Đề đọc hiểu+ Nghị luận kịch Không một tiếng vang, Vũ Trọng Phụng

THỂ LOẠI BI KỊCH

ĐỌC HIỂU (6,0 điểm) Đọc đoạn trích sau:

Tóm tắt vở kịch:

Vở kịch tái hiện bối cảnh cuộc sống khốn cùng của người dân trước Cách mạng tháng Tám, dưới thời Pháp thuộc. Nhà ông lão mù trước kia vốn thuộc bậc trung lưu, đang sống trong yên ấm thì một trận hỏa hoạn xảy ra, khiến người vợ bị chết cháy, người chồng bị bỏng nặng, mù hai con mắt, gia đình rơi vào cảnh tán gia bại sản. Ông lão mù và vợ chồng người con trai phải mướn nhà của lão Thông Xạ để ở, kiếm ăn độ nhật qua ngày. Do thiếu tiền thuê nhà nên lão Thông Xạ năm lần bảy lượt đến đòi nợ và dọa sẽ đuổi cả nhà ra đường nếu không trả đủ tiền. Hôm ấy, lão Thông Xạ lại đến. Ông lão mù hẹn khi con dâu và con trai đi làm về sẽ gắng trả. Nhưng cô con dâu đi bán bánh trên tàu thì bị nhân viên soát vé đổ mất hàng, người con trai đi làm thì bị cai ăn chặn tiền lương. Nhà hết gạo, thuốc bệnh cho ông bố mù lòa cũng hết, ngày mai giỗ bà mẹ mà chưa biết lấy gì để cúng đơm. Lão Thông Xạ nhất quyết sẽ quay lại và không cho khất nợ thêm nữa. Cả gia đình rơi vào tình cảnh tuyệt vọng. Anh con trai phẫn uất làm càn, đi ăn trộm bị cảnh sát bắt. Ông lão mù tủi cực, nhân lúc cô con dâu đi ra ngoài, đã thắt cổ tự vẫn để không trở thành gánh nặng cho hai con. Cô con dâu trở về thấy cảnh tượng đó, ngã vật xuống đất, thái dương đập vào hòn đá mà ông bố dùng để chặn cửa, chết theo.

Đoạn trích dưới đây là một phần thuộc cảnh I, hồi thứ Hai của vở kịch.

HỒI THỨ HAI

Cảnh I

Ông lão lòa, chị Cả Thuận, anh cả Thuận.

[…]

ÔNG LÃO: – Thế chốc nữa lão Thông Xạ nó quay xe lại thì biết nói thế nào với nó đây?… Thôi hai con nghe thầy, nên lánh mặt nó đi, cứ để thầy ở nhà một mình, thầy tìm cách khất khứa với nó, họa may nó thấy mù lòa, ốm yếu, nó có động lòng thương chăng…

CHỊ CẢ: – Lão ấy nó còn thương ai… Nếu nó có lòng thương người, nó đã chẳng xử với mình đến thế.

ÔNG LÃO: – Chả hơn cả ba bố con ngồi trơ ra đây mà tiền không có trả nó, để điên tiết lên nó thẳng tay quăng đồ đạc ra đường hoặc gọi đội xếp thưa bắt hai chúng mày về bóp thì có phải khổ cả không…

CHỊ CẢ: – Nào, thế cậu định ra sao đây?

ANH CẢ: – Định à?… Chỉ còn một sống một chết, muốn đằng nào thì muốn, chứ sống ngắc ngoải thì không nên sống. Bàn đến kế tránh mặt nó đi thì không xong rồi. Liệu có tránh được mãi không?… Dẫu nó không thưa để mình phải vào bóp mà chỉ vứt đồ ra đường, thì tôi cũng không còn bụng dạ nào làm ăn gì nữa… Ruột gan tôi có phải sắt đá đâu? Giời ơi, nghĩ đến vợ đang dắt bố già lang thang đầu đường xó chợ mà vẫn thản nhiên đi làm cho thằng khác ăn… có là con vật không thương yêu ai, dại như chó thì mới thế được. Mà đi làm về thì ăn vào đâu? Không được ăn mà vẫn đi làm à? Đây này: tôi bây giờ chán cả mọi sự rồi, đi làm tôi cũng không thiết nữa. Phải biết thời buổi này mới được. Tôi mà vô gia cư, tất không thoát tù tội. Vợ tôi mà vô gia cư, tất

 

không thoát được lục sì6. Ông mà vô gia cư, rồi người ta sẽ nhét ông vào bọn ăn mày ngoại ô… Sống ngắc ngoải thế này mà vẫn còn tưởng sống.

CHỊ CẢ: – Nông nỗi đã thế này, chẳng nhẽ cứ để mặc nó muốn nghiêng thì nghiêng, muốn ngửa thì ngửa, đành bó tay chịu chết?

ANH CẢ: – Nếu có gan mà cả ba bố con cùng thắt cổ chết quách đi thì may lắm, thoát được nợ đời thì sung sướng lắm. Khốn nỗi nói đến cái chết thì nói suông được chứ ai mà không sợ chết? Sống ngắc ngoải không sống được, chết cũng không chết được, sao lúc cầm dao đi tìm cách sống mà lại ngăn? Đã đến lúc thế này mà không biết xoay lại còn sợ phạm vào luật pháp với nhân đạo nữa à? Nhân đạo là cái gì? Mà cái gì là luật pháp?

ÔNG LÃO: – Thôi, con đừng nói nữa mà thầy đau lòng, con nên nghĩ lại một chút, nhà ta tuy xưa nay không được dòng dõi quan sang nhưng cũng là nề nếp, lễ nghĩa. Con nghĩ đến ông bà, con nghĩ đến thầy đẻ, con nghĩ đến họ hàng quen thuộc thì con có cam tâm nhúng tay vào những việc ấy không? Đừng nói quẩn, nghĩ quẩn, làm quẩn thế mà có phen hổ thẹn với lương tâm, nếu không tránh khỏi luật pháp, rồi lại hối…

ANH CẢ: – Đến thế này mà còn kể lương tâm với luật pháp. Luật pháp không đáng trọng mà đáng khinh vì xưa nay luật pháp chỉ biết trừng trị kẻ làm càn chứ chẳng biết đến những nguyên do nó buộc người ta phải làm càn… Lương tâm, không nên giữ mà nên bỏ vì sống vào giữa cái xã hội không có lương tâm, nếu mình khư khư giữ lấy lương tâm thì không sống được. (…) Lâm cảnh như mình đây thì phải xoay. Non gan thì ăn cắp vặt, già gan thì ăn cướp, giết người…

[…]

ÔNG LÃO: – Thôi, chẳng qua là mày uất ức nên nói quẫn thế, chứ bố con mình xưa nay ăn ở hiền hậu mà còn cứ vận hạn mãi thế này, nếu lại làm những việc trái đạo thì còn giời nào chứng cho nữa.

ANH CẢ: – (…) Ăn ở hiền hậu mà cứ vận hạn mãi… Đến thế mà còn tin được Giời, Phật nữa à? (thất vọng). (…) Giời Phật, có để làm gì, hở? Có phải chỉ để làm bù nhìn mặc cho loài người chúng nó ăn thịt nhau, thằng nào xỏ lá, bất nhân, lắm ngón xoay tiền thì được vợ đẹp, con khôn, lên xe xuống ngựa; còn người hiền lành thật thà thì bị lợi dụng, bị đè nén, bị hắt hủi, kiếm chẳng đủ áo mặc cơm ăn có phải không? Có Giời, có Phật mà đến thế à? Không có Giời, Phật nào cả. Hoặc có Giời, có Phật nhưng Giời, Phật không đủ quyền phép thiêng liêng, không công minh, không đáng cho ai kính thờ!… Bây giờ ấy à? Chỉ có đồng tiền là Giời, là Phật, chỉ có đồng tiền là đáng kính thờ vì nó sai khiến được mọi người, ai ai cũng phải kính thờ nó mới sống được. Lương tâm à? Còn thua đồng tiền! Luật pháp à? Chưa bằng đồng tiền! Giời Phật à? Còn kém đồng tiền!…

Ông lão đang bị bệnh, lại đói, nghe con nói thế bỗng lả người đi như muốn ngã, nước dãi ở miệng chảy ra ròng ròng. Cả Thuận đỡ bố, nhăn nhó.

ÔNG LÃO: (không nói được nữa, chỉ kêu): Ôi giời ơi! Để tôi chết đi cho rảnh! Cho tôi chết đi!…

CHỊ CẢ: (tất tả vào bếp, xách ra một chiếc chậu thau) – Cậu cứ ở nhà với thầy, tôi đi đằng này một lát.

ANH CẢ: – Định xách chậu đi đâu thế?

CHỊ CẢ: – Để lại cho bác phó. Hôm nọ sang chơi, bác ta có ý muốn mua lại, bây giờ tôi đem sang lấy vài hào về mua bát cháo với lọ dầu cho thầy. Thầy bảo cồn ruột chắc chỉ vì đói quá (tất

6 Lục sì: ý nói làm gái điếm.

tả ra đi).

ANH CẢ: – Này, gượm!… Người ta bảo đã mà lại. Lúc nãy tôi tạt chơi bên ấy rồi. Hiện bây giờ thằng bé con đang lên sởi, hai vợ chồng chạy thuốc đã méo mặt cả, mua bán gì? Chính tôi cũng còn nợ người ta năm hào mà chưa trả được, lúc nãy vào khất đấy…

CHỊ CẢ: (thất vọng đờ đẫn cả người, ra ngồi đắp chiếu cho bố).

ÔNG LÃO: (nằm trong chiếu, vẫn quằn quại kêu rên) – Ôi giời đất ơi, ôi giời đất ơi!

ANH CẢ: (ứa nước mắt, vùng đứng lên rảo bước ra đến cửa, dừng chân ngẫm nghĩ một lát, quay lại nhìn ông bố, rồi đẩy tung cửa ra đi).

CHỊ CẢ: (đang gục mặt, ngẩng lên nhìn rồi hốt hoảng, vùng dậy chạy theo) – Giời ơi!… Cậu lại định đi đâu…Cậu! Cậu…Giời ơi, thầy ơi thầy, rõ khổ chưa!…

ÔNG LÃO: (tung đống chiếu ra, lật đật ngồi lên gọi) – Ới cả!… Ới Thuận!!! (vùng lên chạy ba bước, rồi lả người đi) con mau chạy theo gọi nó lại cho thầy (ngã gục xuống đất).

CHỊ CẢ: (nửa muốn chạy đi gọi chồng, nửa muốn lại nâng bố lên, luống cuống, sau cùng thì quay lại đỡ bố) – Thầy ơi, thầy ngã có đau không? Rõ khổ!

ÔNG LÃO: (khặc khừ, lắc đầu, lả đi)

CHỊ CẢ: (tay run lẩy bẩy, hết sức dìu bố, dẫn lại chỗ chõng tre, để cho ông lão ngồi được yên rồi lả xuống cạnh đấy bất tỉnh nhân sự).

(Trích vở bi kịch nhân sinh Không một tiếng vang, Vũ Trọng Phụng, in trong

Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, Tr.358-364)

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1. Đoạn trích trên có bao nhiêu nhân vật? Đó là những nhân vật nào? (0,5 điểm)

Câu 2. Những câu in nghiêng trong ngoặc đơn có tác dụng gì? (0,5 điểm)

Câu 3. Dựa vào phần tóm tắt và nội dung đoạn trích, hãy cho biết vở kịch “Không một tiếng vang” viết về đề tài gì? (0,5 điểm)

Câu 4. Anh/ chị hãy tóm tắt ngắn gọn nội dung đoạn trích? (0,5 điểm)

Câu 5. Đoạn trích thể hiện mối xung đột giữa những nhân vật nào? Xung đột về vấn đề gì? (0,5 điểm)

Câu 6. Qua đoạn trích, tác giả bày tỏ thái độ gì đối với xã hội đương thời? (1,0 điểm)

Câu 7. Anh/ chị có đồng tình với quan điểm của nhân vật Cả Thuận: Lương tâm à? Còn thua đồng tiền! Luật pháp à? Chưa bằng đồng tiền! Giời Phật à? Còn kém đồng tiền! không? Lí giải vì sao? (1,0 điểm)

Câu 8. Từ nội dung đoạn trích, anh/ chị có suy nghĩ gì về sự cần thiết phải giữ vững lòng lương thiện trong cuộc sống. (Viết khoảng 8 – 10 dòng) (1,5 điểm)

LÀM VĂN (4,0 điểm)

Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề của đoạn trích trên.

THỂ LOẠI BI KỊCH

ĐÁP ÁN

Phần Câu Nội dung Điểm
I   ĐỌC HIỂU 6,0
  1 Đoạn trích có 3 nhân vật, đó là: Ông lão, anh Cả, chị Cả. 0.5
2 Những câu in nghiêng trong ngoặc đơn là những lời chỉ dẫn sân khấu:

hướng dẫn về cử chỉ, điệu bộ, hành động, thái độ của nhân vật.

0.5
3 Đề tài: Người dân nghèo ở thành thị trước Cách mạng tháng Tám. 0.5
4 Tóm tắt đoạn trích: Đoạn trích kể lại cảnh gia đình ông lão mù lâm vào bế tắc khi không biết kiếm đâu ra tiền để trả tiền nhà cho lão Thông Xạ. Anh con trai phẫn chí muốn làm càn, ông lão thì muốn con phải giữ nề nếp gia phong, dẫn đến hai bố con mâu thuẫn gay

gắt.

0.5
5 –  Đoạn trích thể hiện mối xung đột giữa nhân vật ông lão và anh Cả, tức người con trai của ông lão.

–  Xung đột xoay quanh vấn đề về quan điểm sống:

+ Ông lão quan niệm làm người luôn phải đặt đạo đức lên hàng đầu, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.

+ Anh con trai thì cho rằng trong xã hội hiện tại, muốn sống được thì

phải quên đạo đức và lương tâm đi.

0.5
6 Thái độ của tác giả đối với xã hội đương thời được thể hiện qua đoạn trích:

+ Lên án cái xã hội chạy theo đồng tiền, bất chấp luân lý, đạo đức, khiến cho những người lương thiện dần mất đi niềm tin về lẽ phải ở đời (như nhân vật anh Cả).

+ Cảm thông với lớp người lương thiện, nghèo khổ trong xã hội.

1.0
7 Học sinh được tự do bày tỏ quan điểm, miễn là có lý giải thuyết phục. Tham khảo:

–  Vừa đồng tình vừa không đồng tình.

–  Lí giải:

+ Đồng tình, vì quan điểm của cả Thuận đã phản ánh đúng cái bộ mặt phi nhân tính của xã hội thành thị Việt Nam trước Cách mạng dưới sự cai trị của bọn thực dân, phong kiến: một xã hội xuống cấp về đạo đức, đồng tiền trở thành thước đo cho mọi giá trị.

+ Không đồng tình, vì dù cho đồng tiền có sức mạnh ghê gớm như vậy, nhưng nếu con người đủ bản lĩnh, vẫn có thể chiến thắng sức cám dỗ của nó để bảo vệ những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của bản thân mình (như ông già mù hay người con dâu trong đoạn trích, thà đói, thà chịu chết chứ nhất định không vi phạm đạo đức, không

kiếm tiền bất chấp mọi thủ đoạn).

1.0
8 Suy nghĩ về sự cần thiết phải giữ vững lòng lương thiện trong cuộc

sống:

1.5

 

    –   Lòng lương thiện chính là việc một người luôn hành xử đúng với đạo lí và pháp luật.

–  Lòng lương thiện giúp con người luôn có cuộc sống thanh thản; tạo cho con người bản lĩnh vững vàng để không sa ngã trong cuộc sống; được mọi người yêu mến và giúp đỡ, tạo dựng và duy trì được những mối quan hệ tốt đẹp; tránh được những hậu họa khôn lường do những

hành động bất lương gây ra,…

 
II   VIẾT 4,0
  a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận văn học 0,25
  b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Phân tích, đánh giá chủ đề của đoạn trích trên.

0,5
  c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm

Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần giới thiệu được vấn đề cần bàn luận, hệ thống luận điểm chặt chẽ, lập luận thuyết phục, sử dụng dẫn chứng hợp lí. Sau đây là một số gợi ý:

1.  Khái quát tác giả, tác phẩm:

–  Tác giả: Vũ Trọng Phụng là nhà tiểu thuyết hiện thực phê phán nổi tiếng trước Cách mạng tháng Tám, đồng thời là nhà báo, nhà soạn kịch tài năng. Kịch Vũ Trọng Phụng, cũng như phóng sự và tiểu thuyết của ông, đều đi vào phản ánh chân thực cuộc sống thành thị Việt Nam thời kì thực dân phong kiến. Một số vở kịch tiêu biểu: Không một tiếng vang (1931), Tài tử (1934), Cái chết bí mật của người trúng số độc đắc (1937).

–  Tác phẩm: Vở kịch “Không một tiếng vang” được nhà văn sáng tác vào năm 1937. Đoạn trích mà chúng ta sắp đi vào phân tích sau đây thuộc cảnh I, hồi thứ Hai của vở kịch.

2. Phân tích, đánh giá chủ đề:

a.   Chủ đề: Đoạn trích phản ánh hoàn cảnh sống cùng cực của người dân nghèo thành thị trước Cách mạng. Qua đó, nhà văn thể hiện thái độ phê phán mạnh mẽ đối với xã hội đương thời: một xã hội chạy theo đồng tiền khiến cho mọi giá trị bị đảo lộn, khiến những người lương thiện bị đẩy đến đường cùng, mất dần niềm tin vào đạo lí của cuộc sống.

b.  Phân tích, đánh giá chủ đề:

–  Đoạn trích phản ánh chân thực, sinh động hoàn cảnh sống cùng cực của người dân nghèo thành thị trước Cách mạng thông qua gia cảnh của ông lão mù: không có tiền để đóng tiền thuê nhà, người con dâu đi bán hàng trên tàu thì bị đổ mất hàng, anh con trai đi làm thì bị cai ăn chặn tiền lương. Lão chủ nhà lại nhất quyết không cho nợ thêm nữa, đòi quẳng đồ đạc và đuổi cả nhà ra đường.

–  Phê phán xã hội đương thời:

2.5

 

    + Phê phán xã hội coi trọng đồng tiền mà hình tượng nhân vật lão Thông Xạ chính là đại diện. Chỉ vì đòi được tiền thuê trọ, lão không hề đếm xỉa đến gia cảnh cơ cực của ông lão mù. Chính lão là kẻ đã dồn cả nhà vào bước đường cùng, dẫn đến kết cục bi thương về sau.

+ Phê phán một xã hội phi nhân đã khiến cho những con người lương thiện dần mất lòng tin vào đạo lí ở đời. Sự túng quẫn cùng kiệt đã dẫn đến thái độ chua chát, bất mãn với đời ở anh con trai: anh không còn tin vào đạo đức, vào pháp luật, vào giời phật gì nữa. Anh nhận ra trong xã hội này thì những kẻ khôn ngoan, mánh lới, bất lương lại sung sướng, còn người lương thiện thì sống cơ cực. Anh nhận ra đồng tiền là chúa tể của mọi thứ, nó chi phối tất cả, tất cả đều là nô lệ của nó.

3. Vài nét về nghệ thuật:

–   Tạo dựng xung đột kịch thông qua đối thoại, qua đó làm toát lên chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.

–  Ngôn ngữ nhân vật sinh động, giàu tính triết lí, vừa giúp khắc họa nội tâm nhân vật, vừa gián tiếp thể hiện được thực trạng của xã hội đương thời.

–  Hành động kịch dồn nén, tạo nên sức lôi cuốn cho vở kịch.

 
  d. Chính tả, ngữ pháp

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt.

0,25
  e. Sáng tạo: Bài viết có giọng điệu riêng; cách diễn đạt sáng tạo, văn

phong trôi chảy.

0,5
Tổng điểm 10.0

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *