Mục lục
MỞ BÀI CHUNG
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận định “Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời”.Những kiệt tác văn học ra đời không chỉ mang trong mình ý nghĩa văn chương mà còn mang cả tầm vóc lịch sử. Ai đó cũngkhẳng định: “Nếu mỗi người không thuộc về một đất nước, một quê hương thì giống như con chim không có tổ, cái cây không có rễ…”.Rồi có một lúc nào đó ta cũng sẽ tự hỏi lòng: “Có mối tình nào nặng sâu hơn là mối tình Tổ quốc?”Tình yêu quê hương đất nước, yêu lịch sử, lẽ cống hiến và gắn bó cuộc đời mình với đất nước, nhân dânđã khiến biết bao hồn thơ cất cánh.Cũng vì những tình cảm lớn lao ấy mà cuối năm 1971, trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm ra đời. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén và hấp dẫn bạn đọc bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam, đặc biệt khi hướng về nhân dân, đất nước anh hùng. Đoạn trích “Đất nước” nằm ở phần đầu chương V của bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm được xem là một trong những đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại.
PHÂN TÍCH ĐOẠN THƠ
Đoạn số 1:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất nước”, trích trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.118)
- MỞ BÀI
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
– Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
- THÂN BÀI
- Khái quát
1.1. Hoàn cảnh và mục đích sáng tác
Trường ca “ Mặt đường khát vọng” viết năm 1971 tại chiến khu Trị- Thiên, giữa không khí sục sôi chống Mĩ của cả dân tộc và được in lần đầu năm 1974. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Namvề non sông đất nước, giúp họ thấy được vai trò, sứ mệnh của thế hệ mình, từ đó xuống đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc kháng chiến chống Mỹ của toàn dân tộc.
1.2. Nội dung đoạn trích “Đất nước”
Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật.Mỗi nhà thơ đều có những cảm nhận rất riêng về đất nước nên hình ảnh đất nước, Tổ quốc hiện lên văn học thật muôn màu muôn vẻ. Các nhà thơ cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm thường thể hiện vẻ đẹp đất nước bằng những hình ảnh hoành tráng, kỳ vĩ, mỹ lệ hay gắn đất nước với một thời điểm lịch sử cụ thể. Điển hình như Nguyễn Đình Thi đã viết về đất nước bằng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ:
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
(Việt Nam quê hương ta – Nguyễn Đình Thi)
Hoàng Cầm gắn hình ảnh đất nước với cuộc kháng chiến chống Pháp:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
(Bên kia Sông Đuống – Hoàng Cầm)
Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đất nước đã thể hiện những cảm nhận rất mới mẻ, sâu sắc. Nhà thơ đã chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc; giọng điệu thủ thỉ tâm tình như lối trò chuyện thân mật; hình ảnh và ngôn từ giản dị mang đậm màu sắc dân gian và viết về đất nước trong một không gian và thời gian rộng. Từ chỗ cảm nhận đất nước ở ba chiều là chiều dài về lịch sử, chiều rộng về địa lí và chiều sâu về văn hóa phong tục nhà thơ đi đến khẳng định tư tưởng có tính then chốt: Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”.
1.3. Bố cục Đoạn trích gồm hai phần:
– 42 câu đầu: Cảm nhận về đất nước trong tính toàn vẹn ở các phương diện nhiều mặt: địa lý, lịch sử, văn hoá, tâm hồn và lối sống.Từ đó nhà thơ khơi gợi ý thức trách nhiệm của mỗi người với đất nước.
– 46 dòng cuối:Tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
- Phân tích đoạn thơ
2.1. Giới thiệu đoạn thơ
Đoạn thơ gồm 9 câu thơ đầu này là những cảm nhận ban đầu của nhà thơ về Đất nước và để trả lời cho các câu hỏi: Đất nước có tự bao giờ? Đất nước tồn tại ở đâu?và quá trình lớn lên của đất nước như thế nào?
2.2. Hai câu thơ đầu:Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi.
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể.
Cội nguồn thiêng liêng của Đất nước (Đất nước có tự bao giờ)
Trong hai câu thơ đầu của đoạn thơ, tác giả đi tìm sự lý giải về sự sinh thành của đất nước để trả lời cho câu hỏi “Đất nước có từ bao giờ?”.Với cách mở đầu rất tự nhiên, nhà thơ khẳng định đất nước đã có từ trước khi ta sinh ra, khi ta lớn lên và biết nhận thức về thế giới quanh mình thì đất nước “đã có rồi”.Không thể trả lời chính xác rằng đất nước có tự bao giờ, Nguyễn Khoa Điềm đã mượn cách mở đầu của truyện cổ tích “ngày xửa, ngày xưa” để nói về cội nguồn của đất nước. Vận dụng ngôn từ một cách độc đáo, sáng tạo, nhà thơ không chỉ cho thấy đất nước chắc chắn đã có từ cái thuở xa lắc xa lơ nào đó, từ rất lâu đời mà còn gợi ra một không gian cổ tích, thần thoại, khiến cội nguồn đất nước trở nên thiêng liêng, kì diệu. Đất nước mình là đất nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với biết bao câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm tâm hồn cho ta để lớn lên ta biết yêu đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:
Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
(Truyện cổ nước mình)
Năm chữ “Đất Nước đã có rồi”và bốn chữ “ngày xửa, ngày xưa” vang lên đầy tự hàogóp phần khẳng định sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử:
Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long
(Huỳnh Văn Nghệ)
2.3. Bảy câu thơ: Đất nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn
… Đất nước có từ ngày đó
Đất nước rất gần gũi thân thiết với mỗi con người (Đất nước tồn tại ở đâu?)
Khi nói về đất nước người ta cũng thường đặt ra các câu hỏi như “Đất nước là gì?” và “Đất nước tồn tại ở đâu?” và rồi thường tự cho rằng đất nước là cái gì đó cao siêu, trừu tượng khó định nghĩa và khó nắm bắt. Nhưng ở đoạn thơ này Nguyễn Khoa Điềm đã cho chúng ta thấy đất nước thiêng liêng, kì diệu nhưng không ở đâu xa, trái lại gần gũi, thân thiết đến bất ngờ.
* Đất nước là những người thân yêu nhất:Đất nước không ở đâu xa mà là những người thân yêu nhất như bà, cha và mẹ. Là hình ảnh người bà với “miếng trầu bà ăn”, là hình ảnh người mẹ với “câu chuyện mẹ kể” và “tóc mẹ thì bới sau đầu”, là cả cha và mẹ trong câu thơ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Không phải ngẫu nhiên khi viết về đất nước nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại ba lần nhắc đến hình ảnh người mẹ và nhiều nhà thơ khác cũng thường so sánh hình ảnh đất nước, tổ quốc với hình ảnh người mẹ. Hình ảnh tổ quốc trở thành mĩ từ thật đẹp trong thơ Chế Lan Viên khiến tác giả cho rằng mình đã đi nhưng cần vượt nữa để được gặp lại bà mẹ tổ quốc: “Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương”.Nhà thơ Tố Hữu lại liên tưởng đất nước giống như hình ảnh bà mẹ gánh gồng, tảo tần:
Việt Nam, Ôi tổ quốc thương yêu!
Trong khổ đau, người đẹp hơn nhiều,
Như bà mẹ sớm chiều gánh nặng,
Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng”.
(Chào xuân 67 – Tố Hữu)
* Đất nước là những gì bình thường, bình dị nhất xung quanh cuộc sống của mỗi con người: Đất nước không cao siêu trừu tượng mà có thể đơn giản là câu chuyện mẹ kể, miếng trầu bà ăn, có trong những phong tục tập quán, trong cái kèo cái cột, thậm chí có trong những thứ nhỏ bé như hạt gạo…
– Đất nước gắn với những phong tục, tập quán từ bao đời của người Việt Nam như tục ăn trầu, tục bới tóc sau đầu:
+ Tục ăn trầu: Hình ảnh miếng trầu từ xưa đến nay rất quen thuộc với bao nhiêu thế hệ người Việt Nam. Người Việt Nam có câu “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Miếng trầu không chỉ xuất hiện trong các dịp ăn hỏi, cưới xin, hội hè, ma chay… mà còn được dùng mời khách đến nhà để tỏ lòng hiếu khách. Hình ảnh “miếng trầu” cũng là một hình tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mỹ từng xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích, trong ca dao, thơ ca…
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
(Mời trầu – Hồ Xuân Hương)
Miếng trầu trở thành hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung, son sắctrong tâm hồn dân tộc. Đất Nước có trong “miếng trầu bây giờ bà ăn” gợi nhắc phong tục ăn trầu của người Việt, gợi nhớ về câu truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Như vậy, trong miếng trầu dung dị ấy là mấy ngàn nămvăn hóa, văn hiến của đất nước. Từ phong tục ăn trầu, người Việt còn có tục nhuộm răng đen:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
(Hoàng Cầm)
+ Tục bới tóc sau đầu: Câu thơ “Tóc mẹ thì bới sau đầu” không chỉ gợi tả một nét đẹp thuần phong mỹ tục lâu đời của người Việt mà còn làm hiện lên hình ảnh người mẹ với búi tóc sau gáy, làm nổi bật vẻ đẹp dịu dàng, đôn hậu của người phụ nữ Việt Nam.
– Đất nước còn có trong đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc, có trong tình nghĩa sâu nặng của cha và mẹ: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Có lẽ câu thơ về tình nghĩa sâu nặng ấy được gợi ý từ một câu ca dao đẹp:
“Tay bưng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc, nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời: gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng son sắc, mặn nồng.
2.4. Hai câu thơ: Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
và: Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã, giần, sàng
Đất nước lớn lên, trưởng thành
-Không dừng lại ở ở việc tìm về cội nguồn, sự tồn tạimà nhà thơ còn nỗ lực hình dung quá trình lớn lên, trưởng thành của đất nước. Phải chăng, khởi thủy và quá trình lớn lên của Đất nước là văn hóa được kết tinh từ tâm hồn và tính cách anh hùng của con người Việt Nam. Để nói hết được những điều đó, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã nhắc đến hình ảnh cây tre, vốntừ lâu đã trở nên quen thuộc trong tâm thế của mỗi người Việt Nam:
“Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”
(Cây tre Việt Nam – Thép Mới)
Hình ảnh cây tre đã đi vào truyền thuyết Thánh Gióng với người anh hùng nhổ tre đánh giặc. Hai chữ “lớn lên” gợi liên tưởng đến hình ảnh chú bé làng Ngà mới lên ba vươn vai thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt khi Đất Nước bị giặc Ân xâm lược.Cây tre vì thế đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần dân tộc quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước. Cây tre còn trở thành biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam thật thà chất phác, cần cù, chăm chỉ, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình… Bởi vì:
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
(Tre Việt Nam – Nguyễn Duy)
=>Câu thơ “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” như vậy đã thể hiện quá trình lớn lên của đất nước. Đất nước lớn dần lên trong sự nghiệp đấu tranh và bảo vệ bờ cõi, trong những cuộc trường chinh không ngừng nghỉ của cha ông trong suốt mấy ngàn năm lịch sử.
– Đất nước còn bắt đầu và lớn mạnh dần lên trong quá trình lao động lam lũ, vất vả để làm ra hạt lúa, hạt gạo, làm ra những giá trị vật chất cho đất nước thể hiện rõ qua câu thơ “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Thành ngữ “Một nắng, hai sương” đã cho thấy đất nước lớn lên trong nhọc nhằn, lam lũ. Các động từ “Xay – giã – giần – sàng” là những hoạt động trong quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra hạt gạo ta ăn hằng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của người nông dân. Bởi vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ công ơn người đã làm ra nó:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
(Ca dao)
Cũng vì vậy mà nhà thơ Thanh Hải đã cảm nhận và khái quát quá trình đi lên đầy gian lao của đất nước:
Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.
(Mùa xuân nho nhỏ-Thanh Hải)
- Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
Để viết nên những vần thơ có sức lay động thực sự, có khả năng vượt qua mọi định luật băng hoại của thời gian không thừa nhận cái chết (Satưkhốp Sêđrin), nhà thơ phải vừa có tài năng và tâm huyết, vừa đắm mình vào cuộc đời, vừa không ngừng tìm tòi khám phá, “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Một nhà thơ nước ngoài đã từng thấm thía giá trị cao quí của lao động thi ca:
“Phí tổn ngàn cân quặng chữ
Để thu về một chữ mà thôi
Những chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài”
Nhà thơ phải “trả giá cắt cổ” cho ngôn ngữ thơ ca nếu muốn những vần thơ ấy trở nên bất tử. Lao động nghệ thuật là hình thức lao động của trí óc và trái tim. Phải có những rung động mãnh liệt trước cuộc đời và những khám phá, sáng tạo độc đáo ta mới có thơ ca chân chính.Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm bằng rung cảm mãnh liệt, sự tâm huyết và tài năng nghệ thuật đặc biệt đã sử dụng một cách đầy sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học dân gian như: sử dụng cách mở đầu của chuyện cổ tích, sử dụng thành ngữ, nhắc đến các câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, hình ảnh ca dao, phong tục tập quán để thể hiện quan niệm đất nước rất gần gũi thân thiết với mỗi con người. Những cấu trúc được lặp đi lặp lại như “Đất nước có từ…”, “Đất nước có trong…”, “Đất nước bắt đầu…”, “Đất nước lớn lên…” góp phần thể hiện quá trình sinh thành, tồn tại và lớn lên của đất nước, trải qua thời gian và trong tiềm thức của con người. Cùng với thể thơ tự do, phóng túng, câu thơ dài ngắn không đều; ngôn từ, hình ảnh giản dị, gần gũi; nhịp điệu linh hoạt; chất trữ tình kết hợp với chất chính luận, cảm xúc kết hợp với suy tưởng đã tạo nên những câu thơ hấp dẫn, cảm động… Những đặc sắc nghệ thuật này đã tạo ra vẻ đẹp riêng cho thơ Nguyễn Khoa Điềm và thể hiện sâu sắc hơn những cảm nhận sâu sắc, mới mẻ, độc đáo của ông về đất nước.Đoạn trích “Đất nước” giúp chúng ta thấy yêu và gắn bó hơn với quê hương, đất nước mình.Từ đó ý thức sâu sắc hơn về trách nhiệm của mình với đất nước.
Đoạn số 2:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất nước”, trích trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.118, 119)
- MỞ BÀI
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
– Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
- THÂN BÀI
- THÂN BÀI
- Khái quát
1.1. Hoàn cảnh và mục đích sáng tác
Trường ca “ Mặt đường khát vọng” viết năm 1971 tại chiến khu Trị- Thiên, giữa không khí sục sôi chống Mĩ của cả dân tộc và được in lần đầu năm 1974. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Namvề non sông đất nước, giúp họ thấy được vai trò, sứ mệnh của thế hệ mình, từ đó xuống đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc kháng chiến chống Mỹ của toàn dân tộc.
1.2. Nội dung đoạn trích “Đất nước”
Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật.Mỗi nhà thơ đều có những cảm nhận rất riêng về đất nước nên hình ảnh đất nước, Tổ quốc hiện lên văn học thật muôn màu muôn vẻ. Các nhà thơ cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm thường thể hiện vẻ đẹp đất nước bằng những hình ảnh hoành tráng, kỳ vĩ, mỹ lệ hay gắn đất nước với một thời điểm lịch sử cụ thể. Điển hình như Nguyễn Đình Thi đã viết về đất nước bằng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ:
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
(Việt Nam quê hương ta – Nguyễn Đình Thi)
Hoàng Cầm gắn hình ảnh đất nước với cuộc kháng chiến chống Pháp:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
(Bên kia Sông Đuống – Hoàng Cầm)
Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đất nước đã thể hiện những cảm nhận rất mới mẻ, sâu sắc. Nhà thơ đã chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc; giọng điệu thủ thỉ tâm tình như lối trò chuyện thân mật; hình ảnh và ngôn từ giản dị mang đậm màu sắc dân gian và viết về đất nước trong một không gian và thời gian rộng. Từ chỗ cảm nhận đất nước ở ba chiều là chiều dài về lịch sử, chiều rộng về địa lí và chiều sâu về văn hóa phong tục nhà thơ đi đến khẳng định tư tưởng có tính then chốt: Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”.
1.3. Bố cục Đoạn trích gồm hai phần:
– 42 câu đầu: Cảm nhận về đất nước trong tính toàn vẹn ở các phương diện nhiều mặt: địa lý, lịch sử, văn hoá, tâm hồn và lối sống.Từ đó nhà thơ khơi gợi ý thức trách nhiệm của mỗi người với đất nước.
– 46 dòng cuối: Tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
- Phân tích đoạn thơ
2.1. Giới thiệu đoạn thơ
Nếu như chín câu thơ đầu của đọan thơ là những cảm nhận ban đầu của nhà thơ về đất nước, để trả lời cho các câu hỏi: “Đất nước có từ bao giờ?”, “Đất nước tồn tại ở đâu?” và “Quá trình lớn lên của đất nước như thế nào?” thì đến đoạn thơ này nhà thơ muốn đi tìm định nghĩa về đất nước và cảm nhận đất nước ở các phương diện địa lí, lịch sử và chiều sâu văn hóa, phong tục
2.2. Đất nước được cảm nhậntheo chiều rộng về địa lí (chiều không gian)
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã rất táo bạo khi định nghĩa đất nước bằng cách chiết tự và tách đất nước thành hai thành tố Đất và Nước. Nhà thơ định nghĩa Đất trong 3 câu thơ, định nghĩa Nước trong 3 câu thơ và hợp thành Đất Nướcđể định nghĩa cũng trong 3 câu thơ.Cách thức định nghĩa có vẻ rất phi khoa học nhưng lại rất có hiệu quả khi thể hiện được những cảm nhận rất sâu sắc về đất nước.
*Hai câu thơ: Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là không gian riêng tư, quen thuộc với mỗi người
Ban đầu nhà thơ tách đất nước thành hai thành tố, định nghĩa. Đất và nước gắn liền với những kỉ niệm thời thơ ấu của anh và em.Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền. Đất là con đường hàng ngày anh tới trường để học tập, trang bị kiến thức và hành trang tri thức giúp anh tự tin bước vào đời, làm chủ cuộc đời.Nước là dòng sông em tắm mát, là dòng sông của quê hương chở nặng phù sa làm bãi mía, nương dâu, ngô khoai biêng biếc, có bên lở bên bồi, có khi vơi khi đầy làm đẹp thêm làng quê yêu dấu. Quê hương ai cũng có một dòng sông với những con thuyền giấy chở bao kỉ niệm tuổi thơnên phải xa quê hương thì dòng sông quê hương thường trở thành nỗi nhớ da diết. Để lòng ta chợt vui trong ngày trở về:
Quê hươngtôi cũng có một dòng sông bên nhà
Con sông quê gắn bó với tuổi thơ đời tôi
Bao năm xa quê ấy trong mơ tôi vẫn thấy
Hôm nay tôi trở về, lòng chợt vui thấy sông không già
(Trở về dòng sông – Hoàng Hiệp)
=>Với cách thức tách thành hai thành tố để định nghĩa từng thành tố như vậy, hai câu thơ đã biểu đạt đất nước gắn bó với mỗi cá thể, là nơi mỗi người chúng ta sinh sống và học tập, là không gian riêng tư, quen thuộc với mỗi con người.
* Hai câu thơ:Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất nước là nơi hò hẹn của tình yêu
– Tiếp đó, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại ghép hai thành tố ấy lại thành Đất Nước để định nghĩa. Khi đất nước không bị tách rời mà hòa hợp với nhau làm một thì đất nước thành “nơi ta hò hẹn”, “nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”.Đất nước còn là nơi tình yêu lứa đôi nảy nở thiết tha, say đắm.Trong hai câu thơ này, đất nước bỗng trở thành không gian của tình yêu, gợi ra cả một không gian làng quê yên ả, thanh bình với cây đa, bến nước, sân đình, gợi ra nhữngđêm trăng hò hẹn bên nhịp cầu tre lắt lẻo hay trong những đêm hội làng có gánh chèo hát thâu đêm:
Thôn Ðoài vào đám hát thâu đêm
Em mải tìm anh chả thiết xem
Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh
Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em(Mưa xuân – Nguyễn Bính)
Đất nước còn là không gian đầy nhớ thương của tình yêu thể hiện qua hình ảnh chiếc khăn.Câu thơ “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” đậm đà chất dân ca ca dao và gợi nhắc đến bài ca dao về chiếc khăn gợi thương, gợi nhớ:
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt.
Chiếc khăn bé nhỏ, giản dị trở thành vật chứng cho tình yêu đôi lứa làm biết bao người phải xúc động, bồi hồi:
Gói một chùm hoa
Trong chiếc khăn tay
Cô gái ngập ngừng
Sang nhà hàng xóm”
(Hương thầm – Phan Thị Thanh Nhàn)
* Hai câu thơ:Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi
Đất nước là không gian lãnh thổ
– Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sau đó lại tiếp tục tách đất nước thành hai thành tố và sử dụng các hình ảnh ca dao, dân ca để làm nổi bật vẻ đẹp của giang sơn gấm vóc.
+ Với hình ảnh ca dao “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”, đất chính là núi rừng, bờ cõi, là rừng vàng, đồng xanh, bờ dâu, bãi mía…
+ Với hình ảnh ca dao “con cá ngư ông móng nước biển khơi”, nước là sông, là bể, gợi hình ảnh những dòng sông đổ ra biển cảvới sóng nước mênh mang và “Biển cho ta cá như lòng mẹ – Nuôi lớn hồn ta tự thuở nào”
=>Hai hình ảnh ca dao này mang phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả. Đất nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ, kì vĩ và giàu đẹp vô cùng. Đất nước chính là núi rừng, sông bể, là không gian lãnh thổ thiêng liêng. Không gian lãnh thổ ấy đã từng được Nguyễn Trãi khẳng định trong Bình Ngô đại cáo:
Núi sông bờ cõi đã chia
Lý Thường Kiệt cũng khẳng định đầy chắc chắn trong “Nam quốc sơn hà”:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
* Ba câu thơ: Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Đất nước là nơi dân mình sinh sống, đoàn tụ
Đất nước còn không gian sinh tồn của cộng đồng qua nhiều thế hệ với “những ai đã khuất…những ai bây giờ…”, là nơi Chim về, là nơi Rồng ở.
+ Câu thơ “Đất là nơi Chim về” gợi hình ảnh con chim Lạc trong văn hóa của đất nước các vua Hùng, cho thấy đất nước chính là nơi sinh sống của người mẹ Âu Cơ với 50 người con trên rừng.
+ Câu thơ” Nước là nơi Rồng ở” lại cho thấy đất nước là biển khơi, nơi Lạc Long Quân sinh sống cùng 50 người con.
=> Ba câu thơ không chỉ khẳng định đất nước là nơi đồng bào ta sinh sống, đoàn tụ trải qua bao nhiêu thế hệ mà còn gợi nhắc cả nguồn gốc cha Rồng, mẹ Tiên gắn với lòng biết ơn tổ tiên, nguồn cội.
2.3. Đất nước được cảm nhận ở chiều dài lịch sử (chiều thời gian)
– Cùng với cách cảm nhận về đất nước ở phương diện không gian địa lý, nhà thơ còn cảm nhận đất nước ở phương diện thời gian lịch sử:
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Trong đó các từ láy “đằng đẵng”, “mênh mông” đã nhấn mạnh chiều dài của thời gian lịch sử, chiều rộng của không gian địa lí, gợi hình ảnh một đất nước có lịch sử lâu đời và một vùng lãnh thổ rộng lớn.
– Nếu như chiều rộng của đất nước bao la rộng lớn gắn với không gian riêng tư, quen thuộc của mỗi người, là không gian hò hẹn của tình yêu, là không gian lãnh thổ với rừng vàng biển bạc, là không gian sinh tồn của đồng bào ta thì chiều dài lịch sử đằng đẵng, lâu đời của đất nước được bắt đầu từ truyền thuyết xa xưa, từ thuở Lạc Long Quân và Âu Cơ gặp nhau, yêu nhau rồi đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng. Tất cả các dân tộc anh em sinh sống trên mảnh đất Việt Nam như vậy đều là ruột thịt với nhau, đều từ một cha, một mẹ sinh ra.Nguồn gốc đất nước vì thế trở nên thiêng liêng trong hai chữ “đồng bào”:
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
– Từ khi cha Rồng mẹ Tiên sinh ra nòi giống tiên rồng đến nay có biết bao thế hệ người Việt Nam sinh ra, lớn lên, yêu nhau, sinh con, đẻ cái rồi từ giã cõi đời. Hình ảnh đất nước vì thế luôn tiềm tàng trong mối quan hệ giữa các thế hệ; giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Đất nước là sự tiếp nối của biết bao nhiêu thế hệ, 4000 năm đất nước là sự tiếp nối của 4000 lớp người giống nhau lứa tuổi. Họ đã sống và chết, giản dị và bình tâm và họ chính là người làm ra đất nước.
– Nhưng các thế hệ người Việt Nam không tồn tại riêng lẻ mà gắn kết với nhau, thế hệ sau kế thừa, tiếp nối thế hệ trước. Mỗi thế hệ người Việt Nam đều ý thức được vai trò, sứ mệnh của mình:
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.
“Những ai đã khuất” là chỉ cha ông trong quá khứ, đã cống hiến hết đời mình và đã nằm xuống. “Những ai bây giờ” là chỉ những con người của thời hiện tại biết gánh vác phần việc mà cha ông để lại, kế thừa gìn giữ truyền thống từ cha ông và sau này sẽ dặn dò, giao lại trách nhiệm ấy cho con cháu. Hai chữ “cúi đầu” thể hiện niềm thành kính thiêng liêng mà rất đỗi tự hào về nguồn gốc của đất nước, giống nòi. Cúi đầu để hướng về lịch sử, về công lao của các vua Hùngđã góp công dựng nên nước nhà Âu Lạc mà nay là nước Việt Nam hùng cường sánh vai bốn bể năm châu.
Tất cả các thế hệ người Việt Nam đều ý thức được trách nhiệm, sứ mệnh của mình là yêu nhau, sinh con đẻ cái để bảo tồn nòi giống.Nhưng trách nhiệm, sứ mệnh thiêng liêng hơn là phải gìn giữ, nhắc nhở, dặn dò nhau luôn ý thức sâu sắc về nguồn cội, tổ tiên, không bao giờ được quên cội nguồn dân tộc.Người Việt mình dù đi khắp thế giới nhưng trong tâm linh của họ luôn có một nơi để quay về, đó chính là quê cha đất Tổ vua Hùng.Là con cháu vua Hùng thì đều phải biết:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba
(Ca dao)
2.4. Đất nước còn được cảm nhận ít nhiều ở phương diện văn hóa
– Khi viết về chiều dài lịch sử của đất nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã nhắc đến tín ngưỡng vua Hùng, một tín ngưỡng phổ biến tạo nên bản sắc văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Ngoài ra, đoạn thơ còn sử dụng nhiều chất liệu văn hóa, văn học dân gian như truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, hình ảnh chim Lạc, nhắc đến nguồn gốc rồng tiên và các hình ảnh ca dao như chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi…Việc nhắc đến tín ngưỡng vua Hùng và sử dụng các chất liệu văn hóa, văn học dân gian ấy đã thể hiện những cảm nhận về đất nước ở chiều sâu văn hóa, phong tục.
- Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
Với thể thơ tự do, phóng túng, câu thơ dài ngắn không đều, nhịp thơ linh hoạt không bó buộc, chính luận kết hợp với trữ tình, cảm xúc kết hợp với suy tưởng cùng với các biện pháp điệp từ, điệp cấu trúc… Đoạn thơ đã thể hiện những cảm nhận, cách thể hiện mới mẻ, độc đáo về đất nước trên nhiều phương diện khiến hình ảnh đất nước hiện lên trong tâm trí người đọc sinh động mà hấp dẫn lạ thường.Đoạn thơ là tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc, đánh động trong lòng ta những xúc động sâu xa về đất nước, về ý thức nguồn cội.Từ đó mỗi người nâng cao ý thức trách nhiệm với đất nước.
Đoạn số 3:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất nước”, trích trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.119, 120)
- MỞ BÀI
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
– Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
- Khái quát
1.1. Hoàn cảnh và mục đích sáng tác
Trường ca “ Mặt đường khát vọng” viết năm 1971 tại chiến khu Trị- Thiên, giữa không khí sục sôi chống Mĩ của cả dân tộc và được in lần đầu năm 1974. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Namvề non sông đất nước, giúp họ thấy được vai trò, sứ mệnh của thế hệ mình, từ đó xuống đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc kháng chiến chống Mỹ của toàn dân tộc.
1.2. Nội dung đoạn trích “Đất nước”
Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật.Mỗi nhà thơ đều có những cảm nhận rất riêng về đất nước nên hình ảnh đất nước, Tổ quốc hiện lên văn học thật muôn màu muôn vẻ. Các nhà thơ cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm thường thể hiện vẻ đẹp đất nước bằng những hình ảnh hoành tráng, kỳ vĩ, mỹ lệ hay gắn đất nước với một thời điểm lịch sử cụ thể. Điển hình như Nguyễn Đình Thi đã viết về đất nước bằng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ:
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
(Việt Nam quê hương ta – Nguyễn Đình Thi)
Hoàng Cầm gắn hình ảnh đất nước với cuộc kháng chiến chống Pháp:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
(Bên kia Sông Đuống – Hoàng Cầm)
Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đất nước đã thể hiện những cảm nhận rất mới mẻ, sâu sắc. Nhà thơ đã chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc; giọng điệu thủ thỉ tâm tình như lối trò chuyện thân mật; hình ảnh và ngôn từ giản dị mang đậm màu sắc dân gian và viết về đất nước trong một không gian và thời gian rộng. Từ chỗ cảm nhận đất nước ở ba chiều là chiều dài về lịch sử, chiều rộng về địa lí và chiều sâu về văn hóa phong tục nhà thơ đi đến khẳng định tư tưởng có tính then chốt: Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”.
1.3. Bố cục Đoạn trích gồm hai phần:
– 42 câu đầu: Cảm nhận về đất nước trong tính toàn vẹn ở các phương diện nhiều mặt: địa lý, lịch sử, văn hoá, tâm hồn và lối sống.Từ đó nhà thơ khơi gợi ý thức trách nhiệm của mỗi người với đất nước.
– 46 dòng cuối: Tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
- Phân tích đoạn thơ: Đất nước rất thân thiết, quan trọng và trách nhiệm của mỗi người với đất nước
2.1. Giới thiệu đoạn thơ
– Đoạn thơ vẫn nằm trong mạch cảm xúc về đất nước, nhân dân và để thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân.Nếu ở các đoạn thơ trước nhà thơ đi tìm câu trả lời cho các câu hỏi Đất nước có tự bao giờ?Đất nước tồn tại ở đâu?Đất nước lớn lên như thế nào? và cảm nhận đất nước một cách đa chiều trong chiều dài về lịch sử, chiều rộng về địa lí, chiều sâu về văn hóa phong tục thì đoạn thơ này lại cho chúng ta thấy đất nước có trong mỗi con người, hài hòa giữa cái chung và cái riêng, cái cá nhân và cái tập thể, là sự nối tiếp của các thế hệ. Từ đó nhà thơ đã nêu rõ trách nhiệm của mỗi người với đất nước.
– Trong suốt đoạn trích và đoạn thơ nàynhà thơ viết hoa hai chữ Đất Nước khiến nó trở thành một mĩ từ gợi sự thiêng liêng, cao cả, bộc lộ sự tự hào, yêu mến về đất nước. Hình thức đoạn thơ là lời tâm tình của anh và em và với 13 câu thơ sử dụng cấu trúc tổng
phân hợp, chất trữ tình hòa quyện với chính luận khiến đoạn thơ viết về đất nước mà như lời thổ lộ, tâm tình của đôi lứa yêu nhau.
2.2. Hai câu thơ:Trong anh và em hôm nay,
Đều có một phần Đất Nước
Đất nước không chỉ gần gũi thân thiết với mỗi con người, như những người thân yêu nhất là bà, là cha và mẹ; là những gì bình thường, bình dị, quen thuộc nhất xung quanh mỗi chúng ta như miếng trầu bà ăn, câu chuyện mẹ kể, cái kèo, cái cột, là những phong tục tập quán, là tình nghĩa sâu nặng của cha và mẹ… mà gần gũi thân thiết hơn nữa khi nó còn có ở bên trong mỗi con người. Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận một cách rất tự nhiên rằng đất nước đã thấm vào bên trong, đã hòa vào trong mỗi cá thể nêntrong anh, trong em, trong mỗi chúng ta đều có một phần là đất nước.Sự sống của mỗi cá nhânkhông phải là của riêng người đó mà còn có phần thuộc về đất nước, bởi vìmỗi con người từ khi sinh ra đều đã thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước. Chỉ “một phần” đất nước nhỏ bé bên trong mỗi con người ấy thôi nhưng đủlàm ta xúc động,tự hào vì nhận ra mìnhđã góp phần làm nên đất nước.
2.3. Bốn câu thơ: Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn.
Đất nước là ở sự hài hòa giữa cái chung và cái riêng, cái cá nhân và cái tập thể.
– Nhà thơ tiếp tục nói về mối quan hệ gắn bó sâu sắc của con người với đất nước bằng những dòng thơ giàu chất trữ tình chính luận. Trong câu thơ “Khi hai đứa cầm tay” thì “hai đứa” ở đây là anh và em.Cầm tay là một hành động thể hiện tình cảm thắm thiết, yêu thương và tin cậy,là giao duyên, là tình yêu đôi lứa. Trong anh và em đều có một phần là đất nước nên khi hai đứa cầm tay nhau thì phần đất nước trong cả hai hòa nhập làm một, tạo nên sự hài hòa, nồng thắm. Trong cái cầm tay ấy hóa ra không chỉ có tình yêu đôi lứa mà còn có tình yêu quê hương đất nước. Sự hài hòa của tình yêu đôi lứa với tình yêu quê hương đất nước cũng được nhà thơ Nguyễn Đình Thi thể hiện trong những câu thơ rất hay về tình yêu:
Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần…
Nhà thơ Giang Namđã nhận thức ra rằng tình yêu đôi lứa đã làm cho tình yêu quê hương, đất nước càng thêm sâu đậm:
Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những lần trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nấm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
(Quê hương – Giang Nam)
– Đất nước là sự hòa hợp giữa cái riêng và cái chung, cái cá nhân và cái tập thể nên khi anh và em nắm tay mọi người, phần đất nước trong mỗi con người nhập vào làm một, sẽ tạo nên một đất nước to lớn, tạo nên sức mạnh đoàn kết có thể nhấn chìm tất cả và giúp đất nước vươn mình đứng dậy. Sức mạnh to lớn của tinh thần đoàn kết đã được ông cha ta đúc kết trong câu ca:
Một cây làm chẳng nên non
Hai cây chụm lại nên hòn núi cao
Bác Hồ cũng đã khẳng định:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công
Từ “hài hòa, nồng thắm” đến “vẹn tròn, to lớn” là đi từ cái riêng đến cái chung, cái cá nhân đến cái tập thể; là cả một quá trình lớn lên của lịch sử dân tộc. Chỉ khi nào ba cây biết chụm lại thì mới nên hòn núi cao, khi nào các cá nhân biết nắm tay nhau để đất nước hài hòa làm một thì đất nước mới thực sự vẹn tròn, to lớn.
=>Với những cảm nhận tinh tế, mới mẻ; cách sử dụng các tính từ đi liền nhau “hài hòa, nồng thắm”, “vẹn tròn, to lớn”; đặc biệt là biện pháp lặp cấu trúc “Khi…Đất Nước…” tạo sự cân xứng, liền mạch, làm cho ngôn từ trở nên uyển chuyển, linh hoạt và có ý nghĩa thẩm mĩ sâu sắc. Từ đó, đoạn thơ muốn gửi đến cho người đọc bức thông điệp: Tình yêu quê hương, đất nước và tinh thần đoàn kết dân tộc là những yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh Việt Nam.
2.4. Ba câu thơ:Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Cảm nhận về đất nước trong mối quan hệ giữa các thế hệ và niềm tin vào tương lai đất nước
– Trước hết, ba câu thơ thể hiện những cảm nhận về đất nước trong mối hệ giữa các thế hệ. Ở đoạn thơ trước, khi nhắc về chiều dài lịch sử của đất nước nhà thơ đã nhắc đến bao nhiêu thế hệ đi trước trong quá khứ (những ai đã khuất), nhắc đến những thế hệ của hôm nay (những ai bây giờ), thế hệ tương lai (con cháu mai sau) và đến đoạn thơ này nhà thơ lại nhắc đến ta của hôm nay và “mai này” của “con ta”, tức là nhắc đến một tương lai gần. Nhà thơ tin rằng, sẽ không phải đợi lâu mà chỉ cần đến thế hệ “con ta”, khi chúng lớn lên chúng sẽ đưa đất nước đi xa,đến những ngày tháng tươi đẹp và “mơ mộng” nhất. Từ “mơ mộng” chỉ cái đẹp trong trí tưởng tượng, sản phẩm của cảm xúc lãng mạn,được đặt trong ba câu thơ gợi liên tưởng thế hệ con cháu sẽ tiếp bước ông cha để xây dựng đất nước “To đẹp hơn, đàng hoàng hơn” (Hồ Chí Minh).
– Khi nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sáng tác trường ca “Mặt đường khát vọng” vào năm 1971, đất nước ta đang trong cuộc kháng chiến chống Mĩ đầy cam go, thử thách, gian khổ, hi sinh và chưa biết bao giờ sẽ chiến thắng. Vậy mà ông đã tin rằng trong một tương lai rất gần, đất nước sẽ đến những tháng ngày tươi đẹp nhất.Điều đó rất đáng quý và đó chính là cảm hứng lãng mạn mà chúng ta thường thấy trong các tác phẩm văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975. Chính niềm tin và cảm hứng lãng mạn ấy đã nâng đỡ con người Việt Nam trong khó khăn, thử thách để chúng ta có đủ sức mạnh đi đến chiến thắng.
2.5. Bốn câu thơ: Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…
Đất nước là máu, là xương, là huyết lệ nên mỗi con người phải có ý thức trách nhiệm với đất nước
– Theo Eptusencô, thơ ca đồng thời phải mang chức năng “thức tỉnh lương tri đang ngủ” phải khiến con người biết căm giận và biết ước mơ. Có những lúc thơ ca biến thành vũ khí độc đáo giúp con người đấu tranh với cái ác để bảo vệ chính nghĩa và cái đẹp của cuộc đời. Ý thức được sứ mệnh ấy của thơ ca, với đoạn thơ này nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thức tỉnh thế hệ trẻ vùng đô thị tạm chiếm miền Nam, giuớ họ thấy được trách nhiệm của thế hệ mình trước non sông đất nước.
– Cách xưng hô “Em ơi em” như một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao nỗi niềm đang dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và phát hiện ra nhiều điều mới lạ về đất nước. Cụm từ này khiến đoạn thơ như một lời thủ thỉ, tâm tình của anh với em, của đôi lứa yêu nhau. Nghệ thuật tăng cấp thể hiện trong suốt đoạn trích “Đất nước”, từ chỗ khẳng định đất nước là những gì gần gũi thân thiết xung quanh cuộc sống con người đến chỗ ở trong mỗi con người, rồi đến đoạn thơ này thì không chỉ ở trong mà quan trọng hơn là máu, là xương, là phần không thể thiếu của cơ thể sống. Đất nước là huyết lệ, là thân thể ruột thịt của chính mình, là mồ hôi, nước mắt của cha ông qua bao nhiêu thế hệ. Đất nước gắn bó, thân thiết và quan trọng với mỗi người như vậy nên mỗi con người đều phải có ý thức trách nhiệm với đất nước.
– Điệp từ “phải biết” được lặp lại hai lần và được đặt ở đầu các câu thơ như các mệnh lệnh phát ra từ con tim làm giọng thơ trở nên mạnh mẽ, chân thành thể hiện ý thức trách nhiệm sâu sắc với non sông, đất nước. Trách nhiệm của mỗi con người là phải biết gắn bó, san sẻ và hóa thân cho đất nước. Với Nguyễn Khoa Điềm “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” là những biểu hiện của tình yêu nước, là ý thứcvề nghĩa vụ cao cả, thiêng liêng.
+ Gắn bó, san sẻ: Là phải biết yêu mến, sẻ chia, cống hiến, thậm chí phải biết hi sinh vì đất nước như nhà thơ Chế Lan Viên từng nói một cách cảm động:
Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi! Tổ quốc, nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà,ngọn núi, con sông
(Chế Lan Viên)
+ Hóa thân: Hóa thân vốn là quan niệm của nhà Phật, có nghĩa là nhập vào hay biến thành. Hóa thân như cô Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” hóa thành chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi và quả thị. Hóa thân như anh em nhà họ Cao hóa thành cây cau và tảng đá, còn người vợ hóa thành cây trầu leo quanh cây cau trong truyện cổ tích “Trầu cau”. Nhưng hóa thân thành đất nước thì phải như anh giải phóng quân trong bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân:
Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng anh gượng đứng lên
Tì súng trên xác trực thăng
Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng
Hóa thân thành đất nước chính là sự nhập thân hay biến mình vào đất nước. Tư thế hi sinh trong thế tấn công của anh giải phóng quân ấy đã hóa thành tư thế, dáng hình của đất nước anh hùng, quật khởi. Cũng giống như thế là sự hóa thân của người con gái trong “Núi đôi” của Vũ Cao:
Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm
Hay cô gái hóa làn mây trắng trong thơ Lâm Thị Mĩ Dạ:
Em nằm dưới đất sâu
Như khoảng trời đã nằm yên trong đất
Đêm đêm tâm hồn em toả sáng
Những vì sao ngời chói, lung linh
Có phải thịt da em mềm mại, trắng trong
Đã hoá thành những làn mây trắng
(Lâm Thị Mỹ Dạ)
– Mỗi con người cần phải biết gắn bó, san sẻ, hóa thân để làm nên đất nước muôn đời như cha ông ta đã hóa thân thành núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, núi Bút, non Nghiên… đã gắn bó, san sẻ để làm nên lịch sử mấy ngàn năm của đất nước. Khát vọng đất nước trường tồn là khát vọng của người Việt Nam từ bao đời nay, đã đi vào những áng văn chương bất hủ của dân tộc:
Xã tắc từ đây vững bền
Non sông từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ mà lại thái
Nhật nguyệt hối mà lại minh
Muôn thuở nên thái bình vững chắc.
(Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi)
Hoặc trong “Tụng giá hoàn kinh sư” của Trần Quang Khải:
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu
- Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
Thể thơ tự do, phóng túng, câu thơ dài ngắn không đều, nhịp thơ linh hoạt không bó buộc, chính luận kết hợp với trữ tình, cảm xúc kết hợp với suy tưởng cùng với các biện pháp điệp từ, điệp cấu trúc, nghệ thuật tăng tiến, giọng thơ tâm tình, dịu ngọt, tứ thơ dạt dào cảm xúc, sáng tạo về ngôn từ, hình ảnh thể hiện một hồn thơ giàu tính suy tư, khẳng định một thi pháp độc đáo, có nhiều mới mẻ tìm tòi … tác động đến cả nhận thức và gợi nhiều xúc cảm cho người đọc.Đoạn thơ không phải là lời giáo huấn khô khan mà như lời thủ thỉ, tâm tình, nhắn nhủ tha thiết dễ đi vào lòng người, thức tỉnh thanh niên các vùng đô thị tạm chiếm miền Nam giúp họ nhận ra vai trò sứ mệnh của thế hệ mình, trách nhiệm với non sông, đất nước. Đoạn thơ đẹp còn vì sáng ngời niềm tin về tương lai đất nước và tiền đồ tươi sáng cùa dân tộc, in đậm tính công dân của thời đại mới.
Đoạn số 4:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất nước”, trích trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.120)
- MỞ BÀI
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
– Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
- THÂN BÀI
- Khái quát
1.1. Hoàn cảnh và mục đích sáng tác
Trường ca “ Mặt đường khát vọng” viết năm 1971 tại chiến khu Trị- Thiên, giữa không khí sục sôi chống Mĩ của cả dân tộc và được in lần đầu năm 1974. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Namvề non sông đất nước, giúp họ thấy được vai trò, sứ mệnh của thế hệ mình, từ đó xuống đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc kháng chiến chống Mỹ của toàn dân tộc.
1.2. Nội dung đoạn trích “Đất nước”
Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật.Mỗi nhà thơ đều có những cảm nhận rất riêng về đất nước nên hình ảnh đất nước, Tổ quốc hiện lên văn học thật muôn màu muôn vẻ. Các nhà thơ cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm thường thể hiện vẻ đẹp đất nước bằng những hình ảnh hoành tráng, kỳ vĩ, mỹ lệ hay gắn đất nước với một thời điểm lịch sử cụ thể. Điển hình như Nguyễn Đình Thi đã viết về đất nước bằng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ:
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
(Việt Nam quê hương ta – Nguyễn Đình Thi)
Hoàng Cầm gắn hình ảnh đất nước với cuộc kháng chiến chống Pháp:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
(Bên kia Sông Đuống – Hoàng Cầm)
Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đất nước đã thể hiện những cảm nhận rất mới mẻ, sâu sắc. Nhà thơ đã chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc; giọng điệu thủ thỉ tâm tình như lối trò chuyện thân mật; hình ảnh và ngôn từ giản dị mang đậm màu sắc dân gian và viết về đất nước trong một không gian và thời gian rộng. Từ chỗ cảm nhận đất nước ở ba chiều là chiều dài về lịch sử, chiều rộng về địa lí và chiều sâu về văn hóa phong tục nhà thơ đi đến khẳng định tư tưởng có tính then chốt: Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”.
1.3. Bố cục Đoạn trích gồm hai phần:
– 42 câu đầu: Cảm nhận về đất nước trong tính toàn vẹn ở các phương diện nhiều mặt: địa lý, lịch sử, văn hoá, tâm hồn và lối sống.Từ đó nhà thơ khơi gợi ý thức trách nhiệm của mỗi người với đất nước.
– 46 dòng cuối: Tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
- Phân tích đoạn thơ: Tư tưởng đất nước của nhân dân ở chiều địa lí (Nhân dân đã làm nên dáng hình đất nước)
2.1. Giới thiệu đoạn thơ
– Ở các đoạn thơ trước nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận về cội nguồn thiêng liêng của đất nước và thấy đất nước rất gần gũi, thân thiết với mỗi con người và lớn lên trưởng thành trong gian lao, vất vả. Đất nước có chiều dài lịch sử đằng đẵng, không gian địa lí mênh mông và có nền văn hóa, văn hiến lâu đời, đậm đà bản sắc. Đất nước ở trong mỗi con người, là máu là xương là huyết lệ bởi vậy mỗi con người đều phải có trách nhiệm với đấy nước.
– Ở đoạn thơ này, nhà thơ bắt đầu đi vào tư tưởng có tính then chốt trong suốt đoạn trích là tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”.Tư tưởng đất nước của nhân dân là tư tưởng tiến bộ đã manh nha từ thời trung đại. Từ “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Sau này Phan Bội Châu cũng khẳng định “Nước là dân, dân là nước”…Đến giai đoạn 1945 – 1975, tư tưởng này đã thấm nhuần trong các tác phẩm văn học.Không chỉ trong thơ Nguyễn Khoa Điềm mà trong thơ của hầu hết các nhà thơ từ thời chống Mỹ đều có những cảm nhận sâu sắc về nhân dân và coi đó là nền tảng của lòng yêu nước.Thanh Thảo trong trường ca “Những người đi tới biển” đã khắc hoạ chân dung của những con người bình dị và dùng những lời ngợi ca xúc động nhất để nói về nhân dân:
Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
Và cứ thế nhân dân cao vời vợi
Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời
– Tuy nhiên, phải đến “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm thì tư tưởng đất nước của nhân dân mới trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên thấm vào trong tất cả những thành tố thuộc về đất nước. Trong đoạn trích “Đất nước” nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm chủ yếu cảm nhận đất nước ở ba chiều là chiều dài lịch sử, chiều rộng địa lí, chiều sâu về văn hóa phong tục và sau đó tư tưởng đất nước của nhân dân cũng được triển khai theo ba chiều ấy. Chính nhân dân đã làm nên dáng hình đất nước, làm nên lịch sử và làm nên nền văn hóa, văn hiến lâu đời của đất nước.
– Đoạn thơ 12 câu này thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân ở chiều địa lí, khẳng định chính nhân dân đã làm nên dáng hình đất nước.Tác giả đã viết hoa từ “Đất Nước” mà để gợi sự yêu mến, tự hào, thành kính, thiêng liêng.
2.2. Tám câu thơ:
Những người vợ nhớ chồngcòn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
… Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm
- Bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên quê hương, đất nước
– Trước hết, trong đoạn thơ nhà thơ đã kể, liệt kêmột loạt các tên địa danh, các kì quan thiên nhiên trải dài trên lãnh thổ từ Bắc vào Nam như muốn phác thảo tấm bản đồ văn hóa đất nước.Những danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước như núi Vọng Phu Ở Lạng Sơn, hòn Trống Mái ở Thanh Hóa, đất Tổ Hùng Vương ở Phú Thọ, thắng cảnh Hạ Long ở Quảng Ninh, núi Bút non Nghiên ở Quảng Nam, các tên địa danh Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm ở miền Nam… Đây vốn là những danh lam thắng cảnh do tự nhiên sắp đặt, là kết quả của quá trình vận động địa chất, kiến tạo địa lý từ hàng ngàn, hàng vạn năm. Những tên địa danh, những danh lam thắng cảnh, tên núi tên sông, tên đất, tên làng, hình sông, thế núi ấy đã gợi lên cả một bức tranh thiên nhiên đất nước tươi đẹp mà nhìn đâu cũng có cảnh đẹp, thấy núi cao, biển rộng, sông dài, thấy những dòng sông đỏ nặng phù sa và nhiều tôm cá, những biển lúa mênh mông với những cánh cò bay lả bay la…Những tên địa danh ấy trước hết gợi cho chúng ta bao nhiêu niềm yêu mến, tự hào và khát khao muốn được khám phá vẻ đẹp mĩ lệ của thiên nhiên quê hương đất nước mình.
- Sự hóa thân của nhân dân
– Nhưng trong đoạn thơ, Nguyễn Khoa Điềm không khám phá bức tranh thiên nhiên quê hương, đất nước dưới góc độ khoa học,không nhìn thiên nhiên quê hương đất nước tươi đẹp như là tác phẩm của tạo hóa mà với những suy tưởng độc đáo, sâu sắc nhà thơ cho thấy các danh lam thắng cảnh, hình sông thế núi, tên đất tên làng… ấy đều do nhân dân hóa thân mà thành.
– Hóa thân vốn là quan niệm của nhà Phật, có nghĩa là nhập vào hay biến thành. Hóa thân như cô Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” hóa thành chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi và quả thị. Hóa thân như anh em nhà họ Cao hóa thành cây cau và tảng đá, còn người vợ hóa thành cây trầu leo quanh cây cau trong truyện cổ tích “Trầu cau”. Theo nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm núi Vọng Phu là hóa thân của người vợ nhớ chồng. Tình cảm nhớ thương, thủy chung, son sắt khiến người vợ chờ chồng đến hóa đá. Hòn Trống Mái là hóa thân của cặp vợ chồng yêu nhau, nguyện hóa đá để mãi mãi được bên nhau. Núi Bút, non nghiên là hóa thân của người học trò nghèo vượt khó cần cù, hiếu học. Ngay cả con cóc, con gà của quê hương cũng hóa mình thành thắng cảnh Hạ Long…Mỗi địa danh đều gắn với một truyền thuyết, sự tích riêng, tạo nên một thế giới cổ tích huyền diệu. Nhưng sâu sắc và tài hoa hơn là Nguyễn Khoa Điềm đã phát hiện ra không ai khác, chính những người dân bình thường vô danh bình dị, đã sống và chết giản dị và bình tâm, không ai nhớ mặt đặt tên nhưng chính họ đã hóa thân thành dáng hình đất nước, làm nên vẻ đẹp của giang sơn gấm vóc.
(Mở rộng về hóa thân: Xem mục 4.5)
- Bức tranh thiên nhiên đất nước chính là tâm hồn, máu thịt của nhân dân
Mỗi địa danh không chỉ là một nét tô điểm cho bức tranh thiên nhiên đất nước mà còn là tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã hóa thân, đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông.Và những ngọn núi, những dòng sông… chỉ trở thành thắng cảnh khi nó thể hiện tâm hồn con người và lịch sử dân tộc.Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái là biểu tượng đẹp đẽ cho truyền thống chung thủy, son sắc trong tình yêu. Những ao đầm dày đặc ở vùng đất Sóc Sơn, hình ảnh 99 con voi dựng đất Tổ Hùng Vương là những hình ảnh bất tử về truyền thống yêu nước nồng nàn, kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm. Núi Bút, non Nghiên là biểu tượng cho truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo… Và như thế những người dân vô danh bình dị còn góp phần hóa thân thành những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và khắc ghi những truyền thống tốt đẹp ấy lên dáng hình đất nước, lên những hình sông, thế núi, tên đất tên làng…thành lời nhắn nhủ đến muôn đời sau.
2.3. Bốn câu thơ: Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
Từ cụ thể đi đến khái quát
– Đoạn thơ được thể hiện theo kết cấu quy nạp, đi từ cụ thể đến khái quát.Từ một số địa danh cụ thể cụ thể, nhà thơ khái quát thành kết luận rất sâu sắc:Không chỉ ở một số địa danh tiêu biểu, cụ thể như ở tám câu thơ trên mà bất cứ danh lam thắng cảnh, hình sông thế núi, ruộng đồng, gò bãi hay mỗi tấc đất con sông nào trên dải đất hình chữ S cũng là hóa thân, là máu thịt của nhân dân.
– Là hóa thân của nhân dân nên mỗi hình sông thế núi, từng tấc đất trên đất nước này đều in dấu dáng hình, tâm tư tình cảm, ao ước, khát vọng, tính cách, phẩm chất, lối sống của những con người đất Việt. Mỗi danh lam thắng cảnh là một bức tượng đài bất tử về vẻ đẹp tâm hồn người Việt Nam. Ngợi ca núi sông hùng vĩ, diễm lệ thực chất là ngợi ca, tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân. Không có nhân dân từ bao đời với tâm hồn cao quý, khát vọng cao đẹp thì không có những thắng cảnh kỳ thú để con cháu đời đời chiêm ngưỡng.
– Ngẫm về công lao to lớn của nhân dân, về truyền thống của ông cha trong suốt 4000 năm lịch sử, nhà thơ không khỏi rưng rưng bồi hồi xúc động, rạo rực niềm mến yêu. Thán từ “ôi” và dấu ba chấm cuối đoạn đã truyền đến người đọc nhữngnhững xúc cảm sâu lắng, đó là biểu hiện của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chính luận và chất trữ tình, cảm xúc kết hợp vớisuy tưởng tạo nên vẻ đẹp riêng của thơ Nguyễn Khoa Điềm.
- Đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật
– Đoạn thơ đầy ắp chất liệu văn học dân gian. Đó là những sự tích huyền thoại, truyền thuyết.Chính chất liệu dân gian độc đáo, mới mẻ ấy đã mở ra một thế giới vừa bình dị, mộc mạc, vừa thiêng liêng bay bổng. Thể thơ tự do, sử dụng nhiều câu thơ dài, kết cấu quy nạp, biện pháp nghệ thuật liệt kê, giọng thơ tự sự ; ngôn từ, hình ảnh đẹp, giàu sức liên tưởng, triết lí… là những đặc sắc nghệ thuật nổi bật trong đoạn thơ.
– Thể hiện một đề tài quen thuộc, nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn mang những nét riêng, mới mẻ, sâu sắc .Những nhận thức mới mẻ về vai trò của nhân dân trong việc làm nên vẻ đẹp của đất nước ở góc độ địa lý-văn hóa càng gợi lên lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm với đất nước cho mỗi người.
Đoạn số 5:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất nước”, trích trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm:
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.121)
- MỞ BÀI
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
– Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
- THÂN BÀI
- Khái quát
1.1. Hoàn cảnh và mục đích sáng tác
Trường ca “ Mặt đường khát vọng” viết năm 1971 tại chiến khu Trị- Thiên, giữa không khí sục sôi chống Mĩ của cả dân tộc và được in lần đầu năm 1974. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, giúp họ thấy được vai trò, sứ mệnh của thế hệ mình, từ đó xuống đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc kháng chiến chống Mỹ của toàn dân tộc.
1.2. Nội dung đoạn trích “Đất nước”
Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật.Mỗi nhà thơ đều có những cảm nhận rất riêng về đất nước nên hình ảnh đất nước, Tổ quốc hiện lên văn học thật muôn màu muôn vẻ. Các nhà thơ cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm thường thể hiện vẻ đẹp đất nước bằng những hình ảnh hoành tráng, kỳ vĩ, mỹ lệ hay gắn đất nước với một thời điểm lịch sử cụ thể. Điển hình như Nguyễn Đình Thi đã viết về đất nước bằng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ:
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
(Việt Nam quê hương ta – Nguyễn Đình Thi)
Hoàng Cầm gắn hình ảnh đất nước với cuộc kháng chiến chống Pháp:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
(Bên kia Sông Đuống – Hoàng Cầm)
Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đất nước đã thể hiện những cảm nhận rất mới mẻ, sâu sắc. Nhà thơ đã chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc; giọng điệu thủ thỉ tâm tình như lối trò chuyện thân mật; hình ảnh và ngôn từ giản dị mang đậm màu sắc dân gian và viết về đất nước trong một không gian và thời gian rộng. Từ chỗ cảm nhận đất nước ở ba chiều là chiều dài về lịch sử, chiều rộng về địa lí và chiều sâu về văn hóa phong tục nhà thơ đi đến khẳng định tư tưởng có tính then chốt: Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”.
1.3. Bố cục Đoạn trích gồm hai phần:
– 42 câu đầu: Cảm nhận về đất nước trong tính toàn vẹn ở các phương diện nhiều mặt: địa lý, lịch sử, văn hoá, tâm hồn và lối sống.Từ đó nhà thơ khơi gợi ý thức trách nhiệm của mỗi người với đất nước.
– 46 dòng cuối: Tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
- Phân tích đoạn thơ:Tư tưởng đất nước của nhân dân ở phương diện lịch sử và văn hóa
2.1. Giới thiệu đoạn thơ
– Ở các đoạn thơ trước nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận về cội nguồn thiêng liêng của đất nước và thấy đất nước rất gần gũi, thân thiết với mỗi con người và lớn lên trưởng thành trong gian lao, vất vả. Đất nước có chiều dài lịch sử đằng đẵng, không gian địa lí mênh mông và có nền văn hóa, văn hiến lâu đời, đậm đà bản sắc. Đất nước ở trong mỗi con người, là máu là xương là huyết lệ bởi vậy mỗi con người đều phải có trách nhiệm với đấy nước. Sau đó, nhà thơ bắt đầu đi vào thể hiện tư tưởng có tính then chốt trong suốt đoạn trích là tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” và thể hiện tư tưởng đất nước của nhân nhân ở cả ba chiều địa lí, lịch sử và văn hóa, phong tục.
– Tư tưởng đất nước của nhân dân là tư tưởng tiến bộ đã manh nha từ thời trung đại. Từ “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Sau này Phan Bội Châu cũng khẳng định “Nước là dân, dân là nước”… Đến giai đoạn 1945 – 1975, tư tưởng này đã thấm nhuần trong các tác phẩm văn học.Không chỉ trong thơ Nguyễn Khoa Điềm mà trong thơ của hầu hết các nhà thơ từ thời chống Mỹ đều có những cảm nhận sâu sắc về nhân dân và coi đó là nền tảng của lòng yêu nước. Thanh Thảo trong trường ca “Những người đi tới biển” đã khắc hoạ chân dung của những con người bình dị và dùng những lời ngợi ca xúc động nhất để nói về nhân dân:
Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
Và cứ thế nhân dân cao vời vợi
Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời
Tuy nhiên, phải đến “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm thì tư tưởng đất nước của nhân dân mới trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên thấm vào trong tất cả những thành tố thuộc về đất nước. Trong đoạn trích “Đất nước” nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm chủ yếu cảm nhận đất nước ở ba chiều là chiều dài lịch sử, chiều rộng địa lí, chiều sâu về văn hóa phong tục và sau đó tư tưởng đất nước của nhân dân cũng được triển khai theo ba chiều ấy. Chính nhân dân đã làm nên dáng hình đất nước, làm nên lịch sử và làm nên nền văn hóa, văn hiến lâu đời của đất nước.
– Đoạn thơ này thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân ở chiều lịch sử, khẳng định chính nhân dân đã làm nên lịch sử dân tộc. Tác giả đã viết hoa từ “Đất Nước” để gợi sự yêu mến, tự hào, thành kính, thiêng liêng.
2.2. Năm câu thơ: Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm đất nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Nhìn vào lịch sử 4000 năm của đất nước và khẳng định chính nhân dân làm nên lịch sử
– Sau khi đã khẳng định vai trò của nhân dân làm nên bức tranh địa lý- văn hóa muôn màu muôn vẻ, nhà thơ tiếp tục bày tỏ những suy tư, nhận thức của mình về vai trò của nhân dân trong việc làm ra lịch sử và truyền thống của đất nước.Em là nhân vật trữ tình không xác định, cũng có thể là sự phân thân của tác giả để độc thoại với chính mình.Cụm từ “em ơi em” khiến cho đoạn thơ trở thành lời thủ thỉ, tâm tình tha thiết và dễ đi vào lòng người.Với những tâm tình tha thiết ấy, nhà thơ đã đưa chúng ta về quá khứ, lịch sử 4000 năm Đất Nước và thể hiện niềm tự hào trước lịch sử lâu đời của dân tộc. Lịch sử ấy ai mà không tự hào nên nó đã trở thành nguồn cảm hứng của bao nhiêu thi sĩ:
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm!
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
– Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc.
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…
– Nhìn vào chiều dài lịch sử lâu đời của đất nước, nhà thơ đã không nhắc lại các triều đại hay kể tên các bậc vua chúa, các vị anh hùng mà nhắc đến nhân dân. Trong đoạn thơ nhà thơ viết hoa chữ “Nhân dân” để thể hiện sự trân trọng, mến yêu. Nhân dân là những conngười vô danh đã cống hiến và hi sinh cho đất nước một cách tự nguyện. Nhân dân là biết bao thế hệ những người con gái, con trai, là 4000 lớp người trong lịch sử. Họ bằng tuổi với thế hệ thanh niên thời chống Mĩ. Họ là những con người bình thường nhưng chính họ đã làm ra đất nước. Vì thế, đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người vô danh bình dị đó.Cụm từ “bằng tuổi chúng ta”, và cụm từ “giống ta lứa tuổi” ở sau cho thấy đoạn thơ là lời thủ thỉ tâm tình hướng về thế hệ trẻ miền Nam vùng tạm chiếm giúp họ ý thức được vai trò, sứ mệnh của thế hệ mình mà đóng góp công sức để bảo vệ đất nước.
2.3. Các câu thơ: Cần cù làm lụng
…Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Nhân dân đã làm nên lịch sử như thế nào?
– Họ cần cù lao động:Trong những câu thơ đầu của đoạn trích “Đất nước” nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cho thấy khởi thủy và quá trình lớn lên của đất nước chính là quá trình lao động lam lũ để làm ra hạt gạo, của cải vật chất “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Đất nước lớn lên trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ bờ cõi, trong những cuộc trường chinh không ngừng nghỉ để bảo vệ đất nước “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.Và đến đoạn thơ này nhà thơ cho chúng ta thấy quá trình ấy đều là đóng góp của nhân dân. Đất nước 4000 năm lịch sử là 4000 thế hệ những người con gái con trai đã cống hiến, hi sinh. Họ đã làm nên đất nước, tạo ra lịch sử dân tộc bằng cách:
“Cần cù làm lụng”
Sống trongmột đất nướcmà nông nghiệp là chính, người nhân dân ta từ bao đời chỉ cần cù lao động, chịu thương chịu khó để nuôi sống gia đình, góp phần làm nên đất nước. Cả cuộc đời họ chỉ gắnvới con trâu, thửa ruộng và hầu như không ra khỏi lũy tre làng:
Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó.
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Nguyễn Đình Chiểu)
– Họ chống giặc ngoại xâm: Nhưng khi có giặc xâm lược, chính những người dân bình thường ấy chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Người con trai sẽ ra trận, người con gái ở nhà trở thành hậu phương vững chắc. Khi giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh, đánh giặc đến cùng giống như lời nhân vật chị Út Tịch trong “Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Thi “Còn cái lai quần cũng đánh”. Với tinh thần yêu nước nồng nàn, những người nông dân áo vải ấy vụt lớn lên:
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng
(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
Nguyễn Khoa Điềm đã nêu lên một sự thật lịch sử là trong bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước, có biết bao thế hệ cha anh dũng cảm chiến đấu, hy sinh và trở thành anh hùng mà tên tuổi của họ “cả anh và em đều nhớ”:
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Nhưng cũng có hàng triệu, hàng triệu người cũng trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước đã ngã xuống. Họ không phải là những anh hùng mà là những người dân vô danh, bình dị đã sống và chết giản dị và bình tâm, không ai nhớ mặt, nhớ têncủa họ nhưng chính họ có công làm ra đất nước.
– Tư tưởng đất nước của nhân dân ởchiều sâu văn hóa (Họ tạo ra, gìn giữ và truyền lại cho đời sau các giá trị vật chất và tinh thần của đất nước): Nhân dân không chỉ là người xây dựng và bảo vệ đất nước mà còn là người làm nhiệm vụ vô cùng thiêng liêng ấy là truyền lại cho thế hệ tiếp nối những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần như truyền hạt lúa, truyền lửa, truyền tiếng nói, truyền tên xã tên làng, đắp đập be bờ cho người đời sau trồng cây hái trái… Cha ông đã để lại cho con cháu nền văn minh nông nghiệp lúa nước ngàn đời, truyền cho con cháu ngọn lửa sáng ngời sau bao năm tháng sống trong tối tăm, lạnh lẽo. Truyền cho con thứ ngôn ngữ tiếng nói của riêng dân tộc mình, giữ cho mình cái văn hóa làng, xã trong mỗi chuyến di dân, tạo dựng cơ sở vật chất, đất đai để cho các thế hệ kế tiếp phát triển trên mảnh đất ấy…Để rồi trong cái nôi văn hóa truyền thống ấy, chúng ta được sinh ra và dần lớn lên, chập chững những bước đi đầu tiên trên mặt đất và bập bẹ hai tiếng “mẹ, cha” ngọng nghịu.Tiếng nói đầu tiên là tiếng “mẹ” yêu thương, tiếng nói đầu tiên của ta cũng là tiếng nói của đất nước đã có tự bao đời. Tiếng nói ấy chính là “Hồn thiêng sông núi” (Huy Cận), là “Tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua” (Hoài Thanh). Ngay từ tiếng nói đầu tiên ấy, ta đã trở thành con người đất Việt, “Hồn thiêng sông núi” đã bắt đầu hình thành mạch ngầm trong huyết quản. Và những giá trị vật chất, tinh thần ấy rồi sẽ theo chúng ta trong suốt cuộc đời, khiến ta tự hào được trở thành con cháu Rồng, Tiên.
- Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
Với hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc, giọng thơ vừa tự sự vừa trữ tình…Tác giả đã chọn tư liệu văn hóa dân tộc trong ca dao, thể hiện cảm xúc, ý nghĩ. Hiện lên rõ mồn một là chân dung tinh thần của nhân dân. Tâm hồn dân tộc gửi vào trong dân gian gian nay trở thành chiều sâu văn hóa.Nhìn ở cả chiều dài, chiều rộng và chiều sâu đều thấy được vai trò của nhân dân vừa làm ra vừa bảo vệ.Cho nên “Đất Nước này là đất nước của nhân dân”.
Đoạn thơ vừa là lời tâm tình,vừa là lời nhắn nhủ của nhà thơ với tất cả mọi người phải nhận thức đúng vai trò to lớn của nhân dân trong việc làm nên truyền thống lịch sử, văn hóa của đất nước bằng chính lòng biết ơn của mình.
Đoạn số 6:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất nước”, trích trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm:
“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”.
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.121,122)
- MỞ BÀI
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
– Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
- THÂN BÀI
- Khái quát
1.1. Hoàn cảnh và mục đích sáng tác
Trường ca “ Mặt đường khát vọng” viết năm 1971 tại chiến khu Trị- Thiên, giữa không khí sục sôi chống Mĩ của cả dân tộc và được in lần đầu năm 1974. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, giúp họ thấy được vai trò, sứ mệnh của thế hệ mình, từ đó xuống đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc kháng chiến chống Mỹ của toàn dân tộc.
1.2. Nội dung đoạn trích “Đất nước”
Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật.Mỗi nhà thơ đều có những cảm nhận rất riêng về đất nước nên hình ảnh đất nước, Tổ quốc hiện lên văn học thật muôn màu muôn vẻ. Các nhà thơ cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm thường thể hiện vẻ đẹp đất nước bằng những hình ảnh hoành tráng, kỳ vĩ, mỹ lệ hay gắn đất nước với một thời điểm lịch sử cụ thể. Điển hình như Nguyễn Đình Thi đã viết về đất nước bằng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ:
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
(Việt Nam quê hương ta – Nguyễn Đình Thi)
Hoàng Cầm gắn hình ảnh đất nước với cuộc kháng chiến chống Pháp:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
(Bên kia Sông Đuống – Hoàng Cầm)
Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đất nước đã thể hiện những cảm nhận rất mới mẻ, sâu sắc. Nhà thơ đã chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc; giọng điệu thủ thỉ tâm tình như lối trò chuyện thân mật; hình ảnh và ngôn từ giản dị mang đậm màu sắc dân gian và viết về đất nước trong một không gian và thời gian rộng. Từ chỗ cảm nhận đất nước ở ba chiều là chiều dài về lịch sử, chiều rộng về địa lí và chiều sâu về văn hóa phong tục nhà thơ đi đến khẳng định tư tưởng có tính then chốt: Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”.
1.3. Bố cục Đoạn trích gồm hai phần:
– 42 câu đầu: Cảm nhận về đất nước trong tính toàn vẹn ở các phương diện nhiều mặt: địa lý, lịch sử, văn hoá, tâm hồn và lối sống.Từ đó nhà thơ khơi gợi ý thức trách nhiệm của mỗi người với đất nước.
– 46 dòng cuối: Tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
- Phân tích đoạn thơ: Tư tưởng đất nước của nhân dân thể hiện qua chiều sâu văn hóa, phong tục và lời ca ngợi non sông đất nước
2.1. Giới thiệu đoạn thơ
– Ở các đoạn thơ trước nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận về cội nguồn thiêng liêng của đất nước và thấy đất nước rất gần gũi, thân thiết với mỗi con người và lớn lên trưởng thành trong gian lao, vất vả. Đất nước có chiều dài lịch sử đằng đẵng, không gian địa lí mênh mông và có nền văn hóa, văn hiến lâu đời, đậm đà bản sắc. Đất nước ở trong mỗi con người, là máu là xương là huyết lệ bởi vậy mỗi con người đều phải có trách nhiệm với đấy nước. Sau đó, nhà thơ bắt đầu đi vào thể hiện tư tưởng có tính then chốt trong suốt đoạn trích là tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” và thể hiện tư tưởng đất nước của nhân nhân ở cả ba chiều địa lí, lịch sử và văn hóa, phong tục.
của non sông đất nước.Từ những vẻ đẹp ấy – Tư tưởng đất nước của nhân dân là tư tưởng tiến bộ đã manh nha từ thời trung đại. Từ “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Sau này Phan Bội Châu cũng khẳng định “Nước là dân, dân là nước”… Đến giai đoạn 1945 – 1975, tư tưởng này đã thấm nhuần trong các tác phẩm văn học.Không chỉ trong thơ Nguyễn Khoa Điềm mà trong thơ của hầu hết các nhà thơ từ thời chống Mỹ đều có những cảm nhận sâu sắc về nhân dân và coi đó là nền tảng của lòng yêu nước. Thanh Thảo trong trường ca “Những người đi tới biển” đã khắc hoạ chân dung của những con người bình dị và dùng những lời ngợi ca xúc động nhất để nói về nhân dân:
Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
Và cứ thế nhân dân cao vời vợi
Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời
Tuy nhiên, phải đến “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm thì tư tưởng đất nước của nhân dân mới trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên thấm vào trong tất cả những thành tố thuộc về đất nước. Trong đoạn trích “Đất nước” nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm chủ yếu cảm nhận đất nước ở ba chiều là chiều dài lịch sử, chiều rộng địa lí, chiều sâu về văn hóa phong tục và sau đó tư tưởng đất nước của nhân dân cũng được triển khai theo ba chiều ấy. Chính nhân dân đã làm nên dáng hình đất nước, làm nên lịch sử và làm nên nền văn hóa, văn hiến lâu đời của đất nước.
– Đoạn thơ này thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân ở chiều sâu văn hóa phong tục, khẳng định chính nhân dân đã làm nên chiều sâu văn hóa ấy. Tác giả không chỉ viết hoa từ “Đất Nước” mà còn viết hoa từ “Nhân dân” để gợi sự yêu mến, tự hào, thành kính, thiêng liêng.
2.2. Đoạn thơ: Để đất nước này là đất nước của Nhân dân
… Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Tư tưởng đất nước của nhân dân ở phương diện văn hóa, văn học dân gian
– Có thể nói “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là một khúc ca thể hiện nhận thức về của nhà thơ về đất nước. Đất nước chính là trí tuệ, tâm hồn và ý chí của nhân dân.Khi mạch cảm xúc lên cao trào nhà thơ đi đến khẳng định ‘Để đất nước này là Đất Nước của Nhân dân”.Vế câu “Đất Nước của Nhân dân” được nhà thơ lặp lại hai lần như để khẳng định sâu sắc rằng nhân dân chính chủ thể làm nên đất nước và cho thấy đây cũng chính là cảm hứng chủ đạo được thể hiện trong suốt đoạn trích và cả chương V của bản trường ca.
Vế câu thứ hai “Đất Nước của ca dao thần thoại” được nhà thơ đặt ở cuối câu để nhấn mạnh, đã gợi lên một không gian đất nước đầy thiêng liêng, kì diệu. Đó là đất nước của những câu ca dao dân ca đầy yêu thương, tình nghĩa, là bài ca về tình yêu lao động, về tinh thần lạc quan, yêu đời… mà ở đó ta cảm nhận được sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam. Đó là đất nước của thần trụ trời, làm trụ đẩy trời lên cao tạo nên trời đất, vũ trụ, muôn loài… Ở đây, nhà thơ nhắc đến hai thể loại văn học dân gian tiêu biểu của người Việt là ca dao, thần thoại là để khẳng định đất nước của nền văn hóa, văn học dân gian đậm đà bản sắc dân tộc.Văn hóa, văn học dân gian là linh hồn dân tộc, là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân do chính nhân dân sáng tạo, lưu truyền. Nó là sản phẩm tinh thần, tâm tư tình cảm, là trí tưởng tượng bay bổng của nhân dân nên nhắc đến văn hóa văn học dân gian, ca dao thần thoại là nhắc đến nhân dân và để khẳng định chính nhân dân đã sáng tạo ra đất nước.
– Để chứng minh “Đất Nước của ca dao, thần thoại”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lấy lại ý ba câu ca dao có nội dung sâu sắc để nói về ba phẩm chất đã trở thành truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam. Trong đó:
+ Câu thơ “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi” lấy lại ý của câu ca dao:
Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru
Chính ca dao, vẻ đẹp của tâm hồn cha ông trong văn học đã “dạy anh biết” truyền thống chung thủy, say đắm mãnh liệt trong tình yêu để anh biết yêu em chân thật, thủy chung.
+ Câu thơ “Biết quý công cầm vàng từ những ngày lặn lội” lấy lại ý từ câu ca dao:
Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng
Ca dao chứa trong nó văn hóa, thói quen, tập quán, nếp nghĩ nếp cảm của người Việt Nam. Nó không chỉ dạy anh biết yêu mà còn dạy cho anh biết người Việt Nam không quý trọng vật chất mà trọng tình trọng nghĩa, quý trọng sức lao động, có truyền thống nhân nhân nghĩa, thủy chung.
+ Hai câu thơ “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy – Đi trả thù mà không sợ dài lâu” lấy lại ý từ câu ca dao:
Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre thành gậy, gặp đâu đánh què
Cụm từ “Dạy anh biết” và điệp từ “biết” được được lặp lại 3 lần, trong đó có 2 lần đứng ở đầu các câu thơ đã khẳng định ca dao như nguồn sữa mẹ dạt dào nuôi lớn tâm hồn người Việt Nam. Cũng chính ca dao đã dạy cho anh biết truyền thống quyết liệt, bền bỉ và kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm. Truyền thống ấy giúp ta lí giải vì sao trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc, gần trăm năm bị Pháp đô hộ và không biết bao lần bị giặc ngoại xâm chiếm giữ nhưng đến nay đất nước vẫn toàn vẹn, thống nhất.
2.3. Bốn câu thơ: Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…
Lời ca ngợi non sông đất nước
– Vẻ đẹp của những dòng sông: Kết lại đoạn trích “Đất nước” là những cảm nhận rất tinh tế, là lợi ngợi ca vẻ đẹp của quê hương, đất nước. Mở đầu đoạn thơ là thán từ “Ôi” chứa nhiều cảm xúc.Đó là cảm xúc ngỡ ngàng nhưng chứa đầy sự trìu mến, tình cảm yêu thương khi khám phá ra vẻ đẹp của những con sông khi nó chảy về đất Việt. Câu thơ “Ôi, những dòng sông đều bắt nước từ đâu” xác nhận một đặc điểm về địa lí là hầu hết các con sông trên đất nước ta đều có nguồn gốc từ bên ngoài, các dòng sông lớn như sông Hồng, sông Mê kông… đều bắt nguồn từ các nước lân cận. Nhưng nhà thơ thấy không cần xác định nguồn gốc của những con sông là ở đâu mà chỉ cần biết một hiện thực là tất cả các dòng sông khi chảy đến mảnh đất quê hương đều “bắt lên câu hát”, đều trở nên có hồn, có sinh khí và sức sống mới.
– Vẻ đẹp của con người Việt Nam trên các dòng sông: Khi về đến đất nước mình, các dòng sông bỗng chốc như trở nên tươi đẹp và người thổi hồn, thổi sinh khí và sức sống vào những con sông ấy chính là những người dân đất Việt. Các dòng sông “bắt lên câu hát” bởi nó hòa theo tiếng hát của những con người đang lao động. Họ vừa hăng say lao động, chèo đò, kéo thuyền vượt thác vừa ca hát ngợi ca quê hương, đất nước; ca hát về tình yêu lao động và khao khát đóng góp công sức của mình để xây dựng, làm giàu cho đất nước.
Vẻ đẹp của con người Việt Nam trong lao động đã được nhà thơ Huy Cận miêu tả đầy cảm xúc trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”:
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Đó là tiếng hát của con người trên dòng sông Lô trong thơ Tố Hữu:
Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca…
(Ta đi tới – Tố Hữu)
Vẻ đẹp của con người lao động trên sông nước cũng từng được nhà văn Nguyễn Tuân thể hiện rất sâu sắc qua nhân vật ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà”. Cuộc đời người lái đò vô danh nơi ngọn thác hoang vu khuất nẻo giữa núi rừng Tây Bắc đã trở thành bức tượng đài sừng sững về con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên để giành lấy cuộc sống.
– Đất nước có trăm núi, ngàn sông và mỗi dòng sông mang một dáng hình, màu vẻ khác nhau. Trên mỗi dòng sông là hình ảnh con người Việt Nam với những vẻ đẹp khác nhau. Các câu thơ cho thấy, mỗi con người Việt Nam trong công cuộc lao động mưu sinh lại bộc lộ ra những vẻ đẹp khác nhau để rồi cuối cùng tạo nên một dòng chảy văn hóa kéo dài suốt 4000 ngàn năm văn hiến, tạo ra vẻ đẹp trăm màucủa con người Việt Nam, chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng đất nước sẽ đi đến một ngày mai tươi sáng.
- Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
Đoạn thơ sử dụng chất liệu chính là ca dao, dân ca. Điều đáng chú ý là nhà thơ không trích dẫn nguyên văn câu ca dao mà chỉ lấy lại ý để thể hiện những liên tưởng, suy ngẫm vừa độc đáo vừa sâu sắc. Từ “Đất Nước” được viết hoa và nhắc lại nhiều lần cùng giọng thơ chính luận trữ tình đã bộc lộ suy nghĩ sâu sắc và nói lên những tình cảm tha thiết đối với đất nướclàm cho nội dung chính luận vốn khô khan trở nên mềm mại, ngọt ngào thấm sâu vào lòng người, góp phần bộc lộ tư tưởng bao trùm, xuyên suốt ấy là tư tưởng đất nước của nhân dân.
KẾT LUẬN CHUNG
“Văn học đối với tôi là một hiện tượng đẹp đẽ nhất trên thế giới” (Pautopxky). Kỳ diệu làm sao khi cảm xúc được ngân lên thành thơ, thành nhạc, khi tiếng lòng ta được soi bóng trong những mảnh hồn thơ ca. Văn học sinh ra để cho đời thêm hoa thơm trái ngọt, cho sự sống vút cao trên mỗi trang văn, trang thơ. Đoạn trích “Đất nước”, trích trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm chính là những trang thơ hướng chúng ta đến một tình cảm đẹp đẽ ấy là tình yêu quê hương, đất nước. Để từ khi đọc nó, nếu có ai hỏi tôi hai tiếng thiêng liêng nhất mà tôi biết là gì, tôi chẳng ngần ngại mà trả lời đó là “Đất Nước”, tôi sẽ nói về đất nước, tổ quốc như nhà thơ Nga, Sergei Aleksandrovich Yesenin:
“Ôi nếu như thiên thần lên tiếng gọi
Bỏ nước Nga lên sống ở thiên đường!
Tôi sẽ đáp: Thiên đường xin để đấy
Cho tôi xin ở cùng Tổ quốc yêu thương”