Đề văn 11 thuyết minh về nét đẹp văn hoá của quê hương

VIẾT VĂN BẢN THUYẾT MINH

Đề bài

ĐỌC – HIỂU (6,0 điểm)

Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu:

MỘT THỨ QUÀ CỦA LÚA NON: CỐM

(Thạch Lam)

Cơn gió mùa hạ lướt qua vừng sen trên hồ, nhuần thấm cái hương thơm của lá, như báo trước mùa về của một thức quà thanh nhã và tinh khiết. Các bạn có ngửi thấy, khi đi qua những cánh đồng xanh, mà hạt thóc nếp đầu tiên làm trĩu thân lúa còn tươi, ngửi thấy cái mùi thơm mát của bông lúa non không? Trong cái vỏ xanh kia, có một giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ. Dưới ánh nắng, giọt sữa dần dần đông lại, bông lúa ngày càng cong xuống, nặng vì cái chất quý trong sạch của Trời.

Đợi đến lúc vừa nhất, mà chỉ riêng những người chuyên môn mới xác định được, người ta gặt mang về. Rồi đến một loạt cách chế biến, những cách thức làm truyền từ đời này sang đời khác, một sự bí mật trân trọng và khe khắt giữ gìn, cái cô gái Vòng làm ra thứ cốm dẻo và thơm ấy. Tất nhiên là nhiều nơi cũng biết cách thức làm cốm, nhưng không có đâu làm được hạt cốm dẻo, thơm và ngon được bằng ở làng Vòng, gần Hà Nội.

Tiếng cốm Vòng đã lan khắp tất cả ba kì, và đến mùa cốm, các người của Hà Nội 36 phố phường vẫn thường ngóng trông cô hàng cốm xinh xinh, áo quần gọn ghẽ, với cái dấu hiệu đặc biệt là cái đòn gánh hai đầu cong vút lên như chiếc thuyền rồng…

Cốm là thức quà riêng biệt của đất nước, là thức dâng của những cánh đồng lúa bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ An Nam. Ai đã nghĩ đầu tiên dùng cốm để làm quà sêu Tết. Không gì còn hợp hơn với sự vương vít của tơ hồng, thức quà trong sạch, trung thành như các việc lễ nghi. Hồng cốm tốt đôi… Và không bao giờ có hai màu lại hoà hợp hơn được nữa: màu xanh tươi của cốm như ngọc thạch quý, màu đỏ thắm của hồng như ngọc lựu già. Một thứ thanh đạm, một thứ ngọt sắc, hai vị nâng đỡ nhau để hạnh phúc được lâu bền. (Thật đáng tiếc khi chúng ta thấy những tục lệ tốt đẹp ấy mất dần, và những thức quý của đất mình thay dần bằng những thức bóng bẩy hào nháng và thô kệch bắt chước người ngoài: những kẻ mới giàu vô học có biết đâu mà thưởng thức được những vẻ cao quý kín đáo và nhũn nhặn?)

Cốm không phải thức quà của người vội; ăn cốm phải ăn từng chút ít, thong thả và ngẫm nghĩ. Lúc bấy giờ ta mới thấy thu lại cả trong hương vị ấy, cái mùi thơm phức của lúa mới, của hoa cỏ dại ven bờ: trong màu xanh của cốm, cái tươi mát của lá non, và trong chất ngọt của cốm, cái dịu dàng thanh đạm của loài thảo mộ. Thêm vào cái mùi hơi ngát của lá sen già, ướp lấy từng hạt cốm một còn giữ lại cái ấm áp của những ngày mùa hạ trên hồ. Chúng ta có thể nói rằng trời sinh lá sen để bao bọc cốm, cũng như trời sinh cốm nằm ủ trong lá sen. Khi các cô gái làng Vòng đỗ gánh, giở từng lớp lá sen, chúng ta thấy hiện ra từng lá cốm, sạch sẽ, và tinh khiết, không có mảy may một chút bụi nào. Hỡi các bà mua hàng! Chớ có thọc tay mân mê thức quà thần tiên ấy, hãy nhẹ nhàng mà nâng đỡ, chút chiu mà vuốt ve. Phải nên kính trong cái lộc của Trời, cái khéo léo của người, và sự cố sức tiềm tàng và nhẫn nại của thần Lúa. Sự thưởng thức của các bà sẽ được trang nhã và đẹp đẽ hơn, và cái vui cũng sẽ tươi sáng hơn nhiều lắm.

Thạch Lam, Hà Nội băm sáu phố phường, NXB Đời nay, Hà Nội, 1943

Trả lời câu hỏi/ Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1: Xác định thể loại của văn bản trên?

Câu 2: Em hãy xác định nội dung của đoạn trích trên?

Câu 3: Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được nhà văn sử dụng trong câu sau:

Hồng cốm tốt đôi… Và không bao giờ có hai màu lại hoà hợp hơn được nữa: màu xanh tươi của cốm như ngọc thạch quý, màu đỏ thắm của hồng như ngọc lựu già.

Câu 4. Theo tác giả, cần phải thưởng thức cốm như thế nào? Vì sao? Qua cách thưởng thức này, tác giả thể hiện thái độ nào với món ăn dân dã mà đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc?

Câu 5. Qua đoạn văn, em hãy viết đoạn văn thể hiện những việc làm để giữ gìn, phát huy những giá trị vật chất, tinh thần của quê hương trong khoảng 7 – 10 câu.

LÀM VĂN (4,0 điểm) Chọn 1 trong 2 dạng thuyết minh

Anh/chị hãy viết bài văn (khoảng 600 chữ) thuyết minh về món ăn/ trang phục/ trò chơi/ lễ hội,…truyền thống của địa phương có kết hợp yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm và nghị luận.

Hướng dẫn đáp án chi tiết  

ĐỌC – HIỂU

Câu 1: Tùy bút

Câu 2: Nội dung của đoạn trích: Cốm là thứ quà độc đáo làm từ sản phẩm gần gũi với người dân quê mà cánh đồng dâng tặng con người, nó trở thành món quà văn hóa, phong tục, nhất là phong tục sêu tết trong hôn nhân.

Câu 3:

– Biện pháp so sánh: “màu xanh tươi của cốm như ngọc thạch quý” ; “màu đỏ thắm của hồng như ngọc lựu già”

– Tác dụng:

+ Làm cho câu văn trở nên sinh động, hấp dẫn, giàu hình ảnh, gợi cảm xúc hơn.

+ Làm nổi bật hình ảnh món ăn thân thuộc, dân dã. Đồng thời vừa thể hiện tình cảm trân trọng yêu quý, vừa thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận của tác giả về vẻ đẹp của cốm.

Câu 4:

HS có thể trả lời dựa trên gợi ý sau:

– Cốm không phải là thức quà của người vội vì: Nếu ăn vội sẽ không cảm nhận được hương vị thơm phức của lúa mới, của hoa cỏ dại ven bờ: trong màu xanh của cốm, cái tươi mát của lá non, và trong chất ngọt của cốm, cái dịu dàng thanh đạm của loài thảo mộc, mùi hơi ngát của lá sen già, ướp lấy từng hạt cốm một còn giữ lại cái ấm áp của những ngày mùa hạ trên hồ.

– Cách cảm nhận, thưởng thức cốm của tác giả cho em thấy: Tình cảm yêu mến, cẩn trọng, nâng niu bằng cả tấm lòng; biểu hiện sự lịch sự, văn hóa trong thưởng thức cốm của Thạch Lam.

Câu 5:

Giữ gìn và phát huy những giá trị tinh thần, vật chất của quê hương:

–  Nâng niu, trân trọng.

– Quảng bá, giới thiệu với bạn bè trong nước và quốc tế.

– Tiếp tục sáng tạo những giá trị vật chất, tinh thần mang đậm bản sắc Việt Nam để làm giàu cho quê hương đất nước.

LÀM VĂN (Đảm bảo các luận điểm cơ bản dưới đây, yêu cầu hướng dẫn chi tiết)

Dạng 2. Thuyết minh về một sự vật, hiện tượng trong tự nhiên

* Mở bài:

– Giới thiệu sự vật, hiện tượng trong tự nhiên được thuyết minh: Món ăn đặc sắc/ truyền thống của địa phương (Bánh Tét)

– Nêu thông tin khái quát về sự vật, hiện tượng đó.

* Thân bài:

– Nguồn gốc lịch sử của bánh Tét

+ Bánh Tét là kết quả của sự giao thoa giữa nhiều nền văn hóa khác nhau, là thứ bánh đặc trưng của vùng Nam Bộ.

+ Tên gọi bánh Tét có từ thời vua Quang Trung Nguyễn Huệ đánh quân Thanh

+ Hình dáng: hình trụ dài nên còn được gọi là đòn bánh Tét

– Quá trình làm bánh Tét

+ Thời điểm gói bánh: thường được gói vào các dịp lễ Tết, đặc biệt là ngày Tết cổ truyền. Ngày này bánh được gói để bán quanh năm

+ Nguyên liệu gói bánh: gạo nếp, đậu xanh, nhân bánh (thịt lợn, đậu đỏ, đậu đen, chuối,…), lá dong, lá chuối, lạt gói bánh

– Ý nghĩa của bánh Tét

+ Ý nghĩa nhân sinh: ý nghĩa bao bọc, tình yêu thương, đùm bọc lẫn nhau

+ Tượng trưng cho đất trời, mùa màng, chăn nuôi, sức lao động của con người

+ Bánh Tét tạo nên không khí ấm cúng, sung túc của ngày Tết

– Cần xác định yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận nào có thể đưa vào vị trí thích hợp để làm tăng hiệu quả biểu đạt và sức hấp dẫn của bài viết.

– Cần dự kiến cả những phương tiện phi ngôn ngữ có thể sử dụng trong văn bản giúp nội dung thuyết minh được sinh động, hấp dẫn.

* Kết bài: Khẳng định giá trị ý nghĩa về truyền thống, văn hóa và lịch sử của bánh Tét, nêu cảm nghĩ về bánh Tét.

 

Bài viết tham khảo:

Là một quốc gia có bề dày lịch sử-văn hóa, Việt Nam sở hữu kho di sản hết sức đồ sộ in dấu nhiều nền văn hóa phát triển rực rỡ. Ở miền bắc là văn hóa Đông Sơn, văn hóa Đại Việt, miền trung có văn hóa Chăm-pa, văn hóa Sa Huỳnh, miền nam nổi bật có văn hóa Óc Eo. Trong dòng chảy ấy, có những di tích, di vật có tầm quan trọng đặc biệt, mang dấu ấn đặc biệt và cũng cần chế độ bảo quản đặc biệt. Việt Nam có những truyền thống văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, và bánh Tét ngày Tết được xem như nét đặc trưng, nét đẹp văn hóa của dân tộc.

Văn hóa và ẩm thực luôn có mối quan hệ mật thiết. Chính những nét văn hóa giúp cho các món ăn được nhận diện và nâng tầm, qua đó đưa ngành ẩm thực phát triển bền vững. Việt Nam sở hữu nền văn hóa, ẩm thực hết sức phong phú, theo sự phân chia các khu vực địa lý. Khác biệt về văn hóa giữa 3 miền Bắc – Trung – Nam giúp cho ẩm thực Việt Nam trở nên đa dạng và hấp dẫn, với nhiều hương vị, cách chế biến, bày biện và thưởng thức khác nhau. Những yếu tố địa lý, lịch sử, văn hóa lâu đời của mỗi vùng miền đã ảnh hưởng đến cách sống, các bữa ăn thường ngày của người dân bản địa.

Chẳng biết tự bao giờ đòn bánh tét lại luôn xuất hiện trong mâm cỗ ngày Tết của người Nam Bộ. Nếu ngoài Bắc ngày Tết có bánh chưng xanh gắn liền với sự tích “bánh chưng bánh dày” của hoàng tử thứ 18 con Vua Hùng là Lang Liêu với ý nghĩa tượng trưng cho trời tròn, đất vuông thì bánh Tét cũng có những câu chuyện ly kỳ về nguồn gốc và ý nghĩa riêng của nó. Theo phong tục ngày Tết, nồi bánh tét được nấu vào đêm 30 giao thừa. Cả nhà sẽ thức chờ quanh nồi bánh tạo nên không khí ấm cúng, sung túc của buổi sum họp gia đình ngày Tết. Tết, người Nam Bộ chỉ gói hai loại bánh tét là bánh tét chay và bánh tét mặn. Bánh tét chay để cúng ông bà, trời đất, bánh mặn dùng trong bữa ăn, ăn kèm với củ kiệu, dưa chua, thịt kho tàu.

Một số chuyên gia nghiên cứu văn hóa lý giải rằng, rất có thể, đòn bánh Tét mà người trong Nam dùng trong ngày Tết hôm nay là sản phẩm của quá trình giao lưu văn hóa Việt Chăm hay cũng có thể là sự kế thừa những giá trị của lớp tiền nhân đi trước để lại. Khi người Việt bắt đầu vào khai hoang, mở rộng vùng đất phương Nam, do sự tiếp thu yếu tố tín ngưỡng của nền văn hóa Chăm, trong đó có tín ngưỡng thờ thần lúa nên các cư dân Việt sau này đã tạo ra chiếc bánh tét như ngày nay.

Bên cạnh nguồn gốc ra đời của bánh tét như là một sản phẩm của sự giao thoa văn hóa thì ông bà xưa còn truyền tai nhau những giai thoại lí giải cho việc hình thành bánh tét điển hình là câu chuyện vua Quang Trung khi đánh quân Thanh vào ngày Tết lúc bấy giờ vua cho quân lính nghỉ ngơi. Một quân lính đã dâng lên vua một loại bánh được gói hình trụ trong lá chuối, khi ăn vua khen rất ngon và hỏi đây là bánh gì. Lính ta trả lời đây là loại bánh mà người vợ quê nhà thường gói cho để ăn theo bên đường, mỗi lần ăn anh lại nhớ đến vợ, nhớ đến quê nhà. Nghe vậy vua Quang Trung rất cảm động và ra lệnh cho mọi người gói loại bánh này ăn vào dịp Tết và đặt cho cái tên là bánh Tết. Đó được xem là nguồn gốc của bánh Tết trong ngày Tết cổ truyền Việt Nam. Giống như nguồn gốc ra đời, ngay cả cái tên bánh tét cũng có rất nhiều câu chuyện lý giải cho cách gọi này. Như trên đã nói, bánh tét còn được gọi là bánh Tết, về sau vì tính chất vùng miền, bánh Tết được đọc trại thành “bánh tét”.

Cũng có lý giải cho rằng, tét là một hành động cắt bánh mỗi khi ăn loại bánh này, người dùng sẽ dùng dây khoanh tròn đầu bánh đã lột rồi “tét” từng khoanh nhỏ ra. Vì vậy người địa phương gọi loại bánh này là bánh tét giống như hành động cắt bánh vậy.

Theo quan niệm cha ông xưa, những loại bánh, thức ăn sử dụng trong ngày Tết tất cả đều có ý nghĩa thương nhớ người xưa, cầu chúc cho sự ấm no, sum vầy của gia đình đa tạ trời đất đã cho người dân mùa lúa thuận lợi và bánh tét cũng không ngoại lệ.

 

Bánh tét truyền thống được bọc nhiều lá bên ngoài tượng trưng cho mẹ bọc lấy con, mang mong muốn sum vầy của người Việt vào ngày Tết. Không chỉ vậy, bánh tét xanh nhân đậu màu vàng gợi cho người nông màu xanh của đồng quê, gợi cho ta niềm mơ ước “an cư lạc nghiệp” của một mùa xuân an bình cho mọi nhà.

Chiếc bánh tét hay còn gọi là bánh Tết nhìn giản đơn nhưng thấm đẫm nhiều ý nghĩa mong muốn gia đình luôn sum vầy, ấm no. Vì vậy theo phong tục ngày Tết, cứ tối 29, 30 Tết cả gia đình thức khuya chờ quanh nồi bánh, trẻ thì chơi đùa hay phụ ông bà chụm bếp lò, người lớn thì thi nhau gói bánh tạo nên không khí ấm cúng, sung túc của ngày Tết. Là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết của người dân Nam bộ, bánh tét mang ý nghĩa nhân sinh cao cả, tượng trưng cho hình ảnh người mẹ bao bọc con cái, lớp vỏ bánh bao quanh lớp nhân bên trong giống như sự đùm bọc, bảo vệ nhau, yêu thương nhau giữa mọi người. Bánh tét làm từ những nguyên liệu xuất phát từ quá trình lao động của con người vì thế nó còn mang ý nghĩa tượng trưng cho đất trời, mùa màng, chăn nuôi, sức lao động của con người. Sự có mặt của bánh tét trong ngày Tết mang đến sự ấm cúng, sum vầy, không khí ấm áp hạnh phúc trong mọi gia đình.

Có thể nói, bánh tét là một món ăn nhưng hơn cả ý nghĩa của một món ăn, nó mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp, nó thể hiện được bản sắc văn hóa, đời sống tình cảm cũng như lối sống của người dân Nam Bộ. Từ những khoanh bánh tét trên mâm cơm ngày Tết người ta gợi ra những câu chuyện, trao nhau những tình cảm và răn dạy nhau nhiều điều trong cuộc sống.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *