Đề trọng tâm thi TN 2022: Đề chuyên sâu đoạn thơ Tây Tiến – Quang Dũng

MỞ BÀI CHUNG

Quy luật của văn học là quy luật của cái đẹp và “quy luật của cái đẹp là quy luật của tình cảm. Vậy tình cảm chứ không phải bất kỳ yếu tố gì khác mới là ngọn nguồn sâu xa của cái đẹp. Mỗi tác phẩm nghệ thuật đính thực phải hướng con người tới cái đẹp bằng tình cảm của người nghệ sĩ. Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng là một minh chứng sáng giá cho quan niệm đó. Quang Dũng là người nghệ sĩ đa tài vừa viết văn, làm thơ lại biết cả vẽ tranh, soạn nhạc. Nhưng trước hết ông là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt là khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình. Có lẽ trong suốt cả đời của người nghệ sĩ tài hoa ấy những năm tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến là quãng thời gian đáng nhớ nhất, để lại những dấu ấn và tình cảm sâu đậm nhất. Và bao nhiêu kỉ niệm sâu sắc ấy đã được nhà thơ lưu giữ lại với thời gian trong một thi phẩm xuất sắc, được đánh giá là một trong những bài thơ hay nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp: “Tây Tiến” – bài thơ mang chứa gần như trọn vẹn những gì là đặc trưng nhất của hồn thơ Quang Dũng.

 

PHÂN TÍCH ĐOẠN THƠ

Đoạn số 1:

          Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.88)

MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

– Giới thiệu yêu cầu của đề bài:

THÂN BÀI

Khái quát

1.1. Hoàn cảnh sáng tác

– Giới thiệu đoàn binh Tây Tiến:

          +  Tây Tiến là phiên hiệu một đơn vị bộ đội thành lập năm 1947 (Đây là giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, theo tiếng gọi của Đảng, nhiều học sinh – sinh viên đã lên đường tham gia kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”).

+ Nhiệm vụ: Phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch và bảo vệ biên giới Việt – Lào.

+ Địa bàn hoạt động: Rộng. Bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa – Thượng Lào.

+ Thành phần: Phần đông là thanh niên Hà Nội (nhiều sinh viên, học sinh).

+ Điều kiện sống và chiến đấu: Gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật.

+ Tinh thần: Hào hùng, lãng mạn, lạc quan, yêu đời.

+ Đoàn binh Tây Tiến sau một thời gian hoạt động trở về Hòa Bình, thành lập trung đoàn 52.

– Hoàn cảnh sáng tác cụ thể : Hiện thực đời sống luôn là nguồn cảm hứng vô tận sáng tạo nên văn chương, người nghệ sĩ phải đứng vững trên mảnh đất đời sống, lấy đó làm điểm tựa, điểm xuất phát thì mới mong tạo ra được thứ gì đó để đời. Quang Dũng là là người lính, là một Đại đội trưởng trong đoàn binh Tây Tiến và ông đã bám vào hiện thực của cuộc kháng chiến gian khổ, của những kỉ niệm mà đời lính không thể quên, chắp cánh cảm xúc để cho ra đời tác phẩm để đời. Cuối năm 1948,  Quang Dũng phải chuyển đơn vị khác. Rời xa đoàn binh Tây Tiến chưa được bao lâu, khi kỉ niệm về Tây Tiến và hơi ấm đồng đội hầu như vẫn còn nguyên vẹn, tại Phù Lưu Chanh – một làng nhỏ bên bờ sông Đáy hiền hòa, ông nhớ về đơn vị cũ nên viết bài thơ này.

1.2. Xuất xứ và nhan đề:

           Nhan đề ban đầu của bài thơ là “Nhớ Tây Tiến” sau đổi thành “Tây Tiến” => Giúp cho tâm tư tình cảm của tác giả được bộc lộ kín đáo hơn.

Bài thơ được in trong tập thơ “Mây đầu ô” (1986).

1.3. Nội dung chính của bài thơ:

Cả bài thơ là nỗi nhớ của nhà thơ Quang Dũng về một thời Tây Tiến. Với tình cảm sâu nặng, cảm hứng vừa hiện thực vừa lãng mạn và ngòi  bút tài hoa, nhà thơ đã khắc họa bức tranh thiên nhiên Tây Tiến vừa hoang vu, dữ dội, hiểm trở vừa thơ mộng, duyên dáng, mĩ lệ. Trên cái nền thiên nhiên ấy là hình tượng những người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng, vừa dũng cảm, can trường vừa lãng mạn, hào hoa.

  1. Phân tích đoạn thơ: Bức tranh thiên nhiên miền Tây hoang vu, dữ dội, hiểm trở và chặng đường hành quân vất vả, gian khổ của những người lính Tây Tiến

2.1. Hai câu thơ đầu:

Hai câu thơ đầu thể hiện chủ đề và cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ bao trùm không gian, thời gian:  

                          Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !

                                    Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

– Bài thơ được bắt đầu bằng tên địa danh Sông Mã ở Thanh Hóa, con sông chảy dọc từ thượng Lào về đất Việt và nằm trong địa bàn hoạt động của những người lính Tây Tiến. Ngoài câu thơ mở đầu, hình ảnh con sông Mã còn được nhắc một lần nữa trong bài thơ “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” cho thấy con sông không còn là vật vô tri vô giác mà trở thành một chứng nhân lịch sử, chứng kiến biết bao vui buồn trong cuộc đời người chiến binh và chính dòng sông ấy, khi có một người lính ngã xuống đã gầm lên khúc nhạc ai oán, não nùng. Sông Mã vì thế trở thành một trong những biểu tượng về một thời Tây Tiến.

– “Sông Mã xa rồi”, một thời Tây Tiến đã xa rồi, đã trở thành quá khứ, trở thành những kỉ niệm không thể nào quên. Xa rồi mà vẫn nhớ, nhớ Tây Tiến, “nhớ về rừng núi” Tây Bắc là địa bàn hoạt động của Tây Tiến với bao gian nguy, hiểm họa nhưng cũng thật trữ tình, lãng mạn, nhớ đồng đội thân yêu nên nỗi nhớ ấy được bật lên thành tiếng gọi tha thiết như gọi người thân “Tây Tiến ơi”.

– Nỗi nhớ trở thành cảm xúc chủ đạo thể hiện rõ qua điệp từ “nhớ” được lặp lại hai lần trong một câu thơ thể hiện một nỗi nhớ trào dâng, da diết. Tất cả kỷ niệm giờ lại đang trở về trong cảm xúc nhớ thương đến mức tác giả không kìm nén được. Cụm từ “nhớ chơi vơi” càng thể hiện rõ hơn nỗi nhớ. Thơ ca Việt Nam nói về nỗi nhớ cũng nhiều, và mỗi nhà văn, nhà thơ thể hiện một nỗi nhớ khác nhau. Ca dao có câu thơ về nỗi nhớ người yêu:

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

Tố Hữu viết về nỗi nhớ của người cán bộ cách mạng miền xuôi với thiên nhiên và con người Việt Bắc:

“Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương”

Nhưng Quang Dũng trong bài thơ này đã diễn tả nỗi nhớ một cách đầy mới lạ “nhớ chơi vơi”. Chơi vơi là trạng thái chông chênh giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu cả nên “nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối và dường như nỗi nhớ đã nhấc bổng nhà thơ lên chơi vơi giữa không gian và thời gian. Việc láy lại vần “ơi” giữa chữ “ơi” cuối câu thơ thứ nhất với từ láy “chơi vơi” ở cuối câu thơ thứ hai tạo âm hưởng ngân dài, sâu lắng, gợi nỗi nhớ từ lòng người vọng vào thời gian, năm tháng.

2.2. Hai câu 3,4:

Hai câu thơ tiếp theo miêu tả những cuộc hành quân trong đêm sương.  miêu tả vẻ đẹp mờ ảo của núi rừng Tây Tiến mà những người lính Tây Tiến cảm nhận được trên đường hành quân:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

                              Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Với những nét vẽ vừa tài hoa vừa chân thực hai câu thơ làm hiện lên bức tranh thiên nhiên miền Tây heo hút, hùng vĩ, hiểm trở mà thơ mộng. Đó là những  đêm sương mờ ảo, bồng bềnh ở Sài Khao, Mường Lát mà không chỉ là màu sương của thiên nhiên che mất tầm mắt mà còn là màu sương mờ ảo của kí ức, hoài niệm.

+ Ở Sài Khao: Sương giăng mắc, bao phủ, che lấp tất cả là một nét vẽ vừa lãng mạn huyền ảo vừa hiện thực. Đoàn quân Tây Tiến đi trong sương mù dày đặc của núi rừng, hình ảnh họ như chìm đi, ẩn hiện trong lớp sương huyền ảo.Vế sau của câu thơ chỉ sử dụng bút pháp hiện thực khi miêu tả đoàn quân dãi dầu, mệt mỏi hiện ra sau màn sương. Đây là một chi tiết thể hiện rõ sự vất vả, gian khổ của những người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân giữa cái khắc nghiệt của thời tiết, khí hậu miền Tây.

+ Ở Mường Lát: Nếu như câu thơ trên nhà thơ đặc tả hoàn cảnh khắc nghiệt của thời tiết thì câu này lại phác họa vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên và tâm hồn người lính: “Đêm hơi” là cách sử dụng ngôn từ sáng tạo, mới mẻ chỉ một đêm sương bồng bềnh, huyền ảo. Quang Dũng quả thật tài tình trong việc sử dụng từ ngữ khi người ta nói hoa nở thì nhà thơ lại nói “hoa về”. Hoa về có thể chỉ những bông hoa rừng mà những người lính bắt gặp trong đêm hành quân, có thể chỉ những ngọn đuốc như những bông hoa lung linh, lộng lẫy, soi sáng đường hành quân nhưng cũng có thể đó là hình ảnh các cô gái dân tộc hoặc những nữ chiến sĩ quân y xinh đẹp mà người lính bất chợt bắt gặp trong đêm sương bồng bềnh khiến cảm xúc dâng trào. Có thể thấy người lính hành quân trong gian khổ nhưng tâm hồn lúc nào cũng luôn lạc quan, yêu đời làm bạn với hoa rừng, sương núi.

=> Hai câu thơ như hai nét vẽ tương phản thể hiện hai cực điểm nổi bật của mảnh đất miền Tây khắc nghiệt thật đấy nhưng thơ mộng đẹp đẽ vô cùng. Và có lẽ những người lính Tây Tiến hẳn phải tinh tế, lãng m

ạn lắm mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp của núi rừng nơi đây. Những khó khăn của hoàn cảnh sống không làm mất đi ở họ thế giới tâm hồn phong phú.

2.3. Câu thơ 5,6,7,8:

Những câu thơ tiếp theo của đoạn thơ gợi tả bức tranh thiên nhiên Tây Tiến hoang vu, dữ dội với dốc cao vực sâu và chặng đường hành quân vất vả của những người lính Tây Tiến:

                           Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

– Bằng những nét vẽ gân guốc, mạnh bạo, bút pháp tả thực nhà thơ Quang Dũng đã vẽ lên bức trạnh thiên nhiên Tây Tiến hoang vu, dữ dội, hiểm trở với dốc cao, vực sâu.  Những dốc núi miền Tây chập chùng, cao ngàn thước mà sâu cũng ngàn thước, dốc lên heo hút, dốc xuống thăm thẳm, lên cao thì cao tít tắp mà xuống thì khiến người ta chóng mặt vì một bên là dốc cao thẳng đứng một bên là vực thẳm không giới hạn, dốc núi lại gồ ghề, khúc khuỷu. Điệp từ “dốc” cho thấy thiên nhiên không còn là đối tượng để thưởng thức ngắm nhìn nữa mà là đối thủ, là sự thử thách hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt.

– Các biện pháp nghệ thuật khác như sử dụng các từ láy tạo hình khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút; sử dụng nhiều thanh trắc “dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” câu thơ có 7 chữ mà đã có tới 5 chữ là thanh trắc, có câu thơ gãy làm đôi “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” và nghệ thuật đối lập đã nhấn mạnh chiều cao, độ sâu, sự gồ ghề, khúc khuỷu của dốc núi.

– Bức tranh thiên nhiên đã gợi lên cả chặng đường hành quân đầy vất vả, gian khổ của những người lính Tây Tiến. Trên chặng đường hành quân họ phải trèo đèo, vượt suối băng rừng, phải vượt qua những đỉnh núi cao đến chạm trời, phải hành quân trong sương mù dày đặc, trong những trận mưa rừng. Đặc biệt, phép nhân hóa “súng ngửi trời” làm hiện lên hình ảnh  núi cao heo hút, trên chặng đường hành quân những người lính phải vượt qua những đỉnh núi cao đến chạm trời. Đây là còn là cách nói dí dỏm, đầy chất lính cho thấy những người lính trẻ giữa khó khăn, gian khổ vẫn tinh nghịch, hồn nhiên, yêu đời. Ý thơ cũng làm hiện nổi bật tầm cao kì vĩ của người lính cách mạng, làm chủ cả non sông đất nước của mình. Tư thế làm chủ ấy cũng được Tố Hữu thể hiện:

Núi không đè nổi vai vươn tới

Lá nguỵ trang reo với gió đèo

hoặc giống với ý của một câu ca dao trong kháng chiến:

“Đèo cao thì mặc đèo cao

Ta trèo lên đỉnh ta cao hơn đèo”

– Thiên nhiên Tây Bắc bên cạnh cái hoang vu, hùng vĩ, hiểm trở có những nét vẽ đầy thơ mộng trữ tình như câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được sử dụng toàn thanh bằng, nhịp thơ cũng chậm lại, âm điệu nhẹ nhàng diễn tả phút nghỉ chân hiếm hoi của người lính. Giữa lưng chừng dốc núi trên đường hành quân, những người lính phóng tầm mắt ra xa để thấy những ngôi nhà, bản làng của người dân tộc thấp thoáng, bồng bềnh sau màn mưa. Câu thơ là một nét vẽ mềm mại giữa những nét vẽ gân guốc, giống như việc sử dụng gam màu trong hội họa, giữa gam màu nóng tác giả sử dụng gam màu lạnh, làm dịu lại và tạo sự cân đối, hài hòa cho bài thơ.

2.4. Câu thơ 9,10:

Trên chặng đường hành quân chiến đấu những vất vả, gian khổ, hi sinh của những người lính Tây Tiến được tái hiện đậm nét:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!

Bằng bút pháp tả thực, nhà thơ Quang Dũng đã không ngại ngần khi nói đến những vất vả, gian khổ thậm chí là hi sinh của những người lính Tây Tiến. Từ trước đến nay hai câu thơ vẫn tồn tại hai cách hiểu:

+ Miêu tả một giấc ngủ: Một khoảnh khắc nghỉ ngơi của người lính. Sau chặng đường hành quân dốc tiếp dốc, vực tiếp vực, sự dãi dầu nắng gió, mệt mỏi khiến cho những người lính chỉ cần gục trên súng mũ, trong một tư thế không thoải mái mà vẫn có thể ngủ một giấc say sưa như chết.

+ Miêu tả sự hi sinh: Có thể vì dãi dầu nhiều nắng mưa, sương gió, vì căn bệnh sốt rét mà người lính Tây Tiến mệt mỏi đến kiệt sức, không thể bước tiếp, ngã xuống một cách thanh thản, nhẹ nhàng. Anh gục xuống khi đang hành quân, súng mũ vẫn bên mình, vẫn nghiêm trang trong hàng ngũ. Nghệ thuật nói giảm “không bước nữa”, “bỏ quên đời” thể hiện người lính hi sinh chỉ như đang chìm vào giấc ngủ sau khi hoàn thành nhiệm vụ của mình, giống như người nông dân:

Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng
Lòng khoẻ nhẹ anh dân quê sung sướng
Ngửa mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành

Tư thế hi sinh của anh vệ quốc quân chống Pháp đang trên đường hành quân  trong bài thơ gợi chúng ta liên tưởng đến tư thế hi sinh của anh giải phóng quân chống Mĩ trong bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân:

Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất

Nhưng anh gượng đứng lên

Tì súng trên xác trực thăng

Và anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng

Những sự hi sinh ấy đều là của những con người bình dị mà anh hùng. Chính họ đã góp phần hóa thân thành Đất nước và làm nên truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm:

Có biết bao người con gái con trai

Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm nên đất nước

2.5. Câu thơ 11,12:

Tiếp đó là bức tranh thiên nhiên Tây Tiến hoang vu, dữ dội và đầy bí hiểm:

                                 Chiều chiều oai linh thác gầm thét,

                                  Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

– Các từ láy “Chiều chiều”, “đêm đêm” chỉ quãng thời gian lặp đi lặp lại. Những âm thanh “thác gầm thét” và hình ảnh “cọp trêu người” là sự khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng từng được nhà thơ Thế Lữ miêu tả trong “Nhớ rừng”:

Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi

Thì ở đây được Quang Dũng miêu tả:

+ Vào các buổi chiều tiếng nước thác gầm thét. Chỉ một câu thơ ngắn mà gợi ra  những âm thanh dữ dội chẳng kém gì tiếng nước thác Sông Đà trong “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân. Âm thanh của thác nước vào buổi chiều khiến rừng núi trở nên dữ

dội và đầy bí hiểm, đáng sợ.

+ Vào ban đêm rừng núi Tây Tiến còn có cọp đe dọa tính mạng con người. Cái tài của Quang Dũng là nhà thơ đã sử dụng một loạt địa danh nhưng địa danh nào cũng đem lại sự thú vị cho người đọc. Không dưới mười địa danh được sử dụng nhưng đó không đơn thuần là sự liệt kê, kể lể mà mỗi địa danh đều khoác trên mình một tấm áo riêng, một điệu hồn riêng. Có những địa danh khi đọc lên đã thấy cái hiểm trở của núi rừng, có những địa danh đầy trữ tình thơ mộng, những cái tên này gợi ý niệm về sự xa ngái và hoang sơ… Ở mỗi địa danh Quang Dũng đều phát hiện và thể hiện đúng thần thái của nó. Dữ dội chỉ có Sài Khao, Mường Hịch… Nồng ấm tình người có Mường Lát, Mai Châu, Pha Luông… Riêng địa danh Mường Hịch trong câu thơ “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” được Vũ Quần Phương nhận xét hai chữ “hịch” và “cọp” và hai dấu nặng đặt giữa câu thơ gợi bước chân chúa sơn lâm đang đến gần, gợi sự ghê rợn của cái chết đang rình rập. Rõ ràng Quang Dũng không sử dụng địa danh một cách tùy hứng mà ông biết lựa chọn để tạo nên sức ám ảnh cho thơ. Và mỗi địa danh đã vượt qua tư cách là những tên gọi địa lí, ngấm vào nỗi nhớ nhà thơ, trở thành sợi thương sợi nhớ và chính điều đó đã làm “đất lạ hóa quê hương”.

– Chiều nối chiều, đêm tiếp đêm, thác thì “gầm thét”, cọp thì “trêu người” như để thử thách chí can trường các chiến binh Tây Tiến. Nhưng những nguy hiểm, đầy đe dọa ấy chắc chắn vẫn không đủ làm những người lính Tây Tiến nản lòng.

2.6. Câu thơ 13,14:

Trong khó khăn, gian khổ hi sinh, giữa núi rừng miền Tây đầu hoang vu dữ dội và hiểm trở nhưng cũng thơ mộng, lãng mạn vẻ đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến và tình quân dân thắm thiết được nhà thơ Quang Dũng gợi tả:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Nếu như ở những câu thơ trước ta đã cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến với sự lạc quan, yêu đời, dí dỏm, hồn nhiên qua hình ảnh “súng ngửi trời”, tâm hồn lãng mạn nên cảm nhận và thi vị hóa vẻ đẹp của thiên nhiên qua những câu

thơ như “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”… thì ở hai câu thơ này tâm hồn các chàng trai Tây Tiến lại dễ xúc động trước tình người ấm áp:

+ Thán từ “Nhớ ôi” xuất phát từ tình cảm sâu sắc, mãnh liệt, gợi bao bâng khuâng, vương vấn. Nhớ những kỉ niệm không thể phai mờ về tình quân dân thắm thiết.

+ Hình ảnh cơm lên khói gợi cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người lính tạm đừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó và nhận được sự đón tiếp nồng hậu của đồng bào địa phương, họ quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói và cảm nhận được tình người ấm áp nơi xứ lạ.

+ Mùi hương nếp xôi: Đến Mai Châu vào mùa lúa nếp người lính Tây Tiến cũng  cảm nhận tình được tình cảm mến thương và sự thơ mộng của vùng đất này qua hương thơm của nếp rừng. Hương thơm của tình mẹ, tình em ấy sẽ theo suốt dọc cuộc đời của người lính Tây Tiến. Cái đặc sắc nhất của câu thơ là ở hai chữ “mùa em”, đó là cách định danh, không gọi tên một mùa cụ thể như mùa xuân, mùa hạ, mùa đông, hay mùa thu mà gọi bằng ấn tượng là “mùa em”. Mùa là một đơn vị đo thời gian, em” là một chủ thể trữ tình. Sự kết hợp độc đáo này khiến mùa không còn là của thiên nhiên, đất trời mà đã trở thành mùa của niềm thương nỗi nhớ, mùa của trái tim người lính khi hướng về những bóng dáng thân thương, những tấm lòng thơm thảo.

Bữa xôi tỏa mùi hương trở thành những kỉ niệm không thể phai mờ cũng được nhà thơ Chế Lan Viên ghi nhớ mãi:

“Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch

Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương”

  1. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật:

Đoạn thơ đầu khắc họa một Tây Bắc dữ dội, hùng vĩ, mộng mơ, huyền ảo. Thiên nhiên ấy làm nền cho sự xuất hiện của những người lính Tây Tiến vừa hào hùng, phong trần lại vừa hồn nhiên, tươi trẻ. Họ không hề nhụt chí, chùn chântrước khó khăn, gian khổ. Bài thơ ngay từ đầu đã mang màu sắc lãng mạn, bi tráng. Bút pháp hiện thực kết hợp với lãng mạn mà nổi bật là cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái tôi tràn đầy tình cảm cảm xúc của nhà thơ. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu và phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và tuyệt mĩ. Một nét sáng tạo trong ngôn ngữ thơ  nữa là có những kết hợp từ độc đáo, mới lạ, tạo nghĩa mới hoặc sắc thái mới cho từ ngữ (ví dụ: nhớ chơi vơi, đêm hơi, súng ngửi trời, mưa xa khơi, Mai Châu mùa em …). Nghệ thuật sử dụng tên địa danh cũng là một nét đáng chú ý trong ngôn ngữ thơ.

Thiên nhiên miền Tây, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Hình ảnh con người miền Tây càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Chất lãng mạn còn được thể hiện chủ yếu cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho lí tưởng chung của cộng đồng, của toàn dân tộc. Từ đó, làm nổi bật hình tượng người lính vừa dũng cảm, can trường vừa lãng mạn, hào hoa.

 

Đoạn số 2:

          Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?

(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.88,89)

 

MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

– Giới thiệu yêu cầu của đề bài:

THÂN BÀI

1.Khái quát

1.1. Hoàn cảnh sáng tác

– Giới thiệu đoàn binh Tây Tiến:

          +  Tây Tiến là phiên hiệu một đơn vị bộ đội thành lập năm 1947 (Đây là giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, theo tiếng gọi của Đảng, nhiều học sinh – sinh viên đã lên đường tham gia kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”).

+ Nhiệm vụ: Phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch và bảo vệ biên giới Việt – Lào.

+ Địa bàn hoạt động: Rộng. Bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa – Thượng Lào.

+ Thành phần: Phần đông là thanh niên Hà Nội (nhiều sinh viên, học sinh).

+ Điều kiện sống và chiến đấu: Gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật.

+ Tinh thần: Hào hùng, lãng mạn, lạc quan, yêu đời.

+ Đoàn binh Tây Tiến sau một thời gian hoạt động trở về Hòa Bình, thành lập trung đoàn 52.

– Hoàn cảnh sáng tác cụ thể : Hiện thực đời sống luôn là nguồn cảm hứng vô tận sáng tạo nên văn chương, người nghệ sĩ phải đứng vững trên mảnh đất đời sống, lấy đó làm điểm tựa, điểm xuất phát thì mới mong tạo ra được thứ gì đó để đời. Quang Dũng là là người lính, là một Đại đội trưởng trong đoàn binh Tây Tiến và ông đã bám vào hiện thực của cuộc kháng chiến gian khổ, của những kỉ niệm mà đời lính không thể quên, chắp cánh cảm xúc để cho ra đời tác phẩm để đời. Cuối năm 1948,  Quang Dũng phải chuyển đơn vị khác. Rời xa đoàn binh Tây Tiến chưa được bao lâu, khi kỉ niệm về Tây Tiến và hơi ấm đồng đội hầu như vẫn còn nguyên vẹn, tại Phù Lưu Chanh – một làng nhỏ bên bờ sông Đáy hiền hòa, ông nhớ về đơn vị cũ nên viết bài thơ này.

1.2. Xuất xứ và nhan đề:

           Nhan đề ban đầu của bài thơ là “Nhớ Tây Tiến” sau đổi thành “Tây Tiến” => Giúp cho tâm tư tình cảm của tác giả được bộc lộ kín đáo hơn.

Bài thơ được in trong tập thơ “Mây đầu ô” (1986).

1.3. Nội dung chính của bài thơ:

Cả bài thơ là nỗi nhớ của nhà thơ Quang Dũng về một thời Tây Tiến. Với tình cảm sâu nặng, cảm hứng vừa hiện thực vừa lãng mạn và ngòi  bút tài hoa, nhà thơ đã khắc họa bức tranh thiên nhiên Tây Tiến vừa hoang vu, dữ dội, hiểm trở vừa thơ mộng, duyên dáng, mĩ lệ. Trên cái nền thiên nhiên ấy là hình tượng những người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng, vừa dũng cảm, can trường vừa lãng mạn, hào hoa.

  1. Phân tích đoạn thơ: Những kỉ niệm đẹp về một thời Tây Tiến

2.1. Khái quát về đoạn thơ

          – Mạch cảm xúc của bài thơ là mạch cảm xúc, tâm trạng của tác giả. Bài thơ được viết ra từ nỗi nhớ da diết của Quang Dũng , nhớ thiên nhiên Tây Tiến, nhớ chặng đường hành quân vất vả, gian khổ, nhớ đồng đội thân yêu, nhớ những người đã cùng vào sinh ra tử. Bài thơ là những kí ức được tái hiện một cách tự nhiên, kí ức này gợi kí ức khác, kỉ niệm này gợi kỉ niệm khác như những con sóng nối tiếp nhau. Nếu đoạn thơ trước bằng những nét vẽ gân guốc, mạnh bạo Quang Dũng đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên Tây Tiến hoang vu, dữ dội hiểm trở, tái hiện chặng đường hành quân vất vả, gian khổ của những người lính Tây Tiến thì ở đoạn thơ gồm 8 câu này bằng những nét vẽ mềm mại, uyển chuyển, bút pháp lãng mạn, tài hoa nhà thơ đã tái hiện những kỉ niệm đẹp trong cuộc đời người chiến binh và vẽ lên bức tranh thiên nhiên Tây Tiến duyên dáng, mĩ lệ và lãng mạn.

Đoạn thơ được chia làm hai phần rõ nét. Bốn câu thơ đầu là một đêm liên hoan trong doanh trại. Bốn câu thơ sau là thiên nhiên Tây Tiến trong buổi chiều sương hành quân qua Châu Mộc.

2.2. Bốn câu thơ đầu của đoạn thơ là kỉ niệm về một đêm liên hoan trong doanh trại:

                               Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.

          –  Chất tài tử, tài hoa và lãng mạn của những chàng lính chiến được thể hiện rõ trong những câu thơ miêu tả đêm liên hoan trong doanh trại. Địa bàn hoạt động của những người lính Tây Tiến rất rộng, hành quân di chuyển thường xuyên nên đó có thể là doanh trại mới được dựng tạm trên chặng đường hành quân chiến đấu.

– Chữ “bừng” là một nét vẽ có thần. “Bừng” là sáng bừng lên, là tưng bừng, nhộn nhịp. Cả doanh trại “bừng sáng”, tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh vật, cả con người đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực.

– Hai chữ “kìa em” và cụm từ “tự bao giờ” thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vừa mê say, vui sướng. Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái nơi núi rừng miền Tây bất ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy, e thẹn, dịu dàng, tình tứ trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ đã thu hút cả hồn vía những chàng trai Tây Tiến.

– Đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến còn có đồng bào địa phương đến góp vui. Bởi vậy, đây còn là những câu thơ thắm tình quân dân, quân dân tựa như cá với nước, tựa như con một nhà. Tình cảm quân dân thắm thiết với không khí tưng bừng, nhộn nhịp cũng được nhà thơ Hoàng Trung Thông miêu tả chân thực:

“Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cười rộn ràng xóm nhỏ”

– Cảm hứng lãng mạn, bay bổng của đoạn thơ còn được thể hiện rõ hơn qua câu thơ “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Đêm liên hoan diễn ra trong doanh trại nằm ở vùng giáp ranh biên giới Việt- Lào nên âm thanh réo rắt của tiếng khèn, tiếng nhạc vang vọng, bay về tận Viên Chăn. Đêm liên hoan “xây hồn thơ” trong tâm hồn những người lính trẻ nên tâm hồn họ cũng bay bổng, phiêu diêu theo tiếng khèn, tiếng nhạc.

=> Nhìn chung, bốn câu thơ về đêm liên hoan trong doanh trại là những câu thơ đầy chất thơ, chất nhạc và thể hiện rõ hồn thơ Quang Dũng tài hoa, hồn hậu và phóng khoáng.

3.3. Bốn câu thơ sau của đoạn thơ là kỉ niệm về một buổi chiều sương hành quân qua Châu Mộc:

                     Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?

          – Bốn câu thơ là nỗi nhớ sâu đậm của những người lính Tây Tiến về bức tranh thiên nhiên miền Tây được cảm nhận trên đường hành quân qua Châu Mộc. Trong đó, câu thơ thứ nhất gợi cả không gian và thời gian. Thời gian là vào một buổi chiều, không gian thì  bảng lảng sương khói. Buổi chiều ấy có sương giăng mắc, bao phủ khắp các bãi bờ làm bức tranh cảnh vật có phần mờ nhòe, nhạt nhòa. Sự mờ nhòe, nhạt nhòa  ấy không chỉ bởi màn sương bao phủ mà còn bởi màn sương của kí ức, hoài niệm. Nhưng cũng vì thế mà cảnh vật trở nên mềm mại và có hồn hơn, hư ảo như trong một bức tranh thủy mặc.

– Ba câu thơ còn lại miêu tả cảnh sông nước miền Tây. Cảnh sông nước mênh mông với bến bờ cỏ lau hoang dại đượm màu cổ tích. Hình ảnh hoa lau gợi nét đặc trưng của thiên nhiên rừng núi. Cái hay của đoạn thơ là ở chỗ nó không chỉ vẽ lên được bức tranh cảnh vật mà còn gợi được cả cái hồn của cảnh vật. Lau dại không còn vô tri vô giác mà dường như có linh hồn, gợi được cái hồn của bức tranh cảnh vật hoang dại mà thơ mộng, đáng yêu. Hồn lau trong thơ Quang Dũng là hồn lau của li biệt, có phảng phất chút buồn và đầy nỗi nhớ nhung, lưu luyến, bịn rịn.Trong thơ ca, lau cũng thường mang ý niệm của của nỗi buồn thương xa vắng, mênh mông:

“Người đi phơ phất hồn lau gió

Thổi trắng chân trời như khói pha”

(Hoàng Hữu)

=>Bút pháp chấm phá tinh tế: không gian sông nước rộng lớn, cảnh thì thưa thớt, thấp thoáng bóng người, bóng hoa và trong gió trong cây như có linh hồn của vạn vật.
– Điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như khắc chạm vào lòng người một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Câu thơ “Có nhớ dáng người trên độc mộc” làm bức tranh cảnh vật hoang sơ xuất hiện hình ảnh con người. Dáng người trên độc mộc ở đây có thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái đang đưa các chiến sĩ vượt sông. Cũng có thể hiểu là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt thác dữ trên đường hành quân. Hình ảnh ấy tạo thêm một nét đẹp rắn rỏi, khoẻ khoắn cho bức tranh thiên nhiên thơ mộng, mềm mại.

– Câu thơ cuối sử dụng nghệ thuật đối lập: “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Đó là sự đối lập giữa cái dữ dội của thiên nhiên là dòng nước lũ với cái mềm mại, dịu dàng của bông hoa rừng. Từ láy “đong đưa” được sử dụng rất gợi. Không phải “đung đưa” mà là “đong đưa” – gợi hình ảnh bông hoa đang đong đưa, dập dềnh làm duyên làm dáng trên dòng nước lũ. Người và hoa như họa thêm vẻ đẹp cho nhau làm nên một bức họa thật lãng mạn mà cũng thật hào hùng.

  1. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật

Với bút pháp nghệ thuật và cảm hứng lãng mạn, ngôn ngữ giàu chất nhạc, chất họa, cách sử dụng ngôn từ sáng tạo, tài hoa nhà thơ Quang Dũng đã dẫn dắt người đọc bước vào thế giới của cái đẹp, của cõi mơ, của những giây phút bình yên, thư thái trong tâm hồn. Bốn câu thơ đầu như nhạc điệu được cất lên từ tâm hồn đang ngây ngất, say mê. Trong bốn câu thơ sau chất hội họa được thể hiện đậm nét khi nó không chỉ vẽ lên bức tranh thiên nhiên đẹp, gợi cảm mà còn gợi được cả cái hồn của bức tranh cảnh vật. Chất nhạc và chất họa kết hợp với nhau khiến những kỉ niệm về một thời Tây Tiến trở nên sống động, lãng mạn. Đoạn thơ cho thấy sự gắn bó của nhà thơ với một thời Tây Tiến. cho thấy tâm hồn đầy lãng mạn, hào hoa của người lính Tây Tiến trong một thời kì lịch sử hào hùng của dân tộc.

 

Đoạn số 3:

          Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Tây Tiến người đi không hẹn ước,
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.89)

 

MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

– Giới thiệu yêu cầu của đề bài:

THÂN BÀI

1.Khái quát

1.1. Hoàn cảnh sáng tác

– Giới thiệu đoàn binh Tây Tiến:

          +  Tây Tiến là phiên hiệu một đơn vị bộ đội thành lập năm 1947 (Đây là giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, theo tiếng gọi của Đảng, nhiều học sinh – sinh viên đã lên đường tham gia kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”).

+ Nhiệm vụ: Phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch và bảo vệ biên giới Việt – Lào.

+ Địa bàn hoạt động: Rộng. Bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa – Thượng Lào.

+ Thành phần: Phần đông là thanh niên Hà Nội (nhiều sinh viên, học sinh).

+ Điều kiện sống và chiến đấu: Gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật.

+ Tinh thần: Hào hùng, lãng mạn, lạc quan, yêu đời.

+ Đoàn binh Tây Tiến sau một thời gian hoạt động trở về Hòa Bình, thành lập trung đoàn 52.

– Hoàn cảnh sáng tác cụ thể : – Hoàn cảnh sáng tác cụ thể : Hiện thực đời sống luôn là nguồn cảm hứng vô tận sáng tạo nên văn chương, người nghệ sĩ phải đứng vững trên mảnh đất đời sống, lấy đó làm điểm tựa, điểm xuất phát thì mới mong tạo ra được thứ gì đó để đời. Quang Dũng là là người lính, là một Đại đội trưởng trong đoàn binh Tây Tiến và ông đã bám vào hiện thực của cuộc kháng chiến gian khổ, của những kỉ niệm mà đời lính không thể quên, chắp cánh cảm xúc để cho ra đời tác phẩm để đời. Cuối năm 1948,  Quang Dũng phải chuyển đơn vị khác. Rời xa đoàn binh Tây Tiến chưa được bao lâu, khi kỉ niệm về Tây Tiến và hơi ấm đồng đội hầu như vẫn còn nguyên vẹn, tại Phù Lưu Chanh – một làng nhỏ bên bờ sông Đáy hiền hòa, ông nhớ về đơn vị cũ nên viết bài thơ này.

1.2. Xuất xứ và nhan đề:

           Nhan đề ban đầu của bài thơ là “Nhớ Tây Tiến” sau đổi thành “Tây Tiến” => Giúp cho tâm tư tình cảm của tác giả được bộc lộ kín đáo hơn.

Bài thơ được in trong tập thơ “Mây đầu ô” (1986).

1.3. Nội dung chính của bài thơ:

Cả bài thơ là nỗi nhớ của nhà thơ Quang Dũng về một thời Tây Tiến. Với tình cảm sâu nặng, cảm hứng vừa hiện thực vừa lãng mạn và ngòi  bút tài hoa, nhà thơ đã khắc họa bức tranh thiên nhiên Tây Tiến vừa hoang vu, dữ dội, hiểm trở vừa thơ mộng, duyên dáng, mĩ lệ. Trên cái nền thiên nhiên ấy là hình tượng những người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng, vừa dũng cảm, can trường vừa lãng mạn, hào hoa.

  1. Phân tích đoạn thơ: Bức tượng đài tập thể về đoàn binh Tây Tiến

2.1. Khái quát về đoạn thơ

          – Bài thơ được chia làm bốn đoạn, trong đó đoạn thơ thứ nhất và thứ hai chính là cái nền để làm nổi bật vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến ở đoạn thơ này. Cảm hứng chủ đạo trong đoạn thơ là cảm hứng bi tráng. Bi có nghĩa là buồn, cái bi cái buồn trong đoạn thơ được thể hiện khi nói nhiều đến những khó khăn, gian khổ, mất mát, hi sinh. Tuy nhiên ở đây cái bi cái buồn không gợi nên cảm giác đau thương, tang tóc trái lại còn gợi sự hào hùng, hùng tráng. Bởi vậy nên đọc đoạn thơ, mỗi khi người đọc cảm thấy sắp bị rơi vào, chìm xuống trong sự bi thương thì lại được nâng lên bởi đôi cánh của lí tưởng và cảm xúc lãng mạn. Có thể nói cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng đài về những người lính Tây Tiến, chúng hoà quyện, nâng đỡ nhau tạo nên vẻ đẹp bí tráng.

2.2. Hai câu đầu: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

                                 Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

 Ngoại hình của những người lính Tây Tiến

Hai câu thơ trước hết là nét tả ngoại hình của những người lính Tây Tiến với  hai nét tả là đầu trọc, da xanh đều là di chứng của căn bệnh sốt rét và hiện thực là cả một đoàn quân đầu trọc, da xanh. Thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp khi viết về người lính cũng  thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài Đồng chí đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”

Tố Hữu, khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài “Cá nước” cũng không quên ảnh hưởng của thứ bệnh quái ác đó:

“Giọt giọt mồ hôi rơi

Trên má anh vàng nghệ”

Quang Dũng trong Tây Tiến không hề che giấu những gian khổ, khó khăn cửa người lính. Chỉ có điều, tất cả qua ngòi bút của ông trở nên vừa hiện thực vừa lãng mạn. Những cái đầu không mọc tóc của những người lính Tây Tiến đâu phải là hình ảnh ly kì, giật gân, sản phẩm của trí tưởng tượng xa rời thực tế của nhà thơ mà chứa dựng một sự thực nghiệt ngã. Những người lính Tây Tiến phải hoạt động ở chốn rừng thiêng nước độc, ở đó có những con suối “Rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc”, có người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh nhau giáp lá cả với địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc, trọc đầu. Đâu còn vẻ lịch lãm, thư sinh của những chàng trai tiểu tư sản của đất Tràng An ngàn năm văn hiến. Nhưng đó chính là quy luật tất yếu của chiến tranh như Chính Hữu cũng từng miêu tả trong bài thơ “Ngày về”:

“Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa”

Nhưng điều đáng chú ý là đầu trọc, da xanh dù trông có xấu xí, tiều tụy nhưng những người lính Tây Tiến vẫn không thấy mình xấu, tiều tụy mà trái lại họ thấy mình oai phong, dữ dằn như chúa sơn lâm ở chốn nơi rừng thiêng. Người lính Tây Tiến “dữ oai hùm” là mạnh mẽ làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt, đạp bằng mọi gian khổ để chiến đấu. Mượn hình ảnh con hổ để nói đến khí thế và sức mạnh dân tộc cũng là một cách nói truyền thống trong thơ ca: “Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu” (Phạm Ngũ Lão), “Tỳ hổ ba quân – Giáo gươm sáng chói” (Trương Hán Siêu). Ngoài ra, cách nói “không mọc tóc” chứ không phải “không mọc được tóc” cũng thể hiện khẩu khí kiêu hùng, ngang tàng, sự chủ động của người lính trước mọi hoàn cảnh.

2.3. Hai câu thơ tiếp theo: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Vẻ đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến

– Quang Dũng đã dùng những hình ảnh rất hiện thực để tô đậm vẻ đẹp phi thường

của những người lính. Hai chữ “Mắt trừng” gợi nhiều liên tưởng: “mắt trừng” là mắt mở to, dữ dội, ngùn ngụt ý chí nhìn thẳng về phía kẻ thù với chí khí mạnh mẽ, dám thề sống chết. Đôi mắt mở to, luôn nâng cao tinh thần cảnh giác để bảo vệ đất nước. Đôi mắt ấy “gửi mộng qua biên giới” – mộng giết giặc lập công, mộng hòa bình, độc lập, không chỉ vì độc lập tự do của đất nước mình mà còn vì độc lập tự do của nước bạn Lào.

– Tưởng chừng trong gian khổ hy sinh, người lính Tây Tiến không còn thời gian để mà mơ mộng, ấy vậy vẫn mơ mộng, vẫn không hề mất đi sự hào hoa của những chàng trai Hà Nội. Câu thơ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” trước đây bị phê phán là “buồn rớt”, “mộng rớt” tiểu tư sản. Nhưng người lính Tây Tiến vốn xuất thân từ học sinh, sinh viên Hà Nội, họ ra đi từ những mái trường, giảng đường nên tâm hồn đầy mơ mộng. Họ vẫn dành những giờ phút thảnh thơi, thư thái để nhớ về một Hà Nội ngàn năm văn hiến với những cô gái xinh đẹp, yêu kiều. Lãng mạn như vậy giữa một hoàn cảnh khắc nghiệt không phải là buồn rớt, mộng rớt mà chính là biểu hiện của một bản lĩnh phi thường. Chính cảm xúc lãng mạn ấy đã cân bằng tâm hồn họ giữa những nghiệt ngã chiến tranh, đã tiếp thêm sức mạnh để họ thực hiện lí tưởng cao đẹp của mình.

Thơ ca kháng chiến chống Pháp cũng đã khắc họa bao nỗi nhớ như thế. Nếu như những người lính nông dân ra đi là nhớ ruộng đồng, nhớ : “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” (Đồng chí). Nhớ về người vợ trẻ:

“Ba năm rồi gửi lại mái lều tranh

Luống cày đất đỏ

Tiếng mõ đêm trường

Ít nhiều người vợ trẻ

Mòn chân trên cối gạo canh khuya”

(Nhớ – Hồng Nguyên)

 

…. Từ chiến khu xa

Nhớ về ái ngại

Lấy chồng thời chiến binh

Mấy người đi trở lại

Nhỡ khi mình không về

thì thương

người vợ chờ

bé bỏng chiều quê…

(Màu tím hoa sim – Hữu loan)

Câu thơ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” đã thể hiện chất tài tử, hào hoa của người lính Tây Tiến. Thời gian và độc giả hơn nửa thế kỉ qua đã khẳng định cái hay riêng của thơ Quang Dũng vì nó góp phần làm phong phú thêm chân dung anh bộ đội Cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp.

2.4. Hai câu thơ tiếp theo:Rải rác biên cương mồ viễn xứ

                                           Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Sự hi sinh và lí tưởng cao đẹp của những người lính Tây Tiến

Nhà thơ Quang Dũng đã nhìn thẳng vào sự khốc liệt của chiến tranh, không né tránh hiên thực miêu tả về cái chết. Viết về cái chết của người lính trên dọc đường hành quân và chiến đấu, tác giả đã sử dụng những từ ngữ được sắp xếp theo chiều tăng tiến của sự bi thảm: đã “rải rác”, lại rải rác tận nơi biên cương, tận vùng rừng núi xa xôi hẻo lánh, rải rác tận nơi viễn xứ, thậm chí tận nơi nước người. Những người lính Tây Tiến nằm lại nơi chiến trường rất nhiều, những nấm mồ sơ sài, vội vã nằm rải rác khắp biên thùy. Những ngôi mộ sơ sài như thế cũng được nhà thơ Hoàng Lộc nhắc tới trong bài “Viếng bạn”:

Ở đây không gỗ ván

Vùi anh trong tấm chăn

Của đồng bào Cửa Ngăn

Tặng tôi ngày phân tán

Từng chữ, từng từ đều xoáy sâu vào xót thương của người đọc. Nếu tách riêng câu thơ này ra, người đọc dễ mủi lòng dễ rơi vào trạng thái bi lụy như câu thơ trong “Chinh phụ ngâm”:

Hồn tử sĩ gió ù ù thổi

Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi

Đoạn thơ tưởng sắp rơi vào đau thương bi lụy thì ngay sau đó được nâng lên bởi lí tưởng cao đẹp. Những người lính khi ra đi đều biết rằng rất có thể họ cũng sẽ phải nằm lại nơi núi rừng như bao nhiêu đồng đội đã ngã xuống. Nhưng vì lí tưởng cao đẹp họ sẵn sàng hi sinh cuộc đời và tuổi thanh xuân của mình cho đất nước. Hơn nữa, nói về sự hi sinh của những người lính Tây Tiến nhà thơ Quang Dũng đã sử dụng nhiều từ Hán Việt như biên cương, chiến trường, viễn xứ. Đó là cách nhà thơ trang trọng hóa sự hi sinh của những người lính Tây Tiến, là sự kính cẩn nghiêng mình của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội, biến những nấm mồ nơi rừng sâu hoang lạnh thành những mộ chí thiêng liêng.

Câu thơ của người lính viết về những đồng đội đã ngã xuống đượm vẻ ngậm ngùi thành kính. Sau này trong bài thơ “Sông Lào”, Chế Lan Viên cũng nói về sự hi sinh của những người con ưu tú khắp mọi miền quê thành nghìn nấm mộ với bao xúc động, nghẹn ngào:

“Tôi qua những con sông Lào đâu chỉ uống vào thơ

Gặp nghìn nấm mộ
Và trăm bản Lào bom Mĩ đốt ra tro!
Ngủ lại Xê-băng-hiên chàng trai nhỏ đất sông Hồng
Ngủ lại Xê-băng-phai là chàng Phú Thọ
Bóng khộp, bóng bằng lăng che mình thay bóng cọ.
Chàng trai Nghĩa Bình ngủ ở Xê – kông
Nén hương thơm lẫn với hương rừng
Những cô gái Lào đến thăm phần mộ
Các anh chưa từng cầm tay và múa lăm – vông…”

Đúng là “Có cái chết hóa thành bất tử” (Tố Hữu). Nhiều nhà thơ Việt Nam, trong đó có Quang Dũng đã viết nên những bài ca nói lên ý chí chiến đấu quả cảm và sự hi sinh oanh liệt của người chiến sĩ Vệ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh.

2.5. Hai câu thơ tiếp theo: Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Sự tiếc thương vô hạn trước sự hi sinh của những người lính Tây Tiến

Với câu thơ “Áo bào thay chiếu anh về đất”, Quang Dũng khắc tả tinh thần của những người lính giống như người phu tráng sĩ thời xưa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Ngày xưa, người tráng sĩ chọn cái chết hiên ngang nơi trận mạc với da ngựa bọc thây và coi đó là vinh quang tột đỉnh:

“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao”

Còn chiến sĩ Tây Tiến thì chỉ cần “áo bào thay chiếu anh về đất.”  Cách nói “áo bào thay chiếu” là cách nói bi tráng hóa, tráng lệ hóa sự hi sinh của người lính. Áo bào là từ Hán Việt chỉ áo của vua hoặc của khanh tướng nhưng ở đây nó chỉ chiếc áo lính. Những người lính khi ngã xuống không cần có cả manh chiếu bọc thân chỉ cần chiếc áo đơn sơ vẫn mặc hàng ngày, các anh đã có thể thanh thản trở về với đất mẹ. “Anh về đất” là cách nói giảm, nói tránh đi cái chết làm câu thơ bi mà không lụy.

– Đối với những người lính cái chết đơn giản chỉ là “ngủ quên đời”, “anh về đất” nhưng có cái chết nào, có sự hi sinh nào lại không gây nên sự bi thương. Con sông Mã, chứng nhân của lịch sử, đã chứng kiến sự hi sinh của những người lính Tây Tiến. Nó gầm lên giống như một con chiến mã trung thành, đau thương khi chứng kiến cái chết của người bạn đồng hành. Dòng sông như cất lên một khúc tráng ca đưa người lính về với đất với bao tiếc thương, ngậm ngùi. Chỉ bằng âm thanh ấy, Quang Dũng đã truyền dược vào câu thơ tất cả cái bi tráng của sự hi sinh và nỗi đau xót trong lòng người chiến sĩ khi phải vĩnh biệt đồng đội. Trong âm hưởng dữ dội, hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết của người lính không bi luỵ mà thấm đẫm chất anh hùng của thời đại.

2.6. Bốn câu thơ cuối: Khẳng định chất lí tưởng sâu sắc

          Bốn câu thơ cũng là lời kết luận cho cả bài thơ, khẳng định chất lí tưởng sâu sắc của những người lính Tây Tiến. Nhịp thơ chậm giọng thơ buồn nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn là sự hào hùng. Trong đó, hai câu thơ sau là lời khẳng định  ra đi không hẹn ngày trở về:

 

                    Tây Tiến người đi không hẹn ước

                              Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Cách mạng tháng tám thành công, lịch sử dân tộc bước sang một giai đoạn mới là kỉ nguyên độc lập, tự do cho đất nước. Nhưng bọn thực dân Pháp quay trở lại xâm lược. Năm 1946 Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng định “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Hưởng ứng lời kêu gọi ấy, tiếng kèn sông núi vang dậy khắp non sông, cả nước quyết tâm chống thực dân Pháp với tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Ra đi không hẹn ngày về trở thành tinh thần chung của cả thời đại được thể hiện rõ qua lời một ca khúc của Phan Huỳnh Điểu “Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi /Là có mong chi đâu ngày trở về/ ra đi, ra đi báo cừu sông núi/ Ra đi, ra đi thà chết không lui”. Nợ nước, nợ non sông thôi thúc các chàng trai lên đường:

Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa

Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng

Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng

Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm

Cổ nhân từng nói “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi!”. Từ xưa đến nay mấy người đi chiến trận mà hẹn được ngày trở về. Khi xưa, tráng sĩ Kinh Kha chia tay thái tử Yên Đan bên bờ sông Dịch Thủy để sang đất Tần cũng xác định tinh thần “nhất khứ bất phục hoàn”:

“Gió hiu hiu hề

Nước sông Dịch lạnh ghê

Tráng sĩ một đi không hẹn về”

Do hoàn cảnh lịch sử quá ngặt nghèo, cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn đầu chẳng khác nào lấy trứng chọi đá, đòi hỏi phải lấy tính mạng để đổi độc lập tự do. Nên những người lính Tây Tiến cũng một tinh thần ấy, ra đi là cũng không hẹn ngày trở về, ra đi là xác định chia phôi. Ý thơ đã lột tả lí tưởng chiến đấu cao cả của anh bộ đội cụ Hồ, làm nổi bật phẩm chất yêu nước, anh hùng của họ.

          Bài thơ khép lại bằng hai câu thơ thể hiện sự gắn bó máu thịt của những người lính với một thời Tây Tiến:

                      Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

                               Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi

Hai câu thơ một lần nữa tô đậm thêm tinh thần thời đại, tinh thần chung của người lính Tây Tiến. Đại từ “ai” phiếm chỉ nhưng rõ ràng là chỉ những người lính Tây Tiến. Mùa xuân ấy là mùa xuân năm 1947, khi những người lính lên đường lên Tây Tiến nhưng cũng có thể mùa xuân ở đây là chỉ tuổi thanh xuân. Những người lính Tây Tiến ra đi vào mùa xuân năm ấy khi tuổi đời còn rất trẻ, đang tràn đầy sức sống, khát vọng và lí tưởng cao đẹp. Họ ra đi chiến đấu là vì một mùa xuân cho đất nước.

Trong câu thơ cuối, Sầm Nứa là tên địa danh của nước bạn Lào, nằm trong địa bàn hoạt động của đoàn binh Tây Tiến. Có lẽ, nhà thơ đang thể hiện một tâm nguyện âm thầm mà thuỷ chung, son sắt của tất cả những “ Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy” bởi trong lòng họ, thời gian gắn bó với trung đoàn, với miền Tây từ “ mùa xuân ấy” là khoảng thời gian quý giá nhất trong cuộc đời, khoảng thời gian vời vợi nhớ thương. Dù có thể chia xa nhưng tâm hồn những người lính sẽ mãi đi về với miền Tây, với những Sầm Nứa, Pha Luông, Mường Hịch,..những vùng đất xa xôi đong đầy kỉ niệm với đồng đội, với trung đoàn Tây Tiến trong những năm tháng gian khổ hào hùng vì như chế Lan Viên đã đúc kết:

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn

Cũng có thể hiểu nhà thơ đang xót xa, ngậm ngùi khi nhắc đến những đồng đội đã vĩnh viễn nằm lại những nấm mồ cô đơn nơi miền viễn xứ. Họ đã lên Tây Tiến mùa xuân ấy, đã chiến đấu kiên cường, đã hi sinh dũng cảm, linh hồn và thân xác họ đã vĩnh viễn ở lại với miền Tây, vẫn theo đồng đội trên chặng đường hành quân, chiến đấu.

  1. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật

Với bút pháp nghệ thuật vừa hiện thực vừa lãng mạn, cách sử dụng ngôn từ sáng tạo, tài hoa nhà thơ Quang Dũng. Hình ảnh thơ khá đa dạng và được sáng tạo bằng nhiều bút pháp khác nhau, tạo nên sắc thái thẩm mĩ phong phú. Mỗi loại hình ảnh  cũng lại có hai dạng chính, tạo nên hai sẳc thái thẩm mĩ phối hợp, bổ sung cho nhau, ở đoạn thơ này là hình ảnh người lính hiện ra với nhiều vẻ đẹp khác nhau, mà vẻ đẹp nổi bật là hào hùng và hào hoa. Đoạn thơ vừa có thứ ngôn ngữ trang trọng, có màu sắc cổ kính nhất là ở đoạn miêu tả trực tiếp hình ảnh người lính Tây Tiến và sự hi sinh bi tráng của họ, lại có lớp từ ngữ thông tục, sinh động của tiếng nói hằng ngày, in đậm trong phong cách người lính, kết hợp từ độc đáo, mới lạ, tạo nghĩa mới hoặc sắc thái mới cho từ ngữ man điệu, dữ oai hùm, dáng kiều thơm, anh về đất…

Đoạn thơ cho thấy tình cảm, sự gắn bó của nhà thơ với một thời Tây Tiến, với đồng đội thân yêu, cho thấy tâm hồn đầy lãng mạn, hào hoa của người lính Tây Tiến trong một thời kì lịch sử hào hùng của dân tộc.

 

KẾT LUẬN CHUNG

Không phải ngẫu nhiên mà khi bàn về thơ, nhiều nhà văn, nhiều học giả đều khẳng đinh vai trò của tình cảm đối với thơ. Ngô Thì Nhậm thì kêu gọi các thi nhân Hãy xúc động hồn thơ cho ngòi bút có thần”, còn Muytxê cũng nhắn nhủ Hãy đập vào tim anh, thiên tài là ở đó”. Tư tưởng của một nhà thơ dù dầu có giá trị đến đâu, độc đáo mới mẻ đến nhường nào thì nó cũng chỉ là một xác buớm ép khô trên trang giấy, nếu không được tình cảm của họ thổi hồn đánh thức dậy. Nếu anh chỉ có tư tưởng không thôi, thì không thể làm một tác phẩm có giá trị nghệ thuật đính thực. Tư tưởng của anh phải được rung lên ở các cung bậc của tình cảm. Cảm xúc trơ lì, mòn sáo, tình cảm thoáng qua, hời hợt, rút cuộc những tư tưởng ấy dù hay đến mấy cũng chỉ ”nằm thẳng đơ”, vô hồn, vô cảm trên trang giấy mà thôi. Những sáng tạo nghệ thuật chân chính tuyệt nhiên không phải là sự minh hoạ giản đơn cho tư tưởng này hay tư tưởng khác, cho dù đó là tư tưởng rất hay (Ý của Khrapchencô). Tây Tiến mùa xuân ấy đã thành một đi không trở lại, lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại thơ mộng lãng mạn, hào hùng đến nhường ấy. Nhưng “Tây Tiến” của Quang Dũng đã góp phần tái hiện lại một giai đoạn lịch sử oai hùng của dân tộc, thể hiện tình cảm sâu sắc của nhà thơ với một thời Tây Tiến, rộng hơn là tình yêu quê hương đất nước. Quang Dũng hẳn đã xúc động hồn thơ  và  đập vào trái tim để tạo nên những vần thơ kiệt tác. Để trải qua bao nhiêu thăng trầm và thời gian, bài thơ vẫn có vị trí trong lòng bạn đọc và càng ngày càng sáng giá.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *