BỘ CÁNH DIỀU
Đề bài
ĐỌC – HIỂU (6,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu:
(Lược dẫn: Ðiền có bốn cái ghế mây treo ở ngoài hiên, chỉ khi có khách khứa nào sang trọng, Ðiền mới ra bê vào cho khách ngồi. Nhưng những buổi tối có trăng thì dù chẳng có ai, Ðiền cũng khuân đủ bốn cái ghế ra sân để ngồi ngắm trăng cùng vợ con. Ðiền rất yêu giăng và có một cái mộng văn chương, muốn trở thành một văn sĩ nhưng vì sinh nhai Ðiền phải tạm quên cái mộng văn chương để kiếm tiền. Ðiền đi dạy học, rồi cưới vợ. Ðiền tự an ủi: Có tiền rồi sẽ viết. Nhưng Ðiền biết: chẳng bao giờ Ðiền viết nữa, bởi chắc chắn là suốt đời Ðiền cũng không có tiền…)
Tối nay lại có giăng. Nhưng Ðiền chỉ đem có hai cái ghế ra sân. Vợ Ðiền hôm nay luật quật suốt cả ngày. Con ở xin đi ăn giỗ một hôm. Thị lại phải dệt vải lấy tấm vải để mai đi bán về đưa lãi nợ. Dệt xong thị vội vàng đi đòi món tiền. Về đến nhà, con bé khóc hết hơi. Con lớn thì lem luốc, mũi dãi nguếch ngoác bôi đầy mặt. Nhà cửa còn bề bộn. Con ở vẫn chưa về. Mình thị biết xoay sở làm sao kịp? Thị thấy lòng sôi lên sùng sục, thị giậm chân bành bạch kêu trời. Thị đánh con lớn, chửi con nhỏ, quăng cái chổi, đá cái thúng, và càu nhàu trống không. Rồi thị bế con đi nằm sớm. Ðứa con lớn thút thít khóc chán cũng lăn ra ngủ. Mình Ðiền ngồi ngoài sân. Ðiền cố thản nhiên. Nhưng da mặt cứ rồm rộm; nó có vẻ dày lên và tê tê. Ðiền thấy gần như tủi cực. Vợ Ðiền có lẽ rất yêu Ðiền. Nhưng thị chỉ biết rằng người ta cần ăn cơm, mặc áo và uống thuốc khi đau ốm. Thị chỉ cố lo cho chồng ba thức ấy. Thị nhịn ăn để chồng ăn. Thị nhịn mặc cho chồng mặc. Thị bán đến cả yếm, áo để lo thuốc thang cho chồng. Thị tưởng thế là chồng sung sướng lắm. Nhưng không phải, Ðiền đã quen với những tình cảm nồng nàn và những lời nói vuốt ve. Nét mặt cau có, ngôn ngữ cục cằn, và nhất là cái lối yêu quá đơn sơ – có thể nói thô sơ – của vợ Ðiền làm cho Ðiền khổ. Ðiền thấy cái đời tình cảm của Ðiền thiếu thốn. Ðiền không được yêu ai. Còn sống trong cái gia đình này mãi, giữa những lo lắng nhỏ nhen này mãi, lòng Ðiền sẽ cạn. Cạn luôn cả nguồn thơ quý báu, mà Ðiền vẫn ao ước có ngày lại khơi… Trên kia, giăng nhởn nhơ như một cô gái non vừa mới có nhân tình. Gió nhẹ nhàng đặt trên lá những bước chân vũ nữ. Những tàu lá chuối láng trăng đưa đẩy… Ðiền nghĩ đến những người đàn bà nhàn hạ, vừa tắm bằng một thứ nước thơm tho, mặc áo lụa xanh, ngả tấm thân mềm trên chiếc ghế xích đu và đưa đẩy đôi chân thưỡn thẹo…
Tại sao Ðiền lại vụt nghĩ đến những hình ảnh lả lơi ấy? Chính Ðiền cũng không thể hiểu. Có lẽ Ðiền ước ao một cái mái tóc thơm tho, một làn da mát mịn, một bàn tay ve vuốt. Có những người đàn bà đẹp, yêu rất khéo, bởi họ được ăn ngon, mặc đẹp, chăm sóc thịt da và chẳng làm gì cả. Phải rồi, vợ Ðiền chỉ là một kẻ tục tằn. Thị chẳng đáng cho Ðiền yêu quý. Cũng chẳng đáng cho Ðiền thương hại. Ðiền phải đi. Ði để giữ cho lòng mình tươi lâu. Ðiền sẽ làm bất cứ cái gì đó để có ăn. Rồi Ðiền bình tĩnh viết. Có như vậy Ðiền viết mới ra hồn được. Lời phải đẹp. Ý phải thanh cao. Ngọn bút của Ðiền mới khơi nguồn cho những tình cảm đầy thơ mộng. Nghệ thuật chính là cái ánh trăng xanh huyền ảo nó làm đẹp đến cả những cảnh thật ra chỉ tầm thường, xấu xa…
Ðiền lại thấy hiện ra cái bóng dáng yêu kiều của những người đàn bà nhàn nhã ngả mình trên những cái ghế xích-đu nhún nhảy… Những người ấy sẽ đọc văn Ðiền. Lòng họ đẹp thêm lên. Họ sẽ yêu Ðiền. Họ sẽ gửi cho Ðiền những bức thư xinh xinh ướp nước hoa. Tưởng tượng của Ðiền tỏa rộng ra như một ánh trăng. Ðiền nghĩ đến những cuộc tình duyên lãng mạn với những người đàn bà đẹp chỉ biết trang điểm và yêu đương. Những tiếng gắt gỏng ở trong nhà lại đưa ra. Vụt cái, trăng mất đẹp. Ðiền cúi mặt, bẽn lẽn như bị bắt gặp làm việc xấu. Ðiền lắng tai nghe. Tiếng vợ Ðiền gay gắt hỏi:
– Làm sao thế?
Ðứa con gái vừa mếu máo vừa đáp lại.
– Con đau bụng.
– Giời ơi là giời!
Ấy là tiếng vợ Ðiền rên lên. Rồi thị mắng con:
– Ăn bậy lắm! Chết là phải, còn kêu ai?
Ðứa con không dám khóc to. Nó chỉ oằn oại và rít nho nhỏ trong cổ họng. Thỉnh thoảng nó không còn sức nén, tiếng khóc bật ra Ðiền nghe một vài tiếng nức nở như tiếng người nôn oẹ, Ðiền vẫn ngồi cúi mặt. Một nỗi chua xót gần như là thuộc về thể chất, ứ lên trong lòng Ðiền. Nó dâng lên đến cổ, xông lên óc. Nước mắt Ðiền ứa ra.
Vợ Ðiền gượng nhẹ đặt đứa con đang ngủ mệt xuống võng. Thị cầm một con dao ra vườn moi mấy nhánh gừng về rửa sạch, giã ra. Thị vắt thêm vào đấy nửa quả chanh. Thứ thuốc bách bệnh của con nhà nghèo chỉ gồm có thế. Thị gạn lấy nước đem lại cho con. Con bé mới ngửi thấy hơi gừng đã sợ. Nó mím chặt môi. Dỗ thế nào nó cũng không chịu uống. Thị phải bế nó, đặt nằm ngửa trên đùi, một tay thị đỡ đầu, một tay thị kề chén nước gừng vào tận môi con. Con bé mím môi thật chặt. Bực mình thị quát:
– Há mồm ra!
Con bé khóc. Thế là cốc nước gừng đã dốc tuột vào mồm nó. Nó giãy lên như đỉa phải vôi. Nó phun phè phè. Nó gào lên. Bao nhiêu nước gừng bắn ra áo mẹ. Thằng cu con giật mình, khóc thét lên. Vợ Ðiền tức quá, phát đen đét vào lưng con bé ốm và quăng nó xuống giường như quăng một con mèo:
– Kệ cha mày! Cho mày chết đi!
Con bé vừa gào vừa van lạy:
– Con lạy bu; Con cay lắm! Con lạy bu! Cay mồm…
– Mày câm ngay không tao tát cho vỡ mặt.
Nó vẫn không chịu lặng. Thị sừng sộ, chực vồ lấy nó:
– Mày có câm không nào?
Nó sợ quá đành phải nín. Nhưng những tiếng rên nho nhỏ vẫn còn thoát ra… Ðiền thương con lắm. Vút cái, Ðiền thấy Ðiền không thể nào đi được. Ðiền không thể sung sướng khi con Ðiền còn khổ. Chao ôi! Trăng đẹp lắm! Trăng dịu dàng và trong trẻo và bình tĩnh. Nhưng trong những căn lều nát mà trăng làm cho cái bề ngoài trông cũng đẹp, biết bao người quằn quại, nức nở, nhăn nhó với những đau thương của kiếp mình! Biết bao tiếng nghiến răng và chửi rủa! Biết bao cực khổ và lầm than?… Không, không, Ðiền không thể nào mơ mộng được. Cái sự thật tàn nhẫn luôn luôn bày ra đấy. Sự thực giết chết những ước mơ lãng mạn gieo trong đầu óc Ðiền cái thứ văn chương của bọn nhàn rỗi quá. Ðiền muốn tránh sự thực, nhưng trốn tránh làm sao được? Vợ Ðiền khổ, con Ðiền khổ, cha mẹ Ðiền khổ. Chính Ðiền cũng khổ. Bao nhiêu người nữa, cùng một cảnh, khổ như Ðiền! Cái khổ làm héo một phần lớn những tính tình tươi đẹp của người ta. Tiếng đau khổ vang dội lên mạnh mẽ. Chao ôi! Chao ôi! Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than, vang dội lên mạnh mẽ trong lòng Ðiền. Ðiền chẳng cần đi đâu cả. Ðiền chẳng cần trốn tránh, Ðiền cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời…
… Sáng hôm sau, Ðiền ngồi viết. Giữa tiếng con khóc, tiếng vợ gắt gỏng, tiếng léo xéo đòi nợ ngoài đầu xóm. Và cả tiếng chửi bới của một người láng giềng ban đêm mất gà.
Đề 1: Trắc nghiệm + Tự luận
Lựa chọn đáp án đúng ( Mỗi câu 0.5 điểm):
Câu 1. Truyện ngắn trên sử dụng người kể chuyện ở ngôi thứ mấy?
Ngôi thứ ba
Ngôi thứ hai
Ngôi thứ nhất
Ngôi thứ nhất và thứ ba
Câu 2. Truyện ngắn trên chủ yếu được kể từ điểm nhìn của nhân vật nào?
Nhân vật người vợ
Nhân vật Điền
Tác giả
Nhân vật đứa con gái của Điền
Câu 3. Phát biểu nào sau đây nói đúng về đặc điểm của lời kể trong truyện?
Chỉ có lời nhân vật
Chỉ có lời người kể chuyện
Bao gồm cả lời người kể chuyện và lời nhân vật
Bao gồm cả lời người kể chuyện, lời nhân vật và lời tác giả
Câu 4. Chi tiết nào sau đây khiến nhân vật Điền cảm thấy “Một nỗi chua xót gần như là thuộc về thể chất, ứ lên trong lòng”?
Điền ngồi ngắm trăng một mình
Ðiền nghe một vài tiếng nức nở như tiếng người nôn oẹ
Ðiền lại thấy hiện ra cái bóng dáng yêu kiều của những người đàn bà nhàn nhã ngả mình trên những cái ghế xích-đu nhún nhảy
Vợ Ðiền tức quá, phát đen đét vào lưng con bé ốm và quăng nó xuống giường như quăng một con mèo
Câu 5. Hình tượng “giăng sáng” là biểu tượng cho:
Khát vọng nghệ thuật cao đẹp
Thế giới mơ mộng của Điền
Giấc mộng văn chương của Điền
Lí tưởng nghệ thuật cao đẹp
Câu 6. Nội dung chính của truyện?
Kể về việc Điền được gán nợ 4 chiếc ghế mây. Điền chỉ dùng chúng để ngắm trăng và tiếp khách sang trọng.
Kể về cuộc sống của văn sĩ Điền và sự giác ngộ lí tưởng nghệ thuật vị nhân sinh.
Kể về cảnh vợ con nheo nhóc và ốm đau của gia đình văn sĩ Điền.
Kể về cuộc sống đời thường của văn sĩ Điền với giấc mơ trở thành văn sĩ.
Câu 7. Nét đặc sắc nhất về nghệ thuật của truyện:
Sự không trùng khít giữa ngôi kể và điểm nhìn.
Xây dựng nhân vật con người tư tưởng
Giọng điệu giàu chất triết lí
Nghệ thuật miêu tả tâm lí đặc sắc
Trả lời câu hỏi:
Câu 8 (0,5 điểm). Câu văn: “Nghệ thuật chính là cái ánh trăng xanh huyền ảo nó làm đẹp đến cả những cảnh thật ra chỉ tầm thường, xấu xa…” có ý nghĩa gì?
Câu 9 (1,0 điểm). Bạn có nhận xét gì về quan niệm văn chương của nhân vật Điền trong câu chuyện?
Câu 10 (1,0 điểm). Từ truyện ngắn trên, bạn suy nghĩ gì về mối quan hệ giữa ước mơ và hiện thực. (Viết khoảng 8 – 10 dòng)
Đề 2: Tự luận
Trả lời câu hỏi
Câu 1. (0,5 điểm) Truyện ngắn trên sử dụng người kể chuyện ở ngôi thứ mấy?
Câu 2. (0,5 điểm) Truyện ngắn trên chủ yếu được kể từ điểm nhìn của nhân vật nào?
Câu 3. (0,5 điểm) Chi tiết nào trong truyện khiến nhân vật Điền cảm thấy “Một nỗi chua xót gần như là thuộc về thể chất, ứ lên trong lòng” ?
Câu 4. (0,5 điểm) Hình tượng “giăng sáng” là biểu tượng cho điều gì?
Câu 5. (1 điểm) Nêu nội dung chính của truyện?
Câu 6. (1 điểm) Câu văn: “Nghệ thuật chính là cái ánh trăng xanh huyền ảo nó làm đẹp đến cả những cảnh thật ra chỉ tầm thường, xấu xa…” có ý nghĩa gì?
Câu 7. (1,0 điểm) Bạn có nhận xét gì về quan niệm văn chương của nhân vật Điền trong câu chuyện?
Câu 8. (1,0 điểm) Từ truyện ngắn trên, bạn suy nghĩ gì về mối quan hệ giữa ước mơ và hiện thực. (Viết khoảng 8 – 10 dòng).
LÀM VĂN (4,0 điểm)
Anh/chị hãy viết bài văn (khoảng 500 chữ) phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm trên.
Hướng dẫn đáp án chi tiết
ĐỌC – HIỂU
Đề 1: Trắc nghiệm + Tự luận
Câu 1: A
Câu 2: B
Câu 3: C
Câu 4: B
Câu 5: C
Câu 6: B
Câu 7: D
Câu 8: Câu văn so sánh nghệ thuật với vẻ đẹp thơ mộng của ánh trăng, làm đẹp cuộc sống, có ý nghĩa chỉ quan niệm ban đầu về văn chương của Điền: quan niệm văn chương vị nghệ thuật, thoát ly hiện thực.
Câu 9: Quan niệm văn chương của Điền: nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối mà nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.
Nhận xét:
Quan niệm văn chương vị nhân sinh, văn chương gắn bó mật thiết với cuộc sống, phản ánh hiện thực cuộc sống.
Đây là quan niệm văn chương tiến bộ của Nam Cao, là tuyên ngôn nghệ thuật của nhà văn, là sự lựa chọn khuynh hướng văn học hiện thực của nhà văn.
Câu 10: Mối quan hệ giữa ước mơ và hiện thực:
Ước mơ: là những điều con người mong muốn đạt được trong tương lai, thường vượt ra ngoài khả năng của con người, con người phải phấn đấu mới đạt được.
Hiện thực: là điều kiện, hoàn cảnh môi trường sống mà con người không được lựa chọn, chỉ có thể chấp nhận và vượt lên nó.
Mối quan hệ: ước mơ sẽ trở thành hiện thực nếu như phù hợp với hoàn cảnh thực tế, ước mơ sẽ không trở thành hiện thực nếu vượt quá điều kiện thực tế. Tuy nhiên, với sự sáng tạo và ý chí mạnh mẽ con người có thể vượt lên hoàn cảnh và biến ước mơ trở thành hiện thực.
Đề 2: Tự luận
Câu 1. Người kể chuyện ở ngôi thứ ba.
Câu 2. Điểm nhìn được sử dụng chủ yếu là của nhân vật Điền.
Câu 3. Chi tiết: Ðiền nghe một vài tiếng nức nở như tiếng người nôn oẹ.
Câu 4. Hình tượng giăng sáng biểu tượng cho: Giấc mộng văn chương của Điền
Câu 5. Nội dung chính của truyện: Kể về cuộc sống của văn sĩ Điền và sự giác ngộ lí tưởng nghệ thuật vị nhân sinh.
Câu 6. Câu văn so sánh nghệ thuật với vẻ đẹp thơ mộng của ánh trăng, làm đẹp cuộc sống, có ý nghĩa chỉ quan niệm ban đầu về văn chương của Điền: quan niệm văn chương vị nghệ thuật, thoát ly hiện thực.
Câu 7. Quan niệm văn chương của Điền: nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối mà nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.
Nhận xét:
Quan niệm văn chương vị nhân sinh, văn chương gắn bó mật thiết với cuộc sống, phản ánh hiện thực cuộc sống.
Đây là quan niệm văn chương tiến bộ của Nam Cao, là tuyên ngôn nghệ thuật của nhà văn, là sự lựa chọn khuynh hướng văn học hiện thực của nhà văn.
Câu 8. Mối quan hệ giữa ước mơ và hiện thực:
Ước mơ: là những điều con người mong muốn đạt được trong tương lai, thường vượt ra ngoài khả năng của con người, con người phải phấn đấu mới đạt được.
Hiện thực: là điều kiện, hoàn cảnh môi trường sống mà con người không được lựa chọn, chỉ có thể chấp nhận và vượt lên nó.
Mối quan hệ: ước mơ sẽ trở thành hiện thực nếu như phù hợp với hoàn cảnh thực tế, ước mơ sẽ không trở thành hiện thực nếu vượt quá điều kiện thực tế. Tuy nhiên, với sự sáng tạo và ý chí mạnh mẽ con người có thể vượt lên hoàn cảnh và biến ước mơ trở thành hiện thực.
LÀM VĂN
Mở bài:
– Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm truyện.
+ Nam Cao được đánh giá là bậc thầy về truyện ngắn hiện thực, một trong những tác giả tiêu biểu cho khuynh hướng hiện thực phê phán 1930 – 1945.
+ Truyện ngắn “Giăng sáng” kể về cuộc sống của văn sĩ Điền bị gánh nặng áo cơm ghì sát đất khiến Điền không thể trở thành một văn sĩ lãng mạn như mong muốn của Điền.
– Nêu yếu tố nổi bật sẽ phân tích, đánh giá:
Truyện ngắn đã xây dựng thành công hình tượng văn sĩ Điền và thể hiện quan điểm nghệ thuật về văn chương của Nam Cao: nghệ thuật cần gắn bó với cuộc sống.
Thân bài:
* Nêu các điểm nổi bật về nội dung, ý nghĩa tác phẩm
– Đề tài: viết về người trí thức.
– Chủ đề: ca ngợi khát vọng cao đẹp của người trí thức.
– Tóm tắt truyện: Điền có ước mơ trở thành một văn sĩ lãng mạn. Giấc mộng văn chương đã theo Điền từ thời trẻ tuổi. Vì phải kiến tiền đỡ đần gia đình, Điền tạm gác lại những dự định của mình. Điền trở thành thầy giáo dạy học, rồi Điền lấy vợ. Cuộc sống gia đình đã giúp Điền nhận ra giấc mộng văn chương hão huyền, chỉ giống như một thứ ánh trăng lừa dối phủ lên hiện thực cuộc sống nghèo nàn, đau khổ. Điền nhận ra đâu là chân lý nghệ thuật và lựa chọn con đường nghệ thuật vị nhân sinh.
– Giá trị nội dung:
+ Truyện ngắn đã phản ánh cuộc sống nghèo nàn, tăm tối của những người trí thức trước cách mạng. Họ có ước mơ cao đẹp nhưng gánh nặng áo cơm ghì sát đất khiến họ không có cơ hội thực hiện ước mơ đó. Qua đó, nhà văn bày tỏ sự cảm thông sâu sắc với bi kịch người trí thức, đề cao khát vọng cao đẹp của họ, đề cao lí tưởng nghệ thuật vị nhân sinh.
+ Truyện ngắn thể hiện quan điểm nghệ thuật của nhà văn: nghệ thuật cần gắn bó với cuộc sống, nghệ thuật phải là những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.
* Phân tích cái hay, cái đẹp của các yếu tố nghệ thuật hoặc hình ảnh đặc sắc.
– Tình huống truyện: Điền được thầy hiệu trưởng gán nợ cho 4 cái ghế mây. Đối với gia đình của Điền, đây là tài sản quý giá, chỉ khi có khách quan trọng và những buổi tối có trăng Điền mới đem ra ngồi cùng vợ con. Tối nay lại có trăng, nhưng chỉ có mình Điền ngồi vì vợ Điền vất vả cả ngày nên đi nằm sớm. Đang say sưa trong thế giới mộng ảo của mình thì tiếng gắt gỏng, quát tháo của vợ, tiếng khóc của con đã làm Điền tỉnh ngộ. Điền nhận thấy rằng mình không thể sung sướng trong khi con mình khổ vì Điền rất thương con. Điền không thể mơ mộng được nữa và càng không thể trốn tránh hiện thực. Điền quyết định đứng trong lao khổ, “mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời”. Đây là kiểu tình huống nhận thức. Sau những trải nghiệm cuộc sống gia đình, Điền mới nhận ra là giấc mộng văn chương không giúp gì cho gia đình của Điền, không thể làm cho vợ con Điền bớt khổ. Điền đã thay đổi lí tưởng nghệ thuật của mình, đã lựa chọn con đường nghệ thuật vị nhân sinh.
– Xây dựng nhân vật: Điền là nhân vật trung tâm của truyện, là kiểu nhân vật người trí thức, là văn sĩ, thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người. Đó là quan niệm về con người tư tưởng. Con người va chạm với thực tế, trải qua quá trình nhận thức đã tìm ra lẽ sống của mình.
– Nghệ thuật miêu tả tâm lí: Nhà văn đã thâm nhập sâu vào dòng tâm lí nhân vật để nói lên những ước mơ thầm kín của nhân vật. Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lí nhân vật. Diễn biến tâm lý của nhân vật trong truyện là quá trình đấu tranh nội tâm dẫn đến sự chuyển hóa trong nhận thức của nhân vật. Điền có ước mơ cao cả và ước mơ này không phù hợp với hiện thực cuộc sống nghèo túng của gia đình. Vậy nên, Điền phải gác ước mơ lại để kiếm tiền, rồi Điền lấy vợ. Điền vẫn tiếp tục cuộc sống nghèo túng và lại khao khát thoát li thực tại. Nhân vật phải lựa chọn giữa một bên là ước mơ cao cả với một bên là hiện thực nghèo túng. Điền yêu trăng, coi trăng là biểu tượng cho thế giới nghệ thuật. Tâm hồn thấm đẫm văn thơ của Điền khiến anh cảm thấy khổ, thiếu thốn tình cảm. Điền cho rằng:“Còn sống trong cái gia đình này mãi, giữa những lo lắng nhỏ nhen này mãi, lòng Ðiền sẽ cạn. Cạn luôn cả nguồn thơ quý báu, mà Ðiền vẫn ao ước có ngày lại khơi…”. Điền không biết rằng mình đã trở nên ích kỉ, tính toán trước những sự hi sinh của người vợ. Điền thấy vợ mình chỉ là kẻ tục tằn, Điền muốn ra đi với ước mơ nghệ thuật của mình, vì Điền nghĩ: Nghệ thuật chính là cái ánh trăng xanh huyền ảo nó làm đẹp đến cả những cảnh thật ra chỉ tầm thường, xấu xa… Chỉ có những người đàn bà đẹp mới biết yêu văn chương của Điền và ý nghĩ này làm chính anh ta thấy xấu hổ. Giữa lúc ý định muốn bỏ đi trở nên rõ rệt thì tiếng rên đau đớn của đứa con, tiếng gắt gỏng của người vợ làm Điền sực tỉnh. Tình thương con, tinh thần trách nhiệm đã kéo Điền về với thực tại. Tâm thức của Điền đã có sự chuyển hóa. Điền không thể hạnh phúc khi gia đình Điền trong cảnh nghèo túng, đau khổ. Điền nhận ra nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối. Điền sẽ vẫn là văn sĩ, nhưng không phải trong thế giới mộng ảo của riêng anh ta, mà ngay trong thực tại, đón lấy tất cả những sự thực ở đời.
– Nghệ thuật trần thuật:
+ Ngôi kể thứ ba tạo dựng được tính chân thật, khách quan cho câu chuyện.
+ Điểm nhìn từ nhân vật tạo nên sự phong phú, linh hoạt cho ngôn ngữ trần thuật, giúp cho việc khắc họa tâm lí nhân vật thêm sâu sắc.
+ Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật được lồng ghép vào nhau tạo nên lời trần thuật nửa trực tiếp.
+ Ngôn ngữ đậm chất hiện thực, mang hơi thở đời sống.
+ Giọng điệu kể chuyện vừa chua chát, buồn thương, lạnh lùng, dửng dưng vừa sôi nổi, tha thiết.
* Đánh giá (Nhận xét, bình luận), nâng cao, mở rộng.
– Truyện ngắn thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc: phát hiện và khẳng định ước mơ cao đẹp của người trí thức, cảm thông với cuộc sống nghèo nàn, bế tắc của họ.
– Truyện ngắn thể hiện ngòi bút miêu tả tâm lí bậc thầy.
Kết bài:
– Khái quát về giá trị của các yếu tố đã phân tích đối với tác phẩm: Truyện ngắn đã thể hiện những thành công của Nam Cao trong việc xây dựng hình tượng người trí thức và miêu tả tâm lí nhân vật.
– Nêu ấn tượng và cảm xúc của người viết về các yếu tố đã phân tích; giá trị, hiệu quả tác động tới bạn đọc: Truyện ngắn cho người đọc hiểu rõ hơn về cuộc sống của người trí thức trước cách mạng cùng với những khát vọng của họ.
BÀI VIẾT THAM KHẢO
Nam Cao được đánh giá là bậc thầy về truyện ngắn hiện thực, một trong những tác giả tiêu biểu cho khuynh hướng hiện thực phê phán 1930 – 1945. Truyện ngắn “Giăng sáng” kể về cuộc sống của văn sĩ Điền bị gánh nặng áo cơm ghì sát đất khiến Điền không thể trở thành một văn sĩ lãng mạn như mong muốn của Điền. Truyện ngắn đã xây dựng thành công hình tượng văn sĩ Điền và thể hiện quan điểm nghệ thuật về văn chương của Nam Cao: nghệ thuật cần gắn bó với cuộc sống.
Truyện ngắn “Giăng sáng” viết về người trí thức với chủ đề: ca ngợi khát vọng cao đẹp của người trí thức. Điền có ước mơ trở thành một văn sĩ lãng mạn. Giấc mộng văn chương đã theo Điền từ thời trẻ tuổi. Vì phải kiến tiền đỡ đần gia đình, Điền tạm gác lại những dự định của mình. Điền trở thành thầy giáo dạy học, rồi Điền lấy vợ. Cuộc sống gia đình đã giúp Điền nhận ra giấc mộng văn chương hão huyền, chỉ giống như một thứ ánh trăng lừa dối phủ lên hiện thực cuộc sống nghèo nàn, đau khổ. Điền nhận ra đâu là chân lý nghệ thuật và lựa chọn con đường nghệ thuật vị nhân sinh.
Truyện ngắn đã phản ánh cuộc sống nghèo nàn, tăm tối của những người trí thức trước cách mạng. Họ có ước mơ cao đẹp nhưng gánh nặng áo cơm ghì sát đất khiến họ không có cơ hội thực hiện ước mơ đó. Qua đó, nhà văn bày tỏ sự cảm thông sâu sắc với bi kịch người trí thức, đề cao khát vọng cao đẹp của họ, đề cao lí tưởng nghệ thuật vị nhân sinh. Truyện ngắn thể hiện quan điểm nghệ thuật của nhà văn: nghệ thuật cần gắn bó với cuộc sống, nghệ thuật phải là những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.
Điền được thầy hiệu trưởng gán nợ cho bốn cái ghế mây. Đối với gia đình của Điền, đây là tài sản quý giá, chỉ khi có khách quan trọng và những buổi tối có trăng Điền mới đem ra ngồi cùng vợ con. Tối nay lại có trăng, nhưng chỉ có mình Điền ngồi vì vợ Điền vất vả cả ngày nên đi nằm sớm. Đang say sưa trong thế giới mộng ảo của mình thì tiếng gắt gỏng, quát tháo của vợ, tiếng khóc của con đã làm Điền tỉnh ngộ. Điền nhận thấy rằng mình không thể sung sướng trong khi con mình khổ vì Điền rất thương con. Điền không thể mơ mộng được nữa và càng không thể trốn tránh hiện thực. Điền quyết định đứng trong lao khổ, “mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời”. Đây là kiểu tình huống nhận thức. Sau những trải nghiệm cuộc sống gia đình, Điền mới nhận ra là giấc mộng văn chương không giúp gì cho gia đình của Điền, không thể làm cho vợ con Điền bớt khổ. Điền đã thay đổi lí tưởng nghệ thuật của mình, đã lựa chọn con đường nghệ thuật vị nhân sinh.
Điền là nhân vật trung tâm của truyện, là kiểu nhân vật người trí thức, là văn sĩ, thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người. Đó là quan niệm về con người tư tưởng. Con người va chạm với thực tế, trải qua quá trình nhận thức đã tìm ra lẽ sống của mình. Nhà văn đã thâm nhập sâu vào dòng tâm lí nhân vật để nói lên những ước mơ thầm kín của nhân vật. Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lí nhân vật. Diễn biến tâm lý của nhân vật trong truyện là quá trình đấu tranh nội tâm dẫn đến sự chuyển hóa trong nhận thức của nhân vật. Điền có ước mơ cao cả và ước mơ này không phù hợp với hiện thực cuộc sống nghèo túng của gia đình. Vậy nên, Điền phải gác ước mơ lại để kiếm tiền, rồi Điền lấy vợ. Điền vẫn tiếp tục cuộc sống nghèo túng và lại khao khát thoát li thực tại. Nhân vật phải lựa chọn giữa một bên là ước mơ cao cả với một bên là hiện thực nghèo túng. Điền yêu trăng, coi trăng là biểu tượng cho thế giới nghệ thuật. Tâm hồn thấm đẫm văn thơ của Điền khiến anh cảm thấy khổ, thiếu thốn tình cảm. Điền cho rằng:“Còn sống trong cái gia đình này mãi, giữa những lo lắng nhỏ nhen này mãi, lòng Ðiền sẽ cạn. Cạn luôn cả nguồn thơ quý báu, mà Ðiền vẫn ao ước có ngày lại khơi…”. Điền không biết rằng mình đã trở nên ích kỉ, tính toán trước những sự hi sinh của người vợ. Điền thấy vợ mình chỉ là kẻ tục tằn, Điền muốn ra đi với ước mơ nghệ thuật của mình, vì Điền nghĩ: Nghệ thuật chính là cái ánh trăng xanh huyền ảo nó làm đẹp đến cả những cảnh thật ra chỉ tầm thường, xấu xa… Chỉ có những người đàn bà đẹp mới biết yêu văn chương của Điền và ý nghĩ này làm chính anh ta thấy xấu hổ. Giữa lúc ý định muốn bỏ đi trở nên rõ rệt thì tiếng rên đau đớn của đứa con, tiếng gắt gỏng của người vợ làm Điền sực tỉnh. Tình thương con, tinh thần trách nhiệm đã kéo Điền về với thực tại. Tâm thức của Điền đã có sự chuyển hóa. Điền không thể hạnh phúc khi gia đình Điền trong cảnh nghèo túng, đau khổ. Điền nhận ra nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối. Điền sẽ vẫn là văn sĩ, nhưng không phải trong thế giới mộng ảo của riêng anh ta, mà ngay trong thực tại, đón lấy tất cả những sự thực ở đời.
Ngôi kể thứ ba tạo nên tính chân thật, khách quan cho câu chuyện. Điểm nhìn từ nhân vật tạo nên sự phong phú, linh hoạt cho ngôn ngữ trần thuật, giúp cho việc khắc họa tâm lí nhân vật thêm sâu sắc. Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật được lồng ghép vào nhau tạo nên lời trần thuật nửa trực tiếp. Ngôn ngữ đậm chất hiện thực, mang hơi thở đời sống. Giọng điệu kể chuyện vừa chua chát, buồn thương, lạnh lùng, dửng dưng vừa sôi nổi, tha thiết.
Truyện ngắn thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc: phát hiện và khẳng định ước mơ cao đẹp của người trí thức, cảm thông với cuộc sống nghèo nàn, bế tắc của họ. Truyện ngắn thể hiện ngòi bút miêu tả tâm lí bậc thầy. Truyện ngắn đã thể hiện những thành công của Nam Cao trong việc xây dựng hình tượng người trí thức và miêu tả tâm lí nhân vật.
Truyện ngắn cho người đọc hiểu rõ hơn về cuộc sống của người trí thức trước cách mạng cùng với những khát vọng của họ. Tác phẩm giúp người đọc nhận thức mối quan hệ giữa hiện thực và ước mơ. Ước mơ giúp cho đời sống tinh thần con người trở nên phong phú nhưng cũng cần phù hợp với thực tế để có cuộc sống hạnh phúc hơn.