THƠ VĂN NGUYỄN DU
ĐỌC – HIỂU (6,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu:
Quỷ Môn quan
( Trích Bắc Hành tạp lục)
Liên phong cao sáp nhập thanh vân,
Nam bắc quan đầu tựu thử phân.
Như thử hữu danh sinh tử địa,
Khả liên vô số khứ lai nhân.
Tắc đồ tùng mãng tàng xà hổ,
Bố dã yên lam tụ quỷ thần.
Chung cổ hàn phong xuy bạch cốt,
Kỳ công hà thủ Hán tướng quân.
Dịch nghĩa
Núi liên tiếp, cao vút tận mây xanh.
Nam bắc chia ranh giới ở chỗ này
Là nơi nổi tiếng nguy hiểm đến tính mạng.
Thương thay, bao nhiêu ngươì vẫn phải đi về qua đây.
Bụi gai lấp đường, mãng xà, hổ tha hồ ẩn nấp.
Khí độc đầy đồng, quỷ thần mặc sức tụ họp.
Từ thuở xa xưa, gió lạnh đã thổi bao đống xương trắng.
Chiến công của tướng nhà Hán có gì đáng khen!
Chú thích: Quỷ Môn quan ở phía Nam xã Chi Lăng tỉnh Lạng Sơn, địa thế hiểm trở, có núi hình như đầu quỷ mà mệnh danh là Quỉ Môn quan. Cổ thi có câu: “Quỷ Môn quan! Quỷ Môn quan! Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn”. Người Việt đi sứ Trung Quốc có câu: “Rạng ngày đến Quỷ Môn quan, Tiếng xưa thập khứ nhất hoàn là đây.”
Dịch thơ
Núi trập trùng giăng đỉnh vút mây,
Ải chia Nam Bắc chính là đây.
Tử sanh tiếng đã vang đồng chợ,
Qua lại người không ngớt tháng ngày.
Thấp thoáng quỉ đầu nương bóng khói,
Rập rình cọp rắn núp rừng cây.
Bên đường gió lạnh luồng xương trắng,
Hán tướng công gì kể bấy nay
( Quách Tấn dịch -Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học, 1965)
Trả lời các câu hỏi sau (Theo ma trận bên dưới)
Câu 1: Xác định thể thơ ?
Câu 2: Xác định đề tài ?
Câu 3: Hiểu như thế nào về câu thơ “Ải chia Nam Bắc chính là đây”
Câu 4: Cảm xúc của nhân vật trữ tình ?
Câu 5: Hình ảnh “bên đường gió lạnh luồng xương trắng” tượng trưng cho điều gì ?
Câu 6: Xác định biện pháp tu từ và phân tích tác dụng trong hai câu thơ:
…“Thấp thoáng quỉ đầu nương bóng khói,
Rập rình cọp rắn núp rừng cây.”…
Câu 7: Suy nghĩ của anh chị về vấn đề gợi ra ở hai câu cuối ?chiến tranh và chiến công ?
Câu 8: Trách nhiệm của thanh niên đối với quê hương ?
LÀM VĂN (4,0 điểm)
Anh/chị hãy viết bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích nội dung và nghệ thuật của tác phẩm trên
Hướng dẫn đáp án chi tiết
ĐỌC – HIỂU
Câu 1: Thể thơ thất ngôn bát cú
Câu 2: Đề tài vịnh cảnh
Câu 3: Câu thơ nói về Quỉ môn quan. Nơi đây chính là nơi phân chia ranh giới Nam Bắc hay nói khác là nơi phân chia ranh giới hai nước Trung Quốc và Việt Nam
Câu 4: Cảm xúc của nhân vật trữ tình: đi từ choáng ngợp đến bồi hồi bâng khuâng ngậm ngùi xót xa và căm phẫn mỉa mai.
Câu 5: Hình ảnh “bên đường gió lạnh luồng xương trắng” tượng trưng cho những cái chết của kẻ thù trong chiến tranh xâm lược. Qua nghệ thuật liên tưởng , câu thơ giàu sức hiện thực, tố cáo lớn
Câu 6: Biện pháp tu từ đối chỉnh giữa 2 câu “Thấp thoáng quỉ đầu nương bóng khói/
Rập rình cọp rắn núp rừng cây”
Tác dụng: nhấn mạnh sự rùng rợn, bí hiểm, hoang sơ dữ dội của Quỉ môn quan. ở đây, chỗ thì hồn ma bóng khói ẩn hiện thấp thoáng, chỗ thì thú dữ rình rập trong tán lá rừng cây. Thật là rất dọa người. Với bút pháp hiện thực kết hợp liên tưởng đã tạo được cảm xúc thật sự sợ hãi cho bạn đọc.
Câu 7: vấn đề gợi ra từ hai câu cuối đó là chiến tranh và chiến công. Câu trên là hậu quả chiến tranh, câu dưới là chiến công của tướng nhà Hán. Chiến công đó được xây trên bao nhiêu tính mạng con người. Vậy chiến công đó còn có ý nghĩa gì ? Câu thơ có sức tố cáo và mang tinh thần nhân đạo, dân tộc lớn lao.
Câu 8: Trách nhiệm của thanh niên hiện nay là xây dựng đất nước “to đẹp hơn, giàu có hơn”. Muốn vậy phải học tập chăm chỉ, luôn rèn luyện tu dưỡng đạo đức trưởng thành đầy đủ để có đủ tài và đức xây dựng đất nước, xây dựng cuộc sống cá nhân hạnh phúc bền vững
LÀM VĂN
Mở bài:
– Giới thiệu chung về bài thơ: Đây là bài thơ rút ra từ tập “Bắc hành tạp lục”
– Xác định vấn đề sẽ được tập trung bàn luận trong bài viết: Miêu tả khung cảnh quỉ môn quan và nêu cảm xúc khi đứng trước nơi này.
Thân bài:
* Nhan đề:
Quỉ môn quan: Là một địa danh lịch sử thuộc tỉnh Lạng Sơn. Nơi đây từng ghi dấu nhiều trận đánh nổi tiếng trong quá khứ. Lấy tên địa danh đặt tên cho bài thơ, nhà thơ đã phần nào cho ta thấy cảm hứng của mình: Cảm hứng lịch sử.
* Khái quát cấu tứ, phân tích và đánh giá tình cảm qua từng phần của bài thơ
Bài thơ có cấu trúc cảnh tình rất rõ với 6 câu đầu miêu tả cảnh, 2 câu cuối miêu tả tình. Cảm xúc của nhân vật trữ tình cũng đi từ choáng ngợp bâng khuâng đến xót xa căm phẫn mỉa mai châm biếm
* Hình ảnh, chi tiết
– 6 câu đầu: Hình ảnh quỉ môn quan và tâm trạng tác giả: choáng ngợp, bâng khuâng tự hào,
+ Phần đề: hình ảnh quỉ môn quan hiểm trở, hùng vĩ, là nơi phân chia ranh giới hai nước. Câu thơ ẩn chứa cảm xúc choáng ngợp tự hào
+ Phần thực: Đánh giá quỉ môn quan. Đó là nơi nguy hiểm khiến bao người bỏ mạng nhưng vẫn phải đi đi về về
+ Phần luận: Sự dữ dội, rùng rợn của quỉ môn quan vừa giàu chất hiện thực vừa giàu chất suy tưởng. Trong rừng cây thú dữ rình rập, bóng ma ẩn hiện thấp thoáng rợn người.
– 2 câu cuối: Hậu quả chiến tranh và công trạng của tướng nhà Hán. Thật đáng để suy ngẫm có nên hay không. Cặp câu thơ cho thấy tấm lòng nhân đạo và tinh thần phê phán của tác giả
* Đánh giá chung nội dung và nghệ thuật
– Nội dung: ngâm vịnh giàu cảm hứng lịch sử, giàu tinh thần nhân văn, dân tộc, có giá trị trong việc thể hiện vẻ đẹp tâm hồn tác giả: nhân đạo, dân tộc, nghệ sĩ
* Nghệ thuật (Thể thơ, từ ngữ, BPTT…)
– Thể thơ: Đường luật thất ngôn bát cú chặt chẽ.
– Giọng điệu: bi hùng
– Biện pháp tu từ: đối, liên tưởng
– Bút pháp: giàu chất hiện thực
Kết bài: Khẳng định lại sự độc đáo của bài thơ và ý nghĩa của nó đối với việc đem lại cách nhìn mới, cách đọc mới cho độc giả.
– Khẳng định: bài thơ ngâm vịnh có giá trị lớn trong việc khẳng định chủ quyền dân tộc, thể hiện niềm tự hào và vẻ đẹp tâm hồn tác giả
– Liên hệ hiện tại: giữa lúc giới trẻ hiện nay có nhiều người chỉ biết đến nơi cảnh đẹp mà quên tìm đến những nơi ghi dấu ấn lịch sử, bài thơ là một lời nhắc nhở về quá khứ, về trách nhiệm công dân.
Bài viết tham khảo:
Đề tài ngâm vịnh là một trong những đề tài quen thuộc trong văn chương trung đại, đối với các văn nhân thi sĩ thời đó. Ở đề tài này, nhà thơ từng đi sứ sang Trung Quốc như Nguyễn Du có khá nhiều tác phẩm, trong đó có Quỉ môn quan. Bài thơ lấy việc tả cảnh Quỉ môn quan nhưng thực tế điều muốn nói lại là tâm trạng của nhà thơ trước cảnh vừa là nơi sông núi tự nhiên vừa là nơi cửa ải giáp ranh hai nước Trung Việt: Một cảm giác choáng ngợp đầy sự liên tưởng suy ngẫm.
“Núi trập trùng giăng đỉnh vút mây,
…
Hán tướng công gì kể bấy nay”
( Quách Tấn dịch –Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học, 1968)
Cuộc đời của Nguyễn Du là một cuộc đời thăng trầm nhiều trăn trở, từng nếm trải đầy đủ dư thừa cuộc sống nơi lầu son gác tía và cả nghèo khó lang bạt nơi thôn dã. Ông cũng là người tận mắt chứng kiến những cuộc đổi thay sơn hà dữ dội và cũng từng ôm trong lòng những mộng ước vĩ đại lớn lao để rồi ngậm ngùi nhận ra bộ mặt thật sự của cuộc sống giới quí tộc phong kiến. Bắc hành tạp lục của ông chỉ là một tập ghi chép trên đường đi sứ sang Trung Quốc với vai trò là chánh sứ và Quỉ môn quan cũng chỉ là một phần rất nhỏ trong số những ghi chép đó. Bài thơ là những xúc cảm về cảnh núi non hùng vĩ nơi của ải Lạng Sơn và những suy ngẫm về thắng thua được mất nên hay không nên của chiến tranh. Lấy tên địa danh Quỉ môn quan- một nơi thuộc tỉnh Lạng Sơn từng ghi dấu nhiều trận đánh nổi tiếng trong quá khứ – là tiêu đề cho tác phẩm, nhà thơ đã phần nào cho ta thấy cảm hứng của mình: Cảm hứng lịch sử. Đây là phần “tảng băng trôi” ngầm nhưng giàu gí trị nhất của bài thơ
Nhiều người vẫn coi cấu tứ “Là sự lựa chọn sắp đặt ngôn từ hình ảnh tạo nên mạch vận động trong cảm xúc, được triển khai trên toàn bộ bài thơ”. Tứ thơ là ý tưởng bao trùm toàn bộ bài thơ, biểu hiện trong sự liên kết bằng những xúc cảm, suy nghĩ và hình ảnh, biểu hiện trong dạng cấu tạo và phát triển của hình tượng thơ. Tứ không phải là một ý tưởng trừu tượng mà là ý tưởng đã hiện hình cụ thể trong một sắc thái đời sống, qua một hình ảnh, một tâm trạng, một suy nghĩ được chọn làm điểm tựa cho sự vận động của cảm xúc. Tứ quy định một phần giá trị của bài thơ- một phần thôi nhưng lại là phần vi diệu nhất – làm nên sự kết dính vô hình của bài thơ, tạo nên sức sống lâu bền của thơ trong lòng độc giả. Có khi bạn đọc thơ không nhớ không thuộc bài thơ nhưng vẫn nhớ bài thơ nói như thế nào về vấn đề đó. Dựa trên sự phân loại cấu tứ như tương đồng/tương phản, tăng cấp, chuyển hóa, thống nhất các mặt đối lập( động/tĩnh; không gian/thời gian; cảnh/tình) Tứ thơ cũng phải được phát triển ra thành những hình ảnh cụ thể (trong thơ, nhà thơ lập ý bằng hình ảnh). Đúng hơn là, người viết phải cụ thể hóa cái tứ chung thành những ý, cảm xúc và hình ảnh cụ thể. Dù các hình ảnh đó xuất phát từ đời sống thực tế mang nét nghĩa cụ thể hay gợi ra tính biểu tượng rộng lớn như kiếp người lênh đênh trôi dạt qua hình ảnh con thuyền trong thơ Huy Cận “ Con thuyền xuôi mái nước song song”; hay được xây dựng bằng trí tưởng tượng phong phú trong những liên tưởng đầy bất ngờ và thú vị của nhà thơ. Như hình ảnh về thời gian trong thơ Đoàn Phú Tứ:
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Trở lại với bài thơ này, ta thấy tứ thơ có cấu trúc cảnh – tình rất rõ. 6 câu đầu miêu tả cảnh, 2 câu cuối miêu tả tình. 6 câu đầu mở ra một khung cảnh nơi biên ải. vừa quen vừa lạ, vừa ma quái rùng rợn vừa hoang vu hiểm trở khiến bao người khiếp hãi
Núi trập trùng giăng đỉnh vút mây,
Ải chia Nam Bắc chính là đây.
Tử sanh tiếng đã vang đồng chợ,
Qua lại người không ngớt tháng ngày.
Thấp thoáng quỉ đầu nương bóng khói,
Rập rình cọp rắn núp rừng cây.
Câu đầu là một nét vẽ hoành tráng về Quỷ Môn Quan: núi dựng thành cao vút, liên tiếp tận mây xanh. Vừa có núi có mây. Núi trập trùng, liên tiếp cao vút (liên phong cao sáp). Trời xanh làm hiện lên dãy núi cao hùng vĩ. Câu thơ thứ nhất miêu tả bằng trực giác; câu thơ thứ hai đi sâu vào suy ngẫm: Nam Bắc chia ranh giới ở chỗ này! Câu thơ đầy cảm xúc tự hào, khẳng định bờ cõi Tổ quốc thiêng liêng. Ba chữ “tựu thử phân” là một tứ thư mang tính truyền thống. Lý Thường Kiệt đã viết trong Nam quốc sơn hà . “ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư” (Vằng vặc sách trời chia xứ sở). Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã tuyên bố: “ Như nước Đại Việt ta từ trước… Núi sông bờ cõi đã chia”. Vua Quang Trung trên đường tiến binh thần tốc đánh quân Thanh từng nói với tướng sĩ: “ Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị (…) Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài… ” (Hoàng Lê nhất thống chí) – Nguyễn Du đã kế thừa người xưa để nói lên niềm tự tôn dân tộc khi đứng trước Quỷ Môn Quan hùng vĩ. Đặt trong vai trò là một chánh sứ trên đường sang Trung Quốc thì điều này càng ý nghĩa.
Giọng thơ trở nên trầm mặc, vần thơ hàm chứa chất suy tưởng nói lên cái nghịch lý, cái cực kỳ vô lý trong xã hội và lịch sử. Quỷ Môn Quan là đất hiếm sinh tử (sinh tử địa) thế mà vô số người vẫn phải lại qua (vô số khứ nhân lai). Hai chữ “khả liên” (thương cho, hoặc là khá thương thay) diễn tả niềm xót thương của nhà thơ đối với bao người đã phải bỏ mạng nơi cửa ải hiểm trở này: Tử sanh tiếng đã vang đồng chợ/Qua lại người không ngớt tháng ngày. Vần thơ thể hiện một tấm lòng nhân đạo mênh mông. Mộng bành trướng xâm lăng của bọn vua chúa phương Bắc đã xô đẩy vô số binh sĩ, tướng tá của chúng phải giãi thây khắp Quỷ Môn Quan! Đó là chiều sâu trữ tình – cảm hứng lịch sử của bài thơ. Như ta đã biết, Quỷ Môn Quan là “đất chết’”của lũ giặc phương Bắc! Nơi đây, năm 981, Lê Hoàn đại phá giặc Tống; năm 1285, Thoát Hoan phải chui vào ống đồng mới thoát chết lúc chạy qua cửa ải; năm 1427, An Viễn hầu Liễu Thăng bị liêu diệt, hàng vạn giặc bị đánh tơi bời! Quỷ Môn Quan đúng là “sinh tử địa”. Hai câu trong phần luận nói rõ núi Đầu quỷ, núi Hàm quỷ này là “sinh tử địa” như thế nào? Câu thơ chữ Hán với bốn nét vẽ gợi tả không khí thê lương, thảm đạm và rùng rợn của chiến trường xưa:
Thấp thoáng quỉ đầu nương bóng khói,
Rập rình cọp rắn núp rừng cây.
Thật là hiểm trở “bụi gai lấp đầy đường” thật là mịt mờ, hoang vắng và ghê sợ “khí độc đầy đồng”. Cái hiện tại đang rình rập ” hùm rắn núp”. Cái kinh dị ẩn hiện “Quỷ thần nhóm họp”. Bằng trực giác, bằng cảm giác và bằng tưởng tượng, nhà thơ đã tái hiện cảnh tượng chiến trường xưa vô cùng hiểm trở và khủng khiếp. Cái mất đi và cái hiển hiện, cõi âm và cõi dương, thú dữ và quỷ không đầu được đặc tả làm ta nhớ lại điều mà Nguyễn Trãi đã viết trong Bình Ngô đại cáo. “Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường – Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước”. Phần dịch nghĩa của hai câu này là :Bụi gai lấp đường, mãng xà, hổ tha hồ ẩn nấp/Khí độc đầy đồng, quỷ thần mặc sức tụ họp. Hơi tiếc khi phần dịch thơ đã đảo ý và làm mất mát khá nhiều ý thơ trong nguyên tác.
Hai câu kết vừa biểu lộ cách nhìn độc đáo, đầy tinh thần nhân đạo của nhà thơ đối với binh lính chết chóc thảm thương trong những cuộc xâm lược từ phương Bắc tới vừa bộc lộ thái độ mỉa mai đối với chiến công của tướng Hán:
Bên đường gió lạnh luồng xương trắng,
Hán tướng công gì kể bấy nay
Gió lạnh như có thổi xương trắng phơi khắp cửa ải – gió lạnh thổi xương trắng (hàn phong xuy bạch cốt) là một hình ảnh làm xúc động lòng người. Hàng vạn sinh mạng của binh lính Trung Hoa phải trả giá một cách vô nghĩa để thực hiện mộng xâm lăng bành trướng của bọn vua chúa Thiên triều. Nếu “ Đằng giang tự cổ huyết do hồng” thì Quỷ Môn Quan cho đến nay vẫn ào ào suốt đêm ngày “hàn phong xuy bạch cốt”. Câu thơ cuối bài mang giá trị tố cáo và châm biếm sâu sắc. Nhà thơ nghe gió lạnh thổi, nhìn bãi chiến trường xưa đầy “xương trắng” chất đống mà cất tiếng hỏi: “chiến công của tướng quân nhà Hán có gì đáng khen” .Hỏi mà không trả lời. Nói “có gì đáng khen” là cách nói, lối nói phản ngữ; nói mỉa, để lên án và chế giễu Hán tướng. Cái kiểu “tức cảnh sinh tình” với thái độ như thế này trước kẻ thù khiến ta nghĩ tới bài “đề đền Sầm Nghi đống” của Hồ Xuân Hương, một nữ sĩ cùng thời Nguyễn Du.
Ví đây đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu
Chướng tai gai mắt không thể không bật lên lời chế giễu mỉa mai. Chiến tranh để làm gì khi bao quân bị ném vào tử địa ? Khác không gian mà cùng tâm trạng, thái độ. Đó cũng là sự gặp gỡ, đồng điệu dễ thấy xưa nay của các tâm hồn thi sĩ.
Nhìn lại toàn bộ bài thơ, ta thấy những yếu tố nghệ thuật như cấu tứ, xây dựng hình ảnh, tạo giọng điệu khá quen thuộc. Có lẽ, đọng lại gây ấn tượng nhất đó là sự kết hợp giữa ngôn ngữ hình tượng với sự suy ngẫm, liên tưởng và bình giá đã tạo nên cốt cách bài thơ, khi nhà thơ vừa đứng trên cảm xúc thi nhân, vừa đứng trên tinh thần dân tộc để nói về Quỷ Môn Quan, nơi cửa ải hiểm yếu, từng là mồ chôn lũ xâm lược, đem đến cho ta biết bao yêu mến, tự hào.
Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp”. (Pautopxki). Đặc biệt với các nhà thơ. Cái đẹp là yếu tố cơ bản, yếu tố đầu tiên, khởi nguồn của tất cả. Cái đẹp nhà thơ đã khơi gợi trong tâm hồn mỗi độc giả một ấn tượng sâu đậm đó là những suy ngẫm mang tính nhân văn về chiến tranh, hòa bình. Những vấn đề lớn lao muôn thuở xưa nay.