Đề tham khảo theo cấu trúc mới 2025 của Bộ -đề số 30

PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)

Đọc đoạn trích sau:                              ÔNG NGOẠI

(Tóm tắt đoạn đầu: Gia đình cậu mợ của Dung đậu phỏng vấn và đi định cư nước ngoài. Mẹ Dung quyết định cho Dung sang ở với ông Ngoại để tiện bề trông nom ông. Dung dù không muốn nhưng vẫn nghe lời mẹ.)

Sang bên ấy được hai hôm, Dung chạy về mẹ, than thở lướt sướt: “Ở với ông ngoại buồn muốn chết, đi học về, mở karaoke lại sợ ồn, nói chưa được mấy câu thì hết chuyện. Chẳng lẽ con lại nói chuyện tình yêu với ông ngoại à? Bọn bạn không dám lại nhà chơi. Ông khó lắm. Con mở nhạc cũng ngại, con nấu cơm khét ông mắng cả buổi. Suốt ngày ông cứ lo tỉa tót cho mấy chậu kiểng, mấy con cá vàng. Con hỏi:”Ngoại chăm sóc hoài không chán sao?”, Ngoại nói “Cây cũng có linh hồn. Con không tin, ghé tai vào nghe thử, có cây nào than buồn, có cây nào thèm nghe Michael Jackson đâu”.

Mẹ cười:

– Con vì ông một chút, ông cũng vì con thôi, thử xem.

(…)

Thế nghĩa là có hai thế giới ở trong ngôi nhà. Thế giới của ông là mấy ông bạn già, là mấy chồng nhựt báo, là cái radio đâu hồi còn đánh nhau, là trầm tư suy ngẫm, là mảnh sân hoa trái. Thế giới của Dung là tiếng nhạc gào thét xập nh, là sắc màu xanh đỏ, là quả đất như nằm gọn trong bàn tay. Sáng nó dậy thật sớm để nấu cơm, sau đó đi học, chiều lại học, buổi tối nó vù xe đến bạn chơi hoặc về nhà nghe mấy đứa em cãi nhau ỏm tỏi. Hai thế giới vừa giành giựt vừa hoà tan nhau.

(…)

 Hôm bữa Dung nói với ông:

– Sao ông Chín bên nhà rủ ngoại đi tham gia câu lạc bộ gì đó, ngoại không đi?

Ông nhìn Dung thật lâu:“Ngoại sợ con ở nhà một mình buồn”. Dung chột dạ, có bao giờ đi chơi mà mình nghĩ tới ông không.

(…)

Có những sự thay đổi Dung không thể ngờ được. Bây giờ mỗi đêm Dung trở mình nghe ông ngoại ho khúc khắc. Nghe cây mai nhỏ nứt mình, nảy chồi. Dung nghiện hương trầm tối tối ông thắp lên bàn thờ bà ngoại. Lắm khi lũ em Dung sang, chúng nó phá phách quậy tung cả lên, Dung mắng, chúng nó trề môi “Chị hai khó như một bà già”, Dung giật mình. Có lẽ quen với cái tĩnh lặng trong sân mà mỗi chiều Dung giúp ông tưới cây, cái khoảng không xanh lạc lõng trong khói bụi, đâu đó, trên tàng me già, dăm chú chim hót líu lo Dung quen dáng ông ngoại với mái tóc bạc, với đôi mắt hõm, cái cằm vuông, quen mỗi tháng một lần cọc cạch lên phường nhận lương hưu. Có một điều Dung ngày càng nhận ra tiếng ho của ông ngày càng khô và rời rạc như lời kêu cứu. (…)

Ngày 18 tháng 12, Dung mở tờ lịch mới, hôm nay là sinh nhật của nó. Hôm qua, mẹ cho Dung một món tiền kha khá, bọn bạn reo lên inh ỏi: “Party nghe Dung, làm xôm tụ, tụi này kéo lại”. Dung nói với ông, ông gật đầu:

– Ừ thì sinh nhật mà, con có mua bánh kem chưa? Ông biết làm đấy.

Dung tròn mắt:

– Thật ư?

Ông khẽ cốc đầu nó.

– Đừng có khinh ngoại.

Nói rồi hai ông cháu lăn vào khuấy bột, trộn sữa. Tay ông nhẹ nhàng, nắn nót mười tám nụ hồng trên mặt bánh, Dung thòm thèm mãi. Buổi sinh nhật thật rôm rả, bọn Dung khiêu vũ với nhau ông ngoại cũng nhảy, ông mặc chiếc áo màu xanh thắt nơ hoa rất đẹp. Lúc ông nắm tay nó, nhạc dạo bài Tango “Xa vắng”. Dung ngạc nhiên và buồn cười đến nỗi giẫm lên cả chân ông. Bọn bạn reo ầm lên, chúng khen bánh kem ngon, khen ông nhảy giỏi, Dung hãnh diện lắm….

(Trích Ông ngoại, Nguyễn Ngọc Tư[1]-  https://isach.info/story.php?story=ong_ngoai__nguyen_ngoc_tu&chapter=0000, truy cập 25-10-2023)

Thực hiện các câu hỏi:

Câu 1. Nhân vật chính trong đoạn trích là ai?

Câu 2. Điều gì khiến cho Dung tỏ ra e ngại khi phải đến sống với ông ngoại?

Câu 3. Chi tiết: “Có lẽ quen với cái tĩnh lặng trong sân mà mỗi chiều Dung giúp ông tưới cây, cái khoảng không xanh lạc lõng trong khói bụi, đâu đó, trên tàng me già, dăm chú chim hót líu lo Dung quen dáng ông ngoại với mái tóc bạc, với đôi mắt hõm, cái cằm vuông, quen mỗi tháng một lần cọc cạch lên phường lương hưu. Có một điều Dung ngày càng nhận ra tiếng ho của ông ngày càng khô và rời rạc như lời kêu cứu.cho thấy Dung là một cô bé như thế nào?

Câu 4. Câu chuyện trong đoạn trích mang lại thông điệp gì?

Câu 5. Trong đoạn trích có một câu văn gợi suy ngẫm: Thế nghĩa là có hai thế giới ở trong ngôi nhà. Anh/ Chị sẽ làm gì để gắn kết gia đình và rút ngắn “khoảng cách thế hệ”? (trả lời bằng đoạn văn từ 7-10 câu văn)

PHẦN VIẾT (6,0 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm)

Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) làm rõ đặc điểm của nhân vật Ông ngoại trong đoạn văn sau:

Có những sự thay đổi Dung không thể ngờ được. Bây giờ mỗi đêm Dung trở mình nghe ông ngoại ho khúc khắc. Nghe cây mai nhỏ nứt mình, nảy chồi. Dung nghiện hương trầm tối tối ông thắp lên bàn thờ bà ngoại. Lắm khi lũ em Dung sang, chúng nó phá phách quậy tung cả lên, Dung mắng, chúng nó trề môi “Chị hai khó như một bà già”, Dung giật mình. Có lẽ quen với cái tĩnh lặng trong sân mà mỗi chiều Dung giúp ông tưới cây, cái khoảng không xanh lạc lõng trong khói bụi, đâu đó, trên tàng me già, dăm chú chim hót líu lo Dung quen dáng ông ngoại với mái tóc bạc, với đôi mắt hõm, cái cằm vuông, quen mỗi tháng một lần cọc cạch lên phường nhận lương hưu. Có một điều Dung ngày càng nhận ra tiếng ho của ông ngày càng khô và rời rạc như lời kêu cứu. (…)

Ngày 18 tháng 12, Dung mở tờ lịch mới, hôm nay là sinh nhật của nó. Hôm qua, mẹ cho Dung một món tiền kha khá, bọn bạn reo lên inh ỏi: “Party nghe Dung, làm xôm tụ, tụi này kéo lại”. Dung nói với ông, ông gật đầu:

– Ừ thì sinh nhật mà, con có mua bánh kem chưa? Ông biết làm đấy.

Dung tròn mắt:

– Thật ư?

Ông khẽ cốc đầu nó.

– Đừng có khinh ngoại.

Nói rồi hai ông cháu lăn vào khuấy bột, trộn sữa. Tay ông nhẹ nhàng, nắn nót mười tám nụ hồng trên mặt bánh, Dung thòm thèm mãi. Buổi sinh nhật thật rôm rả, bọn Dung khiêu vũ với nhau ông ngoại cũng nhảy, ông mặc chiếc áo màu xanh thắt nơ hoa rất đẹp. Lúc ông nắm tay nó, nhạc dạo bài Tango “Xa vắng”. Dung ngạc nhiên và buồn cười đến nỗi giẫm lên cả chân ông. Bọn bạn reo ầm lên, chúng khen bánh kem ngon, khen ông nhảy giỏi, Dung hãnh diện lắm….

 

Câu 2 (4,0 điểm)

Viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bày tỏ ý kiến của anh/ chị về vấn đề sau: “Lòng tốt của con người có thể chữa lành các vết thương nhưng lòng tốt cũng cần đôi phần sắc sảo, nếu không chẳng khác nào con số không tròn trĩnh.

 

……………………………………………………………HẾT……………………………………………………………………

 

  ĐÁP ÁN

 

(Đáp án có 02 trang)

Phần Câu Nội dung Điểm
I   ĐỌC HIỂU 4.0
  1 Nhân vật chính là Dung 0.5
2 Điều khiến Dung e ngại khi phải về sống với ông ngoại: sự khác nhau về lối sống, sở thích (trích dẫn hoặc cách diễn đạt ý tương tự) 0.5
3 – Nhạy cảm, tinh tế;

– Trưởng thành khi biết thấu hiểu, thương ông hơn; đã biết lo lắng, quan tâm đến sức khỏe của ông.

1.0
4 Đáp án mở, cho điểm dựa trên tính thuyết phục. Gợi ý:

– Thông điệp biết yêu thương, trân trọng người thân trong gia đình.

– Biết hi sinh, chia sẻ, quan tâm, gắn kết các thành viên trong gia đình

 

1.0
5 – Nêu được từ 3-4 việc làm hoặc hành động cụ thể thể hiện sự gắn kết, rút ngắn khoảng cách thế hệ.

– Viết thành đoạn văn theo cấu trúc viết đoạn: 0,25

– Đảm bảo số câu: 0,25

– Nêu được từ 3-4 ý (0,75)

1.0
II

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

  VIẾT 6.0
Câu 1

 

Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) làm rõ đặc điểm của nhân vật Ông ngoại trong đoạn văn 2,0
  a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận

Nêu và triển khai được vấn đề, khái quát được vấn đề

0.25
  b. Xác định đúng yêu cầu của đề.

Phân tích và đánh giá nét đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư qua đoạn trích: “Ông ngoại”

0.25
  c. Triển khai vấn đề nghị luận

HS có thể viết bài nhiều cách trên cơ sở kết hợp được lí lẽ và dẫn chứng để tạo tính chặt chẽ, logic của mỗi luận điểm; đảm bảo các yêu cầu sau:

1.0
  Giới thiệu ngắn gọn về truyện ngắn Ông ngoạigiới thiệu vấn đề nghị luận: nét đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Ngọc Tư. Cách đặt nhan đề: mộc mạc hướng đến nhân vật, đề tài, góp phần thể hiện chủ đề.

Nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Ngọc Tư được thể hiện qua những phương diện sau:

+ Có cấu trúc điển hình của một truyện ngắn với cốt truyện đơn giản, thời gian ngắn, không gian nhỏ hẹp, xoay quanh cuộc sống đời thường, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình.

+ Người kể chuyện nương theo điểm nhìn của nhân vật Dung, cả điểm nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong, qua ngôn ngữ đối thoại và độc thoại nội tâm để khắc họa chân dung một bạn trẻ với tính cách, tâm lí, hành vi,… đúng với lứa tuổi mới lớn; khắc họa sự biến đổi từng ngày trong cảm xúc và nhận thức cho thấy quá trình trưởng thành của nhân vật Dung; song song đó là nhân vật người ông yêu thương cháu, quan tâm chăm sóc cháu, cố gắng hòa hợp với cháu. Từ mối liên hệ giữa người kể chuyện với nhà văn, cách đặt nhan đề thấy được chủ đề và tư tưởng tác phẩm: Qua quá trình rút ngắn khoảng cách thế hệ để thấu hiểu, yêu thương giữa Dung và ông ngoại, tác phẩm hướng tới đề cao những giá trị nhân văn truyền thống: tình cảm gia đình, tinh thần trách nhiệm, biết sẻ chia, hi sinh.

+ Nét riêng trong lời văn, giọng điệu: ngôn ngữ đời thường, đậm chất Tây Nam Bộ và có giá trị biểu cảm cao; giọng điệu tự nhiên, nhẹ nhàng nhưng thấm thía.

– Đánh giá giá trị của tác phẩm:

+ Giàu tính nhân văn khi đề cập đến sự nối kết thế hệ

+ Nghệ thuật kể chuyện rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư, đã góp phần thể hiện thành công giá trị nhân văn.

  d. Chính tả, ngữ pháp

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt.

0.25
  e. Sáng tạo: Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ. 0,25
Câu 2 Viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bày tỏ ý kiến của anh/ chị về vấn đề sau: “Lòng tốt của con người có thể chữa lành các vết thương nhưng lòng tốt cũng cần đôi phần sắc sảo, nếu không chẳng khác nào con số không tròn trĩnh. 4,0
  a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận

Nêu và triển khai được vấn đề, khái quát được vấn đề

0.25
  b. Xác định đúng yêu cầu của đề.

Phân tích và đánh giá nét đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư qua đoạn trích: “Ông ngoại”

0.25
  c. Triển khai vấn đề nghị luận

HS có thể viết bài nhiều cách trên cơ sở kết hợp được lí lẽ và dẫn chứng để tạo tính chặt chẽ, logic của mỗi luận điểm; đảm bảo các yêu cầu sau:

 
  * Giải thích

– Lòng tốt: là sự yêu thương, quan tâm, chia sẻ vật chất hoặc tinh thần đối với những người xung quanh.

– Chữa lành các vết thương: xoa dịu, hàn gắn những nỗi đau về tâm hồn và thể xác của con người.

– Lòng tốt cũng cần đôi phần sắc sảo: lòng tốt cần phải đi cùng với lí trí tỉnh táo, nhận thức sáng suốt về đối tượng cần giúp đỡ và cách thức giúp đỡ, nếu không sẽ trở thành vô ích.

=> Ý kiến khẳng định vai trò của lòng tốt và cách biểu lộ lòng tốt để tạo ra những giá trị tốt đẹp.

Đây là ý kiến đúng đắn, đem lại những giá trị tích cực.

 

 

* Biểu hiện:

– Của những người có lòng tốt

+ Là những người luôn quan tâm, biết cách chia sẻ đối với những người xung quanh.

+ Có trái tim lương thiện, yêu thương,

– Của những người biết cách để thể hiện lòng tốt:

+ Nhận ra những người cần được quan tâm thực sự

+ Vừa có trái tim ấm áp vừa có sự tỉnh táo của lí trí để không bị lợi dụng.

* Phân tích, bình luận:

–  Lòng tốt của con người có thể chữa lành các vết thương:

+ Lòng tốt giúp con người đối diện và vượt qua nghịch cảnh, tạo cho họ niềm tin vào cuộc sống và hi vọng vào tương lai, giúp họ bớt đau đớn trước những bất hạnh trong cuộc sống.

+ Lòng tốt có thể cảm hóa cái xấu, cái ác

+ Lòng tốt giúp chính người trao đi những giá trị tích cực tâm lí nhẹ nhõm, thoải mái, hạnh phúc..

+  Là sợi dây gắn kết, khiến cho mối quan hệ giữa người với người trở nên tốt đẹp hơn, góp phần xây dựng xã hội nhân ái, văn minh.

+ Dẫn chứng:

– Lòng tốt cũng cần đôi phần sắc sảo, nếu không chẳng khác nào con số không tròn trĩnh:  Điều này giúp chúng ta giúp đỡ đúng người, đúng những hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống.

* Mở rông:

–  Phê phán những người sống thờ ơ, ích kỉ, những người lợi dụng lòng tốt của người khác, những người làm việc tốt nhưng toan tính trục lợi.

– Bài học nhận thức và hành động: Cần phải có lòng tốt và thể hiện nó một cách phù hợp.

2.75
    d. Chính tả, ngữ pháp

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt.

0.25
    e. Sáng tạo: Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ. 0,5
Tổng điểm 10.0

 [1] Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976, quê ở Cà Mau. Giọng văn Nguyễn Ngọc Tư giàu chất Nam Bộ, lối kể nhẹ nhàng. Sáng tác của cô chủ yếu viết về những câu chuyện bình dị của con người vùng sông nước Nam Bộ – quê hương tác giả, mượn văn hóa Nam Bộ để bao bọc khát vọng đem tình người ấm áp hòa giải mọi ranh giới, mọi khoảng cách. Với trái tim nhân hậu, nhạy cảm, Nguyễn Ngọc Tư đã dành sự quan tâm yêu mến đặc biệt cho đối tượng trẻ em. “Ông ngoại” (trích từ tập truyện ngắn cùng tên, NXB Trẻ, 2001).

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *