang Vũ đã mãi mãi ra đi trong một tai nạn giao thông đầy thương tâm. Khoảng trống mà nhà viết kịch tài ba ấy để lại trong nền sân khấu kịch trường Việt Nam là không thể lấp đầy. Vở kịch cuối cùng được Lưu Quang Vũ đặt tên là Chim sâm cầm không chết. Với tất cả những gì để lại cho đời thì mãi mãi Lưu Quang Vũ thực sự không chết.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *