Đề nghị luận truyện ngắn Nghèo của nhà văn Nam Cao, Ngữ văn 11 chương trình mới

ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ I LỚP 11

ĐỌC HIỂU (6,0 điểm)

Đọc văn bản sau:

NGHÈO

(Trích)

(Nam Cao)

– Bu ơi con đói….

Lần này có lẽ là lần thứ mười, thằng cu bé chạy về đòi ăn, chị đĩ (1) Chuột đang quấy một nồi gì trong bếp, cáu tiết chạy ra mắng át nó đi:

– Đã bảo hết cơm rồi, tí nữa chè chín thì ăn chè mà!…

Thấy mẹ gắt, thằng cu không dám đòi ăn nữa, nhưng mặt nhăn nhó bịu xịu như muốn khóc. Chị đĩ Chuột thương hại, dịu dàng bảo:

– Con chạy ra vườn xem chị Gái làm cỏ, lúc nào chè chín bu gọi về mà ăn… chóng ngoan rồi bu thương.

Nhưng nó không nhúc nhích, mà nó còn nhúc nhích làm sao được: một nắm cơm nhỏ ăn từ sáng đã bị cái dạ dày chăm chỉ của con nhà nghèo tiêu hết đánh phèo một cái rồi, còn chi. Nó ngồi phịch xuống đất, gục đầu vào ngưỡng cửa, ngáp…

– Sắp chín chưa, bu?

Quay ra vẫn thấy con nằm phục đấy, mắt lờ đờ như chết lả, chị Chuột chép miệng:

– Thôi đây! Chín chả chín thì đừng, bắc mẹ nó ra cho chúng mày ăn không có chúng mày làm tội cũng chết. Chốc lại nheo nhéo, chốc lại nheo nhéo…

Chị vừa lẩm bẩm, vừa dập lửa rồi bắc cái nồi ở trên bếp xuống, lấy một cái vỏ trai múc vào mấy cái bát sành sứt mẻ tứ tung, đặt ngay trên mặt đất. Thằng cu Bé vội vàng lê xích lại gần, hai mắt lóng lánh đổ dồn cả vào mấy bát “chè” màu nâu đục, khói bốc lên nghi ngút. Mồm nó nuốt nước bọt ừng ực, mũi nó nở hẳn ra như để hít lấy hương vị của khói chè ngon ngọt. Chị đĩ Chuột phải đưa tay cản nó lại, sợ nó sà vào mà bị bỏng. Chị bảo nó:

– Còn nóng lắm, chưa ăn được. Con ra vườn gọi chị về cho chị ăn với không có phải tội chết, nó làm quần quật từ sáng tới giờ mà chưa được tí gì vào bụng.

Không đợi đến hai tiếng, chị Gái hớn hở chạy về, lôi thôi lếch thếch trong mấy mảnh giẻ rách tả tơi, vừa đến bếp nó đã reo lên:

– Sướng quá! Lại được ăn chè kia chứ! Có ngọt không bu? Bu lấy đâu được mật mà lại nấu chè thế?

Chị Chuột mắng yêu con:

– Úi chà! Tíu tít như con mẹ dại ấy! Tha hồ ăn đến chán chê, chỉ sợ không sao nuốt được thôi, con ạ.

Rồi chị bảo thằng cu Bé:

– Bé lại đây, bu cho ăn.

Thằng cu ngồi xổm bên mẹ, hấc mặt lên, há hốc mồm ra như con chim non đợi mẹ mớm mồi. Một miếng vào mồm, nó đã vội nuốt thỏm đi, khen “ngon quá”. Nhưng chưa kịp ăn miếng nữa, nó đã oẹ một cái, mũi đỏ lên, nước mắt ứa ra giàn giụa.

– Sao thế?

Nó chỉ hụ hị nhìn mẹ mà không nói, cũng không chịu há mồm ăn nữa. Cái Gái nhìn mẹ, xêu một miếng chè nữa ăn thử lại:

– Nhạt quá, bu ạ.

Chị Chuột mắng con:

– Làm gì có nhiều mật mà ngọt. Có mà ăn cho no bụng là phúc rồi.

Thằng cu chừng đói quá không chịu được, lại há mồm ra. Mẹ nó đút cho nó một xêu nhỏ nữa. Nó nhắm mắt, duỗi cổ, cố nuốt cho trôi. Nhưng cũng như lần trước, nó lại oẹ ra, và khóc oà lên. Chị đĩ Chuột lấy tay áo lau nước mắt không cầm nổi đã trào ra hai má hõm xanh bng như người ngã nước. Cái Gái lấy ngón tay di một cục “chè”. Rồi bỗng nói to lên:

– À! Con biết rồi! Không phải chè, cám mà! Cám nâu mà bu bảo chè!

Nhưng mẹ nó đưa mắt nhìn nó, lấy ngón tay chỉ ra phía nhà ngoài nói khẽ, nhưng hơi gắt:

– Khe khẽ cái mồm một tí! Réo mãi lên, thằng bố mày nó nghe thì nó chết. Nó đã ốm nằm đấy, thuốc không có, mà còn bực mình thì nó chết.

Rồi hai mẹ con lẳng lặng ăn, cố nuốt những bát cám đặc khè cho đỡ đói. Thằng cu nhất định không chịu ăn, ngồi khóc ti tỉ đòi cơm. Chị đĩ Chuột đành dỗ nó:

– Thôi nín ngay, bu ăn xong bu xin thầy cho một miếng mà ăn.

Chị bế con rón rén bước vào chỗ chõng nằm. Thằng bé vẫn sụt sịt. Anh đĩ Chuột giở mình, hơi nghiêng mặt quay ra. Một làn ánh sáng mờ lướt qua làm cho cái mặt hốc hác và màu da đã xanh lại càng xanh thêm. Mái tóc dài quá xoà xuống tai và cổ, hai con mắt ngơ ngác và lờ đờ, những chiếc răng dài và thưa ở cái mồm hé ra để cho dễ thở khiến anh có cái vẻ dễ sợ của con ma đói. Thấy vợ con, anh cố gượng nhếch miệng cố gượng một cái cười méo xệch và vừa thở phều phào vừa hỏi bằng một thứ tiếng yếu ớt như từ thế giới bên kia đưa lại:

– Nó làm sao thế?

Chị đĩ Chuột xốc con lên một cái:

– Nó vòi đấy chứ có làm sao? Cơm gạo đỏ không chịu ăn, đòi ăn cơm trắng của thầy cơ.

– Thì lấy cho nó ăn, tôi ăn làm sao hết?

Chị đĩ Chuột lấy liễn cơm chực moi cho con một ít. Nhưng anh bảo:

– Mang cả ra cho nó ăn, tôi không ăn nữa đâu. Còn bao nhiêu vét cho cái Gái với bu em ăn hết đi, để nó thiu ra đấy.

Chị đĩ Chuột cười, bảo chồng:

– Thằng cu nó dở người, chứ mẹ con tôi ăn cơm đỏ đã no rồi, ăn vào đâu được nữa?

Anh biết vợ nói dối, chực nói, nhưng lại thôi, buồn rầu buông một tiếng thở dài. Vợ lo ngại hỏi:

– Bây giờ người thế nào, để tôi kể với ông thầy lang lấy thuốc.

– Tiền đâu mà thuốc thang mãi?

– Tôi vừa bán con chó mực với hai buồng chuối non được bốn hào.

Chồng nhìn vợ, ngẫm nghĩ một chút rồi bảo:

– Đừng lấy thuốc nữa, tôi sắp khoẻ rồi, chỉ ăn cho nó khoẻ lên chắc bệnh phải hết. Bu em đong cho tôi cả bốn hào gạo đỏ, đừng đong gạo trắng ăn nhạt lắm.

Vợ gật đầu:

– Cũng được, nhưng đã thật khỏi chưa? Tôi trông thầy em còn mệt lắm.

– Ốm luôn sáu tháng trời làm mà không mệt sao được? Đi đi…

– Đi ngay giờ à?

– Ừ, đi xuống nhà bà phó Cửu ấy, xa một tí nhưng được rẻ.

Vợ gật đầu bảo thằng cu:

– Con ngồi đây với thầy cho bu đi đong gạo nhé?

Nó không chịu, sợ sệt nhìn cha. Chị mắng:

– Con nhà vô phúc, lại sợ bố!… Khốn nạn (2), tại đi về không có tiền mua bánh cho nó nên nó giận đấy mà, phải tội chết, con ạ.

Nhưng anh đĩ Chuột bảo:

– Cho cả nó đi, kẻo nó khóc. Bảo cái Gái về tôi bảo.

*

*        *

(Lược một đoạn: Anh đĩ Chuột nhờ cái Gái lấy cho mình cái ghế và sợi dây thừng ở gác bếp để mắc võng nằm rồi bảo con ra vườn làm cỏ. Anh gắng gượng dậy trèo lên ghế, buộc dây lên xà nhà, lòng chua xót, nước mắt giàn ra hai má lõm. Anh nghe thấy tiếng bà Huyện đến tìm vợ mắng nhiếc để đòi tiền, rồi anh rít hai làm răng lại, quyết định treo cổ tự tử.)

*

*        *

Ở ngoài ngõ, mẹ con chị đĩ Chuột vừa kêu khóc vừa van lạy. Bà Huyện nhất định bắt mẻ gạo mới đong để trừ sáu hào chị Chuột vay từ hai tháng trước cho chồng uống thuốc.

(Theo Nam CaoTruyện ngắn chọn lọc, NXB Văn học, Hà Nội, 2000)

* Chú thích:

(1) Đĩ: từ dùng để gọi thân mật người nông dân có con đầu lòng là con gái và đang còn bé

(2) Khốn nạn: khốn khổ đến mức thảm hại, đáng thương

ĐỀ 1

Lựa chọn đáp án đúng:

Câu 1. Truyện ngắn “Nghèo” của Nam Cao viết về đề tài gì?

  1. Người phụ nữ
  2. Người nông dân
  3. Người trí thức
  4. Thiếu nhi

Câu 2. Truyện ngắn “Nghèo” của Nam Cao sử dụng ngôi kể và điểm nhìn nào?

  1. Ngôi thứ nhất, số ít, người kể chuyện xưng “tôi”; điểm nhìn của người kể chuyện
  2. Ngôi thứ nhất, số ít, người kể chuyện xưng “tôi”; điểm nhìn của nhân vật
  3. Ngôi thứ ba, chủ yếu là điểm nhìn của người kể chuyện
  4. Ngôi thứ ba, chủ yếu là điểm nhìn của nhân vật

Câu 3. Câu chuyện được kể trong truyện ngắn “Nghèo” là gì?

  1. Gia đình chị đĩ Chuột quá nghèo khổ vì đông con, họ thường xuyên phải ăn cám thay cơm
  2. Gia đình chị đĩ Chuột quá nghèo khổ, họ phải vay mượn từng đồng để nuôi đàn con đông đúc
  3. Gia đình chị đĩ Chuột quá nghèo khổ, chồng chị ốm đau nhưng không có thuốc chữa nên phải tìm đến cái chết
  4. Gia đình chị đĩ Chuột quá nghèo khổ, chồng chị phải tìm đến cái chết vì không muốn vợ con phải khổ vì mình

Câu 4. Nhân vật chính trong truyện ngắn “Nghèo” là những ai?

  1. Vợ chồng anh đĩ Chuột
  2. Chị đĩ Chuột và những đứa con
  3. Anh đĩ Chuột và con gái
  4. Vợ chồng chị đĩ Chuột và bà Huyện

Câu 5. Đâu không phải là chủ đề của truyện ngắn trên?

  1. Phản ánh cuộc sống vô cùng khổ cực của người nông dân
  2. Ca ngợi tình cảm vợ chồng, cha con của những con người nghèo khổ khi họ rơi vào cảnh cùng đường
  3. Ca ngợi lòng tự trọng của những con người nghèo khổ khi họ rơi vào cảnh cùng đường
  4. Phản ánh ước mơ được sống cuộc đời lương thiện của con người từng bị tha hóa

Câu 6. Trong truyện, vì sao chị đĩ Chuột phải nói dối chồng về việc chị và cái Gái “ăn cơm đỏ đã no”?

  1. Vì chị muốn chồng không phải nhường cơm cho cả ba mẹ con
  2. Vì chị muốn chồng không phải lo cho mình và cái Gái
  3. Vì chị muốn chồng biết mình và cái Gái không thích ăn cơm trắng
  4. Vì chị muốn chồng thấy cuộc sống của gia đình đã khá hơn

Câu 7. Chi tiết ở cuối truyện dự báo điều gì sẽ xảy ra đối với mẹ con chị đĩ Chuột?

  1. Mẹ con chị sẽ được trả lại mẻ gạo mới đong khi bà Huyện biết chồng chị chết
  2. Mẹ con chị sẽ vùng lên phản kháng và giành lại mẻ gạo mới đong từ tay bà Huyện
  3. Mẹ con chị sẽ đi làm thuê cho nhà bà Huyện để có cái ăn
  4. Nhà chị sẽ không còn gì để mà ăn, chồng chết, mẹ con chị rơi vào cảnh cùng đường

Trả lời câu hỏi/ Thực hiện yêu cầu:

Câu 8. Truyện ngắn “Nghèo” của Nam Cao có đặc sắc gì về nghệ thuật?

Câu 9. Anh/chị hãy cho biết không gian và thời gian trong truyện ngắn “Nghèo” có đặc điểm gì?

Câu 10. Anh/chị hãy khái quát về giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của truyện ngắn “Nghèo”?

ĐỀ 2

Trả lời các câu hỏi sau:

Câu 1. Tìm các chi tiết thể hiện thằng cu bé đói quá thèm ăn

Câu 2.  Ngoại hình của anh đĩ Chuột bị bệnh tật và cái đói tàn phá như thế nào?

Câu 3. Chỉ ra và phân tích tác dụng của một biện pháp tu từ được sử dụng trong câu: Thằng cu ngồi xổm bên mẹ, hấc mặt lên, há hốc mồm ra như con chim non đợi mẹ mớm mồi

Câu 4. Tìm các chi tiết liên quan đến chị đĩ Chuột. Từ đó, khái quát lên đặc điểm về hoàn cảnh, tính cách, số phận của nhân vật?

Câu 5. Anh đĩ Chuột là người như thế nào? Cái chết của nhân vật cho thấy điều gì về số phận người nông dân trước cái đói?

Câu 6. Anh/chị hãy viết đoạn văn (khoảng 7-10 dòng) chỉ ra điểm giống và khác nhau về tư tưởng của nhà văn Nam Cao qua hai truyện ngắn NghèoChí Phèo?

 VIẾT (4,0 điểm)

Anh/chị hãy viết bài văn nghị luận cảm nhận số phận người nông dân trong cảnh đói qua truyện Nghèo của Nam Cao

 

HƯỚNG DẪN CHẤM

ĐỀ 1

Phần Câu Nội dung Điểm
I   ĐỌC HIỂU 6,0
  1 B 0.5
2 C 0.5
3 D 0.5
4 A 0.5
5 D 0.5
6 B 0.5
7 D 0.5
8 Đặc sắc về nghệ thuật:

–  Viết theo thể truyện ngắn, sử dụng ngôi kể thứ ba, chủ yếu sử dụng điểm nhìn của người kể chuyện, thời gian trần thuật ngắn, giọng điệu khách quan.

– Khắc họa nhân vật qua lời nói, cử chỉ, hành động, xây dựng tình huống truyện đặc sắc
Hướng dẫn chấm:

– HS trả lời tương đương như đáp án: 0,5 điểm

– HS trả lời khoảng 2-3 đặc điểm nghệ thuật:  0,25 điểm

– HS không trả lời được hoặc trả lời sai: 0 điểm

0.5
9 Không gian và thời gian trong truyện:

Không gian: làng quê, ngôi nhà (gian bếp, căn buồng, khu vườn, ngõ…) của một gia đình nông dân nghèo, đang lâm vào cảnh cùng cực đói khổ và đau ốm bệnh tật. Đây là một phần không gian thu nhỏ của làng quê Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Thời gian: Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945; ban ngày ở một gia đình nông dân nghèo. Thời gian trần thuật ngắn ngủi nhưng cũng đủ để người đọc hình dung ra cuộc sống bi đát, thê thảm và số phận bất hạnh của người nông dân ở thời kì đó.

Hướng dẫn chấm:

– HS trả lời tương đương như đáp án: 1,0 điểm

– HS trả lời được một nội dung không gian/thời gian: 0,5 điểm

-HS trả lời các ý sơ sài, chưa đầy đủ: 2,25-0,5 điểm

– HS không trả lời được hoặc trả lời sai: 0 điểm

1,0
10 Khái quát giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của truyện ngắn “Nghèo”:

*Giá trị hiện thực:

-Phản ánh tình cảnh đói khổ, khốn cùng thê thảm của người nông dân

-Phơi bày sự vô cảm, tàn bạo của những kẻ có tiền, có quyền

*Giá trị nhân đạo:

– Truyện đã thể hiện sự cảm thông, thương xót của nhà văn cho số phận của những người nông dân nghèo khổ, bất hạnh trong xã hội thực dân nửa phong kiến.

– Tác phẩm là tiếng nói lên án, tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến tàn bạo, xấu xa đẩy con người vào những khổ đau cùng tận của cuộc đời.

– HS trả lời tương đương như đáp án: 1,0 điểm

– HS trả lời được một nội dung giá trị hiện thực/giá trị nhân đạo:  0,5 điểm

-HS trả lời các ý sơ sài, chưa đầy đủ: 2,25-0,5 điểm

– HS không trả lời được hoặc trả lời sai: 0 điểm

1,0
II   VIẾT 4,0
  a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện. 0.5
  b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Cảm nhận số phận người nông dân trong cảnh đói qua truyện ngắn “Nghèo” của Nam Cao 0.5
  c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm

HS có thể triển khai theo nhiều cách, hệ thống luận điểm chặt chẽ, nổi bật được trọng tâm vấn đề nghị luận

Sau đây là một hướng gợi ý:

Mở bài

– Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm và dẫn vào vấn đề nghị luận

Thân bài:

-Khái quát vị trí của tác giả Nam Cao trong nền văn xuôi Việt Nam

– Tóm tắt nội dung chính của truyện

*Cảm nhận số phận người nông dân trong cảnh đói qua truyện ngắn “Nghèo”

-Lời nói, cử chỉ, cảm xúc của ba mẹ con chị đĩ Chuột

+Khi thằng cu bé đòi ăn

+Khi cái Gái và thằng cu bé khi được ăn món “chè”

+Vay bà Huyện tiền mua thuốc thang chạy chữa cho chồng

=> Người mẹ thương con, người vợ đảm đang thương yêu chồng hết mực

-Nhân vật anh đĩ Chuột

+ Ngoại hình bị bệnh tật và cái đói tàn phá

+Anh lựa chọn cái chết để giải thoát cho bản thân và trút đi gánh nặng cho vợ con

=> Người chồng đáng thương, có lòng tự trọng, thương yêu vợ con

– Đánh giá những đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm:

+Nam Cao đi sâu vào miêu tả, phân tích thế giới nội tâm nhân vật, thể hiện tư tưởng của tác phẩm.

+ Giọng điệu Nam Cao có sắc thái đối lập nhau, tưởng chừng dửng dưng, lạnh lùng và đầy chua chát nhưng ẩn sâu bên trong là một trái tim ấm nóng tình người

+Cốt truyện đơn giản, Nam Cao tập trung xây dựng trên cơ sở miêu tả những cuộc đấu tranh nội tâm nhân vật, thể hiện cuộc sống tự nhiên, chân thựcS

Kết bài:

Khái quát lại vấn đề nghị luận, khẳng định giá trị của tác phẩm

Hướng dẫn chấm:

–    Lập luận chặt chẽ, phân tích sâu sắc, có liên hệ mở rộng: 3.54.0 điểm.

– Lập luận chưa chặt chẽ, phân tích được các ý cơ bản: 2.5 – 3.25 điểm

–      Luận điểm chưa rõ ràng, phân tích sơ sài, lan man 1.52.25 điểm.

2.0
  d. Chính tả, ngữ pháp

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt.

0.5
  e. Sáng tạo: Bài viết có giọng điệu riêng; cách diễn đạt sáng tạo, văn phong trôi chảy. 0.5
Tổng điểm 10.0

 

ĐỀ 2

GỢI Ý TRẢ LỜI

Câu 1. Các chi tiết thể hiện thằng cu bé đói quá thèm ăn

– Lần thứ mười, thằng cu bé chạy về đòi ăn

– Mặt nhăn nhó bịu xịu như muốn khóc

– Nó không nhúc nhích

– Nó ngồi phịch xuống đất, gục đầu vào ngưỡng cửa, ngáp…

– Mắt lờ đờ như chết lả

– Thằng cu Bé vội vàng lê xích lại gần, hai mắt lóng lánh đổ dồn cả vào mấy bát “chè” màu nâu đục, mồm nó nuốt nước bọt ừng ực, mũi nó nở hẳn ra như để hít lấy hương vị của khói chè ngon ngọt

– Há hốc mồm ra như con chim non đợi mẹ mớm mồi. Một miếng vào mồm, nó đã vội nuốt thỏm đi, khen “ngon quá”

– Khi biết đó không phải là “chè” nó đã oẹ một cái, mũi đỏ lên, nước mắt ứa ra giàn giụa nhưng lần thứ hai nó nhắm mắt, duỗi cổ, cố nuốt cho trôi. Lần thứ ba thằng cu nhất định không chịu ăn, ngồi khóc ti tỉ đòi cơm

Câu 2.  Ngoại hình của anh đĩ Chuột

  • Khuôn mặt hốc hác và màu da đã xanh lại càng xanh thêm
  • Mái tóc dài quá xoà xuống tai và cổ, hai con mắt ngơ ngác và lờ đờ, những chiếc răng dài và thưa ở cái mồm hé ra để cho dễ thở khiến anh có cái vẻ dễ sợ của con ma đói
  • Anh cố gượng nhếch miệng cố gượng một cái cười méo xệch và vừa thở phều phào vừa hỏi bằng một thứ tiếng yếu ớt như từ thế giới bên kia đưa lại
  • Thằng cu bé nhìn bố sợ hãi
  • Ngoại hình bị cái đói và bệnh tật tàn phá đến mức “thân tàn ma dại”

Câu 3. Biện pháp tu từ so sánh: thằng cu như con chim non đợi mẹ mớm mồi

  • Tác dụng:

+Hình thức:  Làm cho câu văn thêm sinh động, hấp dẫn, tăng sức gợi hình, gợi cảm

+Nội dung: Làm nổi bật hình ảnh đáng thương của thằng cu bị cái đói hành hạ, đang đợi mẹ cho ăn, gợi sự xót thương trong lòng người đọc.

Câu 4. Các chi tiết liên quan đến chị đĩ Chuột:

+ Nấu chè cám để mấy mẹ con ăn cho đỡ đói, dành cơm trắng cho người chồng đau yếu

+ Vừa mắng mỏ, vừa thương hại, dịu dàng với con; mắng yêu con; đút chè cho con ăn

+ Không cầm được nước mắt khi thằng cu bé không ăn được chè cám

+ Nhắc nhở con không được để cho bố nghe thấy việc mấy mẹ con chị đang ăn cám

+ Nói dối chồng về việc mấy mẹ con ăn cơm gạo đỏ chứ không phải ăn cám

+ Hỏi han chồng, muốn dành hết số tiền bán con chó mực và hai buồng chuối để mua thuốc cho chồng

+ Vay tiền mua thuốc cho chồng (từ hai tháng trước)

  • Đặc điểm của nhân vật:

+ Hoàn cảnh: nghèo túng đến cùng cực

+ Tính cách: thương chồng con hết mực, chịu nhiều thiệt thòi để dành những gì tốt đẹp nhất cho chồng con

+ Số phận: bất hạnh, rơi vào cảnh cùng đường

Câu 5.

Anh đĩ Chuột đau ốm đã lâu, gia cảnh lại nghèo túng, “có cái vẻ dễ sợ của con ma đói”. Anh biết vợ con đang đói, phải ăn cám mà bất lực không làm gì được. Khi vợ anh nói muốn mua thêm thuốc cho chồng, anh từ chối và nói dối mình sắp khỏe, anh cũng nói dối “gạo trắng ăn nhạt lắm” để vợ mua “gạo đỏ” cho đỡ tốn tiền; anh tìm đến cái chết vì không muốn vợ con phải khổ, phải hi sinh vì mình; anh cay đắng và đau đớn khi nghe bà Huyện chửi bới vợ con anh.

=> Anh là người chồng hiền lành, thương vợ con, bất lực vì đau ốm, không muốn bản thân mình trở thành gánh nặng.

– Cái chết của nhân vật phản ánh số phận cùng cực của người nông dân nghèo như anh – họ phải tìm đến cái chết để giải thoát cho bản thân và những người trong gia đình. Đồng thời, tác giả gián tiếp phê phán xã hội đương thời đã đẩy người nông dân vào tình cảnh khốn cùng.

Câu 6. HS có thể lựa chọn viết đoạn văn theo hình thức Tổng – phân – hợp, diễn dịch, quy nạp… đảm bảo các nội dung:

*Giống

-Cả truyện ngắn NghèoChí Phèo đều viết về đề tài người nông dân; phản ánh cuộc sống và số phận bi thảm của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945

– Đều thể hiện giá trị hiện thực và tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao

*Khác

– Truyện ngắn Nghèo: Tập trung phản ánh bi kịch của người nông dân bị bần cùng hóa

– Truyện Chí Phèo: Không những cho thấy người nông dân bị bần cùng hóa mà còn bị lưu manh hóa và bị cự tuyệt quyền làm người

 

 

 

BÀI VIẾT THAM KHẢO

Nam Cao từng quan niệm: Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than…”. Ý kiến này xứng đáng là một tuyên ngôn nghệ thuật của trường phái hiện thực. Với quan niệm sáng tác ấy, Nam Cao đã đi sâu vào cuộc sống khốn cùng, lay lắt của biết bao kiếp người – nạn nhân của xã hội cũ mà viết lên những trang đẫm nước mắt. “Nghèo” là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Nam Cao phản ánh chân thực, cảm động tình cảnh đói khổ cùng cực của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám.

Đề tài về người nông dân như một thứ hạt quen thuộc gieo trồng trên mảnh đất văn chương. Biết bao nhà văn, nhà thơ lật đi, xới lại trên mảnh đất quen thuộc ấy và khai sinh ra nhiều kiệt tác. Mỗi trang văn là một thân phận, cảnh ngộ, được kể lại qua những điểm nhìn khác nhau. “Nghèo” của Nam Cao viết về đề tài cái đói, giống như “Tắt đèn”  của Ngô Tất Tố, “Vợ nhặt” của Kim Lân, “Đói” của Bàng Bá Lân…nhưng đọc “Nghèo” ta cứ ám ảnh mãi không dứt bởi hình ảnh niêu “chè” của mẹ con chị đĩ Chuột và câu nói mang tính phát hiện của cái Gái: “À! Con biết rồi! Không phải chè, cám mà! Cám nâu mà bu bảo chè!”

Mở đầu câu chuyện là một câu nói đầy quen thuộc, ám ảnh của làng quê nông thôn trước Cách mạng tháng Tám: “Bu ơi con đói..”. Vẫn là lời than thở ấy khi đây là: “Lần thứ mười, thằng cu bé chạy về đòi ăn” và vẫn là lời quát của chị đĩ Chuột với đứa con: Hết cơm rồi, tí nữa chè chín thì ăn chè mà!… Khung cảnh tưởng chừng bình thường được Nam Cao khắc họa lại là một bức tranh gam màu tối về cái nghèo-cụ thể là cái đói. Liệu rằng, ngay từ nhan đề của tác phẩm, tác giả đã hé lộ ra chuỗi bi kịch của gia đình chị đĩ Chuột nói riêng và người nông dân Việt Nam thuở ấy nói chung? “Cái nghèo” quen thuộc đến nỗi chính Nam Cao phải tự đặt “Nghèo” cho chính tác phẩm của mình.

Sau hàng loạt những lời than đói của thằng cu và lời mắng của chị, “thằng cu không dám đòi ăn nữa, nhưng mặt nhăn nhó, bịu xịu như muốn khóc”. Thấy đứa con của mình như vậy, chị đĩ Chuột tuy là một người nông dân nghèo khổ nhưng chị cũng là một người mẹ thương con: “Chị đĩ Chuột thương hại dịu dàng bảo: Con chạy ra vườn xem chị Gái làm cỏ, lúc nào chè chín bu gọi về ăn.. chóng ngoan rồi bu thương”. Cốt truyện trong Nam Cao cứ đơn giản như thế, chỉ là những lời đối thoại bình thường, không kịch tính như cốt truyện của nhà văn cùng thời khác nhưng lại gây hấp dẫn, tò mò sự khám phá của độc giả. Bức tranh hiện thực về cái nghèo một lần nữa được Nam Cao tái hiện: “Nó không nhúc nhích, mà nó còn nhúc nhích làm sao được: Một nắm cơm nhỏ ăn từ sáng đã bị cái dạ dày chăm chỉ của con nhà nghèo tiêu hết đánh phèo một cái rồi”. Nghèo đến nỗi chỉ có: “Lấy một cái vỏ trai múc vào mấy cái bát sành sứt mẻ tứ tung”. Có thể nói, cái nghèo đã kéo xuống tận cùng khi mọi thứ phù phiếm chỉ là hư vô trong con mắt của những con người bất lực trước cái đói. Đáng thương thay khi tuổi thơ đứa trẻ vốn được hồn nhiên vui chơi, học hành thì khi con người ta đã quá khổ vì không đủ miếng ăn, nó liệu rằng chỉ là một giấc mơ không tồn tại trong trí óc non nớt của chúng? Đặt bàn cân lên giữa miếng ăn với cái học hành thì phải chăng kết quả ai cũng biết chắc chắn?

“Chốc lại nheo nhéo, chốc lại nheo nhéo” -tiếng kêu của cái đói, cái nghèo lặp lại hai lần trong truyện nhưng đó cũng là “tiếng kêu” thực trạng chung của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, nó đau đớn đến nỗi mà “tư tưởng” ấy đã xuất hiện hàng loạt trong các tác phẩm của các nhà văn. Hàng loạt các chi tiết: “Hai mắt lóng lánh đổ dồn cả vào mấy bát chè màu nâu đục, khói bốc lên nghi ngút”; “Mồm nó nuốt nước bọt ừng ực, mũi nó nở hẳn ra”; “há hốc mồm ra như con chim đợi mẹ mớm mồm” – có thể thấy miếng ăn lúc ấy nó xa vời đến dường nào. Cái “miếng ăn” ấy đã khiến Lão Hạc phải tự kết thúc cuộc đời mình với bả chó, khiến Chí Phèo trở thành con quỷ của làng Vũ Đại, khiến chị Dậu phải nuốt nước mắt vào trong để bán đứa con mới 7 tuổi. Dường như, ranh giới giữa “Miếng ăn” và bản tính con người gần như hơn bao giờ hết. Đâu đây, ta vẫn ám ảnh câu nói: “Tao muốn làm người lương thiện. Ai cho tao lương thiện.” (Chí Phèo-Nam Cao)

Bi kịch đến tột điểm của cảm xúc khi: “Mẹ nó đút cho nó một xêu nhỏ nữa. Nó nhắm mắt, duỗi cổ, cố nuốt cho trôi. Nhưng cũng như lần trước, nó lại ọe ra và khóc òa lên”. Chị đĩ Chuột thương con nhưng bất lực trước số phận, cái nghèo, cái đói: “Chị lấy tay áo lau nước mắt không cầm nổi đã trào ra hai má hõm xanh bủng như con người ngã nước”. Và rồi, “món chè” mà chị nói chỉ là cám nâu.

Đọc những trang văn của Nam Cao, ta chợt nhớ đến những vần thơ đầy ám ảnh của Bàng Bá Lân:

“Năm Ất Dậu, tháng ba, còn nhớ mãi

Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương

Những thây ma thất thểu đầy đường

Rồi ngã gục không đứng lên vì… đói”.

(Đói)

Hiện thực năm đói thật vô cùng ám ảnh. Nó đã cướp đi bao số phận nghèo khổ, đẩy con người vào cảnh sống thê thảm. Mẹ con chị đĩ Chuột cũng là nạn nhân của cái đói. Chính cái đói đã đẩy chồng chị Chuột từ một người trụ cột trong nhà giờ đây trở nên ốm yếu, tiều tụy mặt hốc hác và màu da đã xanh lại càng xanh thêm. Mái tóc dài quá xoà xuống tai và cổ, hai con mắt ngơ ngác và lờ đờ, những chiếc răng dài và thưa ở cái mồm hé ra để cho dễ thở khiến anh có cái vẻ dễ sợ của con ma đói. Thấy vợ con, anh cố gượng nhếch miệng cố gượng một cái cười méo xệch và vừa thở phều phào vừa hỏi bằng một thứ tiếng yếu ớt như từ thế giới bên kia đưa lại và chính cái đói đã dồn anh đến bước đường cùng phải thắt cổ tự tìm đến cái chết để vợ con khỏi phải tốn tiền thuốc thang chạy chữa. Trang văn Nam Cao khi về những người khốn khổ ấy như thấm đẫm nước mắt cảm thương. Số phận của vợ chồng anh đĩ Chuột và biết bao nhân vật khác trong Nam Cao đều đen tối, đen tối đến mức muốn chớp một tia hi vọng nhưng cũng không có, cái khoảnh khắc này của chị giống chị Dậu cuối truyện khi chạy ra bầu trời tối đen trong “Tắt đèn” – nó tối đen như cái tiền đồ chị Dậu vậy? Liệu rằng, chính Nam Cao chưa tìm ra cách giải thoát cho số phận nhân vật mình cũng như chính bản thân ông? Quả là: “Đau đớn thay cho những kiếp sống muốn bay cao nhưng lại bị cơm áo gạo tiền ghì sát đất”..

Với cách lựa chọn đề tài, chủ đề không mới-viết về nỗi khổ của người nông dân đương thời qua những thứ nhỏ nhặt, xoàng xĩnh: “Cái đói” nhưng đằng sau những con chữ tưởng chừng như tủn mủn ấy là cả một trữ lượng khổng lồ về con người, nhân tính và xã hội.

“Nghèo” đem đến cốt truyện không mới, ta từng bắt gặp cái cảnh vì nghèo đói mà phải ăn cháo cám như “Vợ nhặt” của Kim Lân, cũng từng bắt gặp cái cảnh vì nghèo đói mà phải bán đứa con của mình trong “Tắt đèn”. Nếu các nhà văn cùng thời rất tập trung xây dựng cốt truyện với nhiều tình tiết hấp dẫn, linh hoạt, biến cố tạo sự kịch tính cho truyện thì cốt truyện của ông có vẻ khiêm tốn hơn, dường như không cần đến sự tổ chức, sắp xếp. Với đoạn trích trên, thay vì chỉ chú ý vào cốt truyện, Nam Cao tập trung xây dựng trên cơ sở miêu tả những cuộc đấu tranh nội tâm nhân vật, thể hiện cuộc sống tự nhiên, chân thực với những cái hằng ngày, bình thường. ”

Nam Cao có thể coi là một bậc thầy truyện ngắn với nghệ thuật miêu tả phân tích tâm lý nhân vật tinh tế, sắc sảo. Ông miêu tả cái cảnh “đói nheo” giữa những lời đối thoại với chị đĩ Chuột, rồi cuối cùng là sự bất lực tột cùng, cao trào của cảm xúc: “Chị đĩ Chuột lấy tay áo lau nước mắt..” Cây bút ấy luôn thể hiện nỗi băn khoăn đến đau đớn trước thực trạng con người bị hủy hoại do cuộc sống đói nghèo đẩy tới. Dường như chủ nghĩa tâm lý đã trở thành một ý thức nghệ thuật thấm nhuần trong sáng tác của Nam Cao, tạo nên một đặc điểm nghệ thuật nổi bật đem đến cho sáng tác của ông một sức hấp dẫn to lớn. Nam Cao không chỉ phản ánh hiện thực xã hội mà còn đi sâu vào miêu tả, phân tích thế giới nội tâm nhân vật, thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Giọng điệu Nam Cao có sắc thái đối lập nhau, tưởng chừng dửng dưng, lạnh lùng và đầy chua chát nhưng ẩn sâu bên trong là một trái tim ấm nóng tình người.

“Sự thật ở bên ngoài to lớn quá, mạnh mẽ quá, ăn hiếp hẳn cuộc đời tưởng tượng, hiện hình bằng giấy trắng mực đen”. Trong giấy trắng mực đen ấy của Nam Cao, bức tranh về một xã hội phong kiến thối nát đã được tái hiện một cách chân thực, đầy đủ nhất với nỗi khổ tận cùng của người nông dân qua đoạn trích “Nghèo”. Nam Cao quả là đã “khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa ai có”.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *