Đề đọc hiểu, viết bài văn đánh giá nội dung và nghệ thuật truyện cô hàng xén của Thạch Lam

ĐỀ THAM KHẢO

ĐỌC – HIỂU (6,0 điểm)

Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu:

Tóm tắt: Từ thời còn son trẻ theo bạn bè gánh hàng xén đi khắp chợ buôn bán cho đến lúc về làm vợ nhà người, cũng vẫn gánh hàng bé xíu ấy, Tâm chắt chiu từ đó để nuôi gia đình mình. Những đồng tiền cô kiếm được – trước là để lo cho em, sau lại thêm gia đình chồng – vốn đã ít ỏi, nay bị xẻ nhỏ lại càng ít ỏi hơn. Và cuộc đời cô cứ như một tấm vải, ngày qua ngày cần mẫn dệt đều những đường chỉ thô sơ, nối dài cơ cực và mệt mỏi cho một đời người.

Cô Tâm bớt mệt hẳn đi khi nhìn thấy cây đa và cái quán gạch lộ ra trong sương mù. Cùng một lúc, dãy tre đầu làng gần hẳn lại, cành tre nghiêng ngả dưới gió thổi và nghe thấy tiếng lá rào rào và tiếng thân tre cót két. Cô sắp về đến nhà rồi, gánh hàng trên vai nhẹ đi, và những cái uốn cong của đòn gánh bây giờ nhịp với chân cô bước mau. Cô thấy chắc dạ và ấm cúng trong lòng, bỏ hẳn nỗi lo sợ từ nãy vẫn quanh quẩn trong trí khi cô qua quãng đồng rộng, trơ gốc rạ dưới gió bấc vi vút từng cơn.

[…]

Bữa cơm ngon lành quá, Tâm ngồi ăn dưới con mắt hiền từ và thương mến của mẹ. Các em cô quây quần cả chung quanh, hỏi chuyện chợ búa của chị. Tâm ngắm nghía các nét mặt xinh xẻo, những con mắt ngây thơ lóng lánh dưới mái tóc tơ của các em: cô thấy lòng đầm ấm và tự kiêu, lòng người chị chịu khó nhọc để kiếm tiền nuôi các em ăn học. Cô hỏi han sách vở của thằng Lân và thằng Ái, học lớp ba ở trường làng. Ngày trước, thời còn sung túc, cô cũng đã cắp sách đi học và về nhà lại được ông Tú dạy thêm chữ nho. Nhưng đã lâu, cô rời bỏ quyển sách, để bước chân vào cuộc đời rộng rãi hơn, khó khăn và chặt chẽ. Buôn bán bây giờ mỗi ngày một chật vật, bởi cô vốn ít. Tất cả gánh hàng của Tâm chỉ đáng giá hai chục bạc. Giá nàng có nhiều tiền để buôn vải bán các chợ như Liên.

– Thôi, các em đi ngủ đi, mai còn dậy sớm mà đi học chứ.

Lân cười, trả lời chị:

– Mai chủ nhật cơ mà, chị quên rồi à? Tối nay em thức rõ khuya để nói chuyện với chị.

Nhưng một lát sau, trong căn nhà yên tĩnh, chỉ còn Tâm và bà Tú ngồi trên phản: cô kiểm điểm và xếp đặt lại các thức hàng để mai đi phiên chợ Bằng chính. Những thứ hàng nho nhỏ, khác nhau và xinh xắn: cuộn chỉ, bao kim, hộp bút, cúc áo, giấy lơ, một trăm thức lặt vặt qua lại trên ngón tay nhỏ của thiếu nữ, vừa quý báu lại vừa ít ỏi. Mỗi thứ đối với Tâm có một linh hồn riêng, và cô hàng lờ mờ đoán hiểu trong thâm tâm những khó nhọc và công của đã làm thành chúng. 

– Ðộ này, hàng có bán được không con?

– Thưa u, cũng khá ạ.

Chị Liên bán vải cũng chẳng đẹp bằng. Tâm biết mình xinh nhất chợ. Bọn con trai cứ hay quanh quẩn chỗ cô ngồi và buông lời chòng ghẹo. Nhưng cô không để ý: Tâm thấy vững vàng ở giá trị và lòng cao quý của mình. Nàng đã đảm đang nuôi cả một nhà, với lại, trừ phi là cô gái hư không kể, còn ai ở địa vị nàng cũng phải tảo tần buôn bán như thế. Làm việc, đối với Tâm, là lệ chung của người ta. Cô thấy chung quanh toàn những đàn bà chịu khó làm ăn vất vả để nuôi chồng, nuôi con. Không bao giờ Tâm nghĩ cho mình, cho cuộc đời riêng của cô.

[…] Trong nhà đã ngủ yên tĩnh cả rồi. Trên án thư, bên ngọn đèn hoa kỳ, chồng sách và cái ống bút của Lân, Ái che khuất ánh sáng. Các em nàng! Những đứa em thông minh và ngoan ngoãn quá! Không biết nàng có tảo tần mãi được để kiếm tiền mua giấy bút cho chúng ăn học không? Tâm mơ màng nghĩ đến sự thành công của các em sau này: đỗ đạt rồi làm trên tỉnh giúp thầy mẹ. Nhà nàng lại sung túc và mát mặt như xưa.

Người chị mộc mạc và âu yếm ấy nghĩ ngợi trong đêm yên lặng. Tiếng trống cầm canh đã qua nửa đêm, nàng mới khẽ thở dài, nhắm mắt ngủ.

Tất cả những nỗi lo lắng lui đi và tâm hồn giản dị của thiếu nữ được nghỉ yên tĩnh.

Sáng sớm hôm sau, trong gió bấc lạnh, Tâm đã mở cổng gánh hàng lên chợ. Sương trắng còn đầy ở các ngõ trong làng; mùi rơm rác và cỏ ướt thoang thoảng bốc lên, mùi quen của quê hương và của đất mầu khiến Tâm thấy dễ chịu và thêm can đảm. Nàng rảo bước cho mau chóng đến chợ.

Cái đòn gánh cong xuống vì hàng nặng, kĩu kịt trên mảnh vai nhỏ bé theo nhịp điệu của bước đi. Chịu khó, chịu khó từng tí một, hết bước nọ sang bước kia, cứ thế mà đi không nghĩ ngợi. Tâm thấy ngày nay cũng như mọi ngày, ngày mai cũng thế nữa; tất cả cuộc đời nàng lúc nào cũng chịu khó và hết sức, như tấm vải thô dệt đều nhau. Có phải đâu chỉ một mình cô; trong những lũy tre xanh kia, bao nhiêu người cũng như cô, cũng phải chịu khó và nhọc nhằn, để kiếm tiền nuôi chồng, nuôi con, nuôi các em. Tâm không chán nản cũng không tự kiêu, chỉ thấy yên tâm chắc chắn, như nhiều người khác cũng làm việc, cũng sống như nàng.

Lược một đoạn: Rồi Tâm lấy chồng. Nhà chồng nàng cũng nghèo, nhà cửa không có gì. Cậu Bài dạy học trong làng được dăm bảy bồng bạc lương. Bao nhiêu việc chi tiêu trong nhà lại trông cả vào mình nàng. Bây giờ gánh hàng trở nên nặng quá trên đôi vai nhỏ bé. Chiếc đòn gánh càng cong xuống và rên rỉ. Ngoài giang sơn nhà chồng nàng phải gánh vác, Tâm lại còn lo sao kiếm được đủ tiền để thêm cho các em ăn học.

[…] Lúc Tâm ra về, trời đã tối. Nàng vội vã bước mau để về cho con bú. Sương mù xuống phủ cả cánh đồng, và gió lạnh nổi lên: Tâm thu vạt áo lại cho đỡ rét, lần theo bờ cỏ đi. Lòng nàng mệt nhọc và e ngại: lấy đâu mà bù vào chỗ tiền đưa cho em? Tâm nhớ lại những lời dằn của mẹ chồng và những câu giận dữ của Bài mỗi khi hỏi nàng không có tiền. Nàng nghĩ đến những ngày buôn bán được, ngày không, Tâm dấn bước. Cái vòng đen của rặng tre làng Bng bỗng vụt hiện lên trước mặt, tối tăm và dầy đặc. Tâm buồn rầu nhìn thấu cả cuộc đời nàng, cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô sơ. Nàng cúi đầu đi mau vào trong ngõ tối.

(Trích Cô hàng xén, Thạch Lam, Gió lạnh đầu mùa, NXB Văn học, 2014, tr.171-187)

Đề 1: Trắc nghiệm + Tự luận

Lựa chọn đáp án đúng (Mỗi câu 0.5 điểm):

Câu 1. Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên là:

  1. biểu cảm C. tự sự
  2. chính luận D. miêu tả

Câu 2. Điều gì xảy ra khi “Tâm ngắm nghía các nét mặt xinh xẻo, những con mắt ngây thơ lóng lánh dưới mái tóc tơ của các em” ?

  1. cô thấy lòng đầm ấm và tự kiêu, lòng người chị chịu khó nhọc để kiếm tiền nuôi các em ăn học.
  2. Tâm thấy vững vàng ở giá trị và lòng cao quý của mình.
  3. cô kiểm điểm và xếp đặt lại các thức hàng để mai đi phiên chợ Bằng chính. Những thứ hàng nho nhỏ, khác nhau và xinh xắn: cuộn chỉ, bao kim, hộp bút, cúc áo, giấy lơ, một trăm thức lặt vặt qua lại trên ngón tay nhỏ của thiếu nữ, vừa quý báu lại vừa ít ỏi.
  4. Tâm buồn rầu nhìn thấu cả cuộc đời nàng, cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô sơ.

Câu 3. Dòng nào dưới đây gọi tên đúng biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn: “Tiếng trống cầm canh đã qua nửa đêm, nàng mới khẽ thở dài, nhắm mắt ngủ.”?

  1. Liệt kê C. Nhân hóa
  2. So sánh D. Ẩn dụ

Câu 4. Truyện ngắn trên viết về đề tài gì?

  1. Người nông dân Việt Nam C. Người phụ nữ Việt Nam
  2. Người trí thức Việt Nam D. Tiểu tư sản Việt Nam

Câu 5. Hình ảnh “cái đòn gánh” trong câu văn “cái đòn gánh cong xuống vì hàng nặng, kĩu kịt trên mảnh vai nhỏ bé theo nhịp điệu của bước đi” có ý nghĩa gì?

  1. “Cái đòn gánh” là những nỗ lực, cố gắng của cô hàng xén khi cố gắng chống lại hiện thực xã hội tối tăm, nghèo đói. Thể hiện thái độ xót thương, sự trân trọng của nhà văn với người nông dân Việt Nam.
  2. “Cái đòn gánh” là sự chán nản, buồn bã của Tâm khi ý thức về số phận đầy trớ trêu của mình. Thể hiện thái độ bất bình của nhà văn về xã hội Việt Nam lúc bấy giờ: trọng nam khinh nữ, chà đạp số phận con người.
  3. “Cái đòn gánh” là gánh nặng mưu sinh, nỗi nhọc nhằn thân phận cùng bước chân bền bỉ, lặng lẽ của Tâm. Qua đây, Thạch Lam đã thể hiện niềm xót xa, sự trân trọng dành cho vẻ đẹp tần tảo, chắt chiu, đức hi sinh ân thầm, kiên nhẫn của người phụ nữ Việt Nam truyền thống.
  4. Cái đòn gánh” là sự phản kháng, đấu tranh đầy bền bỉ, kiên cường của Tâm với mẹ chồng và xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Thể hiện sự thương cảm của nhà văn với giai cấp tiểu tư sản Việt Nam trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.

Câu 6. Văn bản được kể theo ngôi kể thứ 3, điểm nhìn nhân vật Tâm. Điều này có tác dụng:

  1. giúp người đọc vừa có một cái nhìn chủ quan, chân thực, tin tưởng về cuộc đời của nhân vật; từ đó có cơ sở đi sâu khám phá những suy nghĩ, nội tâm nhân vật cô hàng xén.
  2. giúp người đọc vừa có một cái nhìn khách quan, soi chiếu, đánh giá về cuộc đời của nhân vật; vừa có thể đi sâu khám phá những suy nghĩ, nội tâm nhân vật cô hàng xén.
  3. C. giúp hình tượng nhân vật cô hàng xén trở nên chân thực, sinh động và hấp dẫn; từ đó dễ dàng phát hiện những bài học ý nghĩa, sâu xa mà tác giả muốn gửi gắm qua tác phẩm.
  4. giúp hình tượng nhân vật Tâm thể hiện được cái tôi của bản thân; từ đó, tác giả khắc họa rõ nét vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa.

Câu 7. Vì sao giữa những bộn bề, lo toan lại có những giây phút Tâm cảm thấy “tất cả những nỗi lo lắng lui đi và tâm hồn giản dị của thiếu nữ được nghỉ yên tĩnh”?

  1. Vì Tâm luôn lo cho các em và những người xung quanh, cô không chỉ đẹp người mà còn đẹp nết.
  2. Vì cô nhận được sự công nhận của mọi người đối với những cố gắng, hi sinh của bản thân.
  3. C. Vì Tâm biết ngoài kia xã hội cũng có nhiều người phụ nữ giống mình, cũng tần tảo, miệt mài và chịu đựng.
  4. Vì giữa những nỗi lo toan của cuộc sống, cô vẫn không ngừng hi vọng “trái ngọt” sẽ đến với các em và gia đình mình.

Trả lời câu hỏi:

Câu 8 (0.5 điểm). Xác định tình huống truyện được đặt ra trong đoạn trích.

Câu 9 (1.0 điểm). Chỉ ra biểu hiện và nhận xét về giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo được thể hiện qua đoạn trích trên.

Câu 10 (1.0 điểm). Trong đoạn trích trên, nhân vật Tâm được khắc họa với hình tượng của một cô gái chăm chỉ, “không bao giờ Tâm nghĩ cho mình, cho cuộc đời riêng của cô”. Liệu sự hi sinh của Tâm có đáng giá hay không? Vì sao?

Đề 2: Tự luận

Câu 1. Cho biết phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên trên

Câu 2. Xác định tình huống truyện được đặt ra trong đoạn trích.

Câu 3. Xác định ngôi kể của đoạn trích và cho biết tác dụng của ngôi kể đó.

Câu 4. Anh/ chị hiểu như thế nào về ý nghĩa của hình ảnh “cái đòn gánh” trong câu văn: “Cái đòn gánh cong xuống vì hàng nặng, kĩu kịt trên mảnh vai nhỏ bé theo nhịp điệu của bước đi”.

Câu 5. Chỉ ra biểu hiện và nhận xét về giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo được thể hiện qua đoạn trích trên.

Câu 6. Trong đoạn trích trên, nhân vật Tâm được khắc họa với hình tượng của một cô gái chăm chỉ, “không bao giờ Tâm nghĩ cho mình, cho cuộc đời riêng của cô”. Liệu sự hi sinh của Tâm có đáng giá hay không? Vì sao?

PHẦN LÀM VĂN

Anh/chị hãy viết bài văn (khoảng 500 chữ) phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Cô hàng xén (được dẫn ở trên) của nhà văn Thạch Lam.

Hướng dẫn đáp án chi tiết

ĐỌC – HIỂU

Đề 1: Trắc nghiệm + Tự luận

Phần Câu Nội dung Điểm
I Đọc hiểu (6.0 điểm)
Trắc nghiệm      
  1 C 0.5
2 A 0.5
3 A 0.5
4 C 0.5
5 C 0.5
6 B 0.5
7 D 0.5
Tự luận      
  8 Tình huống truyện trong đoạn trích: sự lựa chọn hi sinh cuộc sống riêng để nuôi sống gia đình của cô hàng xén Tâm 0.5
9 – Giá trị hiện thực:

+ Khắc họa cuộc sống mưu sinh đầy nhọc nhằn, vất vả của người nông dân trước cách mạng tháng Tám (1945), đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội xưa: hình ảnh của đòn gánh cong xuống vì hàng nặng, chi tiết cậu Bài – chồng Tâm dạy học trong làng được dăm bảy đồng bạc lương…

+ Lột tả chế độ cũ trọng nam khinh nữ, những thiết chế giáo dục người phụ nữ phải hi sinh tất cả, sống lầm lũi mà quên đi bản thân mình: Có phải đâu chỉ một mình cô; trong những lũy tre xanh kia, bao nhiêu người cũng như cô, cũng phải chịu khó và nhọc nhằn, để kiếm tiền nuôi chồng, nuôi con, nuôi các em. Tâm không chán nản cũng không tự kiêu, chỉ thấy yên tâm chắc chắn, như nhiều người khác cũng làm việc, cũng sống như nàng Tâm nhớ lại những lời dằn của mẹ chồng và những câu giận dữ của Bài mỗi khi hỏi nàng không có tiền.

– Giá trị nhân đạo:

+ Ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Tâm- một người phụ nữ tần tảo, chịu thương chịu khó, nhân hậu, vị tha giàu đức hi sinh.

+ Trân trọng sự hi sinh của người phụ nữ: Tâm thấy vững vàng ở giá trị và lòng cao quý của mình. Nàng đã đảm đang nuôi cả một nhà.

+ Cảm thương cho những kiếp người chật vật mưu sinh: Tâm buồn rầu nhìn thấu cả cuộc đời nàng, cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô sơ.

1.0
10 – HS đưa ra quan điểm cá nhân: sự hi sinh của Tâm là đáng giá/ không đáng giá/ vừa đáng giá vừa không đáng giá

– Giải thích:

+ Sự hi sinh là đáng giá: đối với Tâm, hạnh phúc là sự hi sinh. Tâm hạnh phúc vì mình đã san sẻ được gánh nặng với cha mẹ để gia đình bớt cực nhọc, các em có tương lai. Cô cũng hạnh phúc vì sau một ngày dài có thể ngắm nhìn những gương mặt ngây thơ, hồn nhiên của các em, được nhìn chúng ăn ngon và mơ màng nghĩ đến sự đầm ấm, hạnh phúc như xưa của gia đình.

+ Sự hi sinh là không đáng giá: Tâm chỉ nghĩ đến bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ của người con gái với gia đình mà chưa từng nghĩ đến cuộc đời của riêng cô, hạnh phúc của riêng mình. Tâm không nỡ mua sắm gì đáng giá cho bản thân, cam chịu kiếp sống mòn mỏi, thầm lặng hi sinh, chịu đựng, quên mất cách chăm sóc, yêu thương bản thân. Sự hi sinh ấy nếu như không nhận được sự trân trọng từ người thân mà coi đó là hiển nhiên thì sự hi sinh ấy là vô nghĩa.

+ Vừa đáng giá, vừa không đáng giá: lập luận kết hợp 2 hướng trên.

1.0

 

Đề 2: Tự luận

 

Phần Câu Nội dung Điểm
I Đọc hiểu (6.0 điểm)
  1 – PTBĐ chính: Tự sự  
  2 – Tình huống truyện trong đoạn trích: sự lựa chọn hi sinh cuộc sống riêng để nuôi sống gia đình của cô hàng xén Tâm.  
  3 – Ngôi kể thứ 3

– Tác dụng: giúp người đọc vừa có một cái nhìn khách quan soi chiếu, đánh giá về cuộc đời của nhân vật; vừa có thể đi sâu khám phá những suy nghĩ, nội tâm nhân vật cô hàng xén. Qua đó, người đọc có thể thấu hiểu được những lí do mà nhân vật sống một cuộc đời đầy hi sinh, để thấy được vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống.

 
  4 Ý nghĩa của hình ảnh “cái đòn gánh”:

– Hình ảnh đã tô đạm ấn tượng về gánh nặng mưu sinh, nỗi nhọc nhằn thân phận cùng bước chân bền bỉ, lặng lẽ của Tâm.

– Qua đây, Thạch Lam đã thể hiện niềm xót xa, sự trân trọng dành cho vẻ đẹp tần tảo, chắt chiu, đức hi sinh ân thầm, kiên nhẫn của người phụ nữ Việt Nam truyền thống.

 
  5 – Giá trị hiện thực:

+ Khắc họa cuộc sống mưu sinh đầy nhọc nhằn, vất vả của người nông dân trước cách mạng tháng Tám (1945), đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội xưa: hình ảnh của đòn gánh cong xuống vì hàng nặng, chi tiết cậu Bài – chồng Tâm dạy học trong làng được dăm bảy đồng bạc lương…

+ Lột tả chế độ cũ trọng nam khinh nữ, những thiết chế giáo dục người phụ nữ phải hi sinh tất cả, sống lầm lũi mà quên đi bản thân mình: Có phải đâu chỉ một mình cô; trong những lũy tre xanh kia, bao nhiêu người cũng như cô, cũng phải chịu khó và nhọc nhằn, để kiếm tiền nuôi chồng, nuôi con, nuôi các em. Tâm không chán nản cũng không tự kiêu, chỉ thấy yên tâm chắc chắn, như nhiều người khác cũng làm việc, cũng sống như nàng Tâm nhớ lại những lời dằn của mẹ chồng và những câu giận dữ của Bài mỗi khi hỏi nàng không có tiền.

– Giá trị nhân đạo:

+ Trân trọng sự hi sinh của người phụ nữ: Tâm thấy vững vàng ở giá trị và lòng cao quý của mình. Nàng đã đảm đang nuôi cả một nhà.

+ Cảm thương cho những kiếp người chật vật mưu sinh: Tâm buồn rầu nhìn thấu cả cuộc đời nàng, cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già toàn khó nhọc và lo sợ, ngày kia như tấm vải thô sơ.

 
  6 – HS đưa ra quan điểm cá nhân: sự hi sinh của Tâm là đáng giá/ không đáng giá/ vừa đáng giá vừa không đáng giá

– Giải thích:

+ Sự hi sinh là đáng giá: đối với Tâm, hạnh phúc là sự hi sinh. Tâm hạnh phúc vì mình đã san sẻ được gánh nặng với cha mẹ để gia đình bớt cực nhọc, các em có tương lai. Cô cũng hạnh phúc vì sau một ngày dài có thể ngắm nhìn những gương mặt ngây thơ, hồn nhiên của các em, được nhìn chúng ăn ngon và mơ màng nghĩ đến sự đầm ấm, hạnh phúc như xưa của gia đình.

+ Sự hi sinh là không đáng giá: Tâm chỉ nghĩ đến bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ của người con gái với gia đình mà chưa từng nghĩ đến cuộc đời của riêng cô, hạnh phúc của riêng mình. tâm không nỡ mua sắm gì đáng giá cho bản thân, cam chịu kiếp sống mòn mỏi, thầm lặng hi sinh, chịu đựng, quên mất cách chăm sóc, yêu thương bản thân. Sự hi sinh ấy nếu như không nhận được sự trân trọng từ người thân mà coi đó là hiển nhiên thì sự hi sinh ấy là vô nghĩa.

+ Vừa đáng giá, vừa không đáng giá: lập luận kết hợp 2 hướng trên.

 

LÀM VĂN

(

  1. Mở bài:

– Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm truyện.

– Nêu yếu tố nổi bật sẽ phân tích, đánh giá.

  1. Thân bài:

* Nêu các điểm nổi bật về nội dung, ý nghĩa tác phẩm

– Giá trị hiện thực:

+ Truyện Thạch Lam hướng tới số phận những con người nhỏ bé, những con người nhọc nhằn, vất vả trong cuộc sống mưu sinh của con người trước cách mạng tháng 8/1945. Đặc biệt là hình ảnh người phụ nữ trong xã hội xưa, họ cam chịu chấp nhận thiệt thòi và coi việc mình phải gánh vác, phải lo toan, phải mưu sinh cho người khác là trách nhiệm bổn phận của mình.

+ Hình ảnh “Cái đòn gánh cong xuống…có phải đâu chỉ mình cô” è Tâm bằng lòng chấp nhận vì đó là lẽ đương nhiên, bao nhiêu người như vậy phải kiếm tiền nuôi chồng, nuôi con, nuôi các em, phải chu toàn công việc nhà chồng…

è Phản ánh chế độ trọng nam khinh nữ, chế độ tàm tòng tứ đức đè nặng lên số phận người phụ nữ.

– Giá trị nhân đạo:

+ Cảm thương, trân trọng sự hi sinh của Tâm, của những người phụ nữ.

+ Ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam truyền thống: Chịu thương, chịu khó, nhân hậu, vị tha, giàu đức hy sinh, giàu tình yêu thương.

+ Xót xa thương cảm cho thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến, họ cam chịu, thiệt thòi, chịu bao đắng cay vất vả; họ không được quan tâm sẻ chia. Cuộc sống của họ bị cương tỏa bởi những lề thói lạc hậu của chế độ phong kiến, con người không dám sống cho riêng mình. Cuộc sống của họ là những bổn phận trách nhiệm và nghĩa vụ. Họ bị trói chặt bởi những lề thói phong kiến lạc hậu hà khắc…

+ Nhà văn mong muốn xã hội phải thay đổi, phải bình đẳng hơn để người phụ nữ trong xã hội phong kiến được sống đúng với giá trị mình đang có, được trân trọng, yêu thương, được đối xử công bằng, được tự do, hạnh phúc…

* Phân tích cái hay, cái đẹp của các yếu tố nghệ thuật hoặc hình ảnh đặc sắc.

+ Yếu tố hiện thực hòa quyện với lãng mạn trữ tình.

+ Những câu văn giàu chất thơ, Thạch Lam khai thác thế giới nội tâm của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ trong cuộc sống thường ngày.Những biến thái tinh vi của cảnh vật sóng bước cùng những chuyển biến tâm lý đầy tinh tế trong nội tâm nhân vật:“Cô Tâm bớt mệt hẳn đi khi nhìn thấy cây đa và cái quán gạch lộ ra trong sương mù. Cùng một lúc, dãy tre đầu làng gần hẳn lại, cành tre nghiêng ngả dưới gió thổi và nghe thấy tiếng lá rào rào và tiếng thân tre cót két…Cô thấy chắc dạ và ấm cúng trong lòng, bỏ hẳn nỗi lo sợ từ nãy vẫn quanh quẩn trong trí khi cô qua quãng đồng rộng, trơ gốc rạ dưới gió bấc vi vút từng cơn”.

+ Điểm nhìn trần thuật linh hoạt. Dòng ý thưc của người kể chuyện như trùng khớp với hình tượng nghệ thuật dù tác giả chọn ngôi kể thứ ba. Từ điểm nhìn của người kể chuyện, nhà văn chuyển điểm nhìn sang nhân vật. Nhà văn tưởng chừng như đã nhập tâm vào nhân vật của mình để miêu tả những biến thái tinh vi trong nội tâm nhân vật “Cô hàng xén”. Từ những bước chân nặng nề, mệt mỏi của Tâm sang phiên chợ kết thúc tới cảm giác an yên mãn nguyện trong bữa cơm gia đình vì được ngắm: “các nét mặt xinh xẻo, những con mắt ngây thơ lóng lánh dưới mái tóc tơ của các em: cô thấy lòng đầm ấm và tự kiêu, lòng người chị chịu khó nhọc để kiếm tiền nuôi các em ăn học

+ Xây dựng những chi tiết nhỏ nhưng làm nên những giá trị lớn của tác phẩm, khắc họa tính cách và dự cảm về số phận nhân vật “Tâm biết mình xinh…không để ý. Tâm thấy vững vàng ở giá trị cao quý của mình” è Ý thức giá trị bản thân, tự hào bản thân đáng lẽ Tâm sẽ là người tự tin, chủ động trong cuộc sống, có quyền được sống với giá trị bản thân, có quyền được lựa chọn hạnh phúc cho riêng mình. Nhưng ở Tâm lại khác, Tâm không sống cho mình “Làm việc, đối với Tâm, là lệ chung của người ta. Cô thấy chung quanh toàn những đàn bà chịu khó làm ăn vất vả để nuôi chồng, nuôi con. Không bao giờ Tâm nghĩ cho mình, cho cuộc đời riêng của cô.

è Phẩm chất con người của Tâm chịu thương,chịu khó, hy sinh

è Dự cảm cho một số phận chịu nhiều vất vả, thiệt thòi, chịu nhiều đắng cay nhọc nhằn

+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua lời nói, cử chỉ, hành động (hành động không có xung đột), qua những suy tư của Tâm, qua những đánh giá của người trần thuật.

+ Truyện Thạch Lam không có những xung đột, truyện như một bài thơ trữ tình. Thạch Lam viết những điều hết sức bình dị và tinh tế.

+ Giọng điệu điềm đạm nhưng chứa đựng bao tình cảm yêu mến.

+ Câu văn giàu hình ảnh, gợi cảm, trong sáng, giá trị thâm trầm sâu sắc.

* Đánh giá (Nhận xét, bình luận), nâng cao, mở rộng.

+ Nhận xét của Sê-khốp: “Nhà văn chân chính phải là nhà văn nhân đạo trong cốt tủy

+ Thạch Lam là “ nhân đạo từ trong cốt tủy” ấy. Văn phong Thạch Lam được coi là “ngắt câu bằng màu, chấm câu bằng nốt nhạc, chuyển đoạn bằng hình ảnh” (Thụy Khê) và dẫn dắt người đọc vào không phải bằng tình tiết, bằng những xung đột gay cấn mà bằng “ hành trình cảm giác” của trái tim luôn cúi xuống những số phận nghèo khổ, bé mọn, yếu đuối trong xã hội. Nhà văn trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của họ, vẻ đẹp của những con người dù có khổ đau, thiệt thòi đến mấy vẫn luôn giũ gìn phẩm chất cao đẹp, luôn bao dung, nhân hậu, vị tha. Điều đó được thể hiện rõ ở nhân vật Tâm trong tác phẩm Cô hang xén…

  1. Kết bài:

– Khái quát về giá trị của các yếu tố đã phân tích đối với tác phẩm.

– Nêu ấn tượng và cảm xúc của người viết về các yếu tố đã phân tích; giá trị, hiệu quả tác động tới bạn đọc.

 

Bài viết tham khảo:

 

        Raxun Gamzatôp từng nói rằng: “Cái tài nhờ cái tâm để cháy lên, cái tâm nhờ có cái tài mà tỏa sáng”. Quả thật khi viết tác phẩm “Cô hàng xén”, nhà văn Thạch Lam đã tỏa sáng cái tâm cao đẹp và cái tài của người nghệ sĩ chân chính. Và mỗi lần đắm mình trong trang văn ấy độc giả càng thấu hiểu hơn giá trị nội dung và nghị thuật của tác phẩm.

Truyện Thạch Lam thường hướng tới số phận những con người nhỏ bé, nhọc nhằn, vất vả trong cuộc sống mưu sinh trước cách mạng tháng 8/1945. Đặc biệt là hình ảnh người phụ nữ trong xã hội xưa, họ cam chịu chấp nhận thiệt thòi và coi việc mình phải gánh vác, phải lo toan, phải mưu sinh cho người khác là trách nhiệm bổn phận của mình.

Tác phẩm “Cô hàng xén” đã tạo ra một nhánh vẽ mới bên cạnh “đại lộ” của sứ mệnh phản ánh nhân sinh như văn nhân bao đời nay vẫn thường làm. Cuộc sống túng thiếu không phải là lí do khiến Tâm rơi vào tình cảnh cam chịu đó. Mà bởi những quan niệm, thành kiến về thân phận người con gái là phải sống trọn bổn phận, dâng trọn đời mình cho gia đình đôi bên đã trở nên quá đỗi quen thuộc ở xã hội lúc bấy giờ: “Làm việc, đối với Tâm, là lệ chung của người ta. Cô thấy chung quanh toàn những đàn bà chịu khó làm ăn vất vả để nuôi chồng, nuôi con. Không bao giờ Tâm nghĩ cho mình, cho cuộc đời riêng của cô.”. Hình ảnh “Cái đòn gánh cong xuống…có phải đâu chỉ mình cô” cho ta hiểu thêm sự bằng lòng chấp nhận đến cam chịu của nhân vật Tâm. Cô coi đó là lẽ đương nhiên, bao nhiêu người như vậy phải kiếm tiền nuôi chồng, nuôi con, nuôi các em, phải chu toàn công việc nhà chồng… Thạch Lam đã chĩa thẳng ngòi bút của mình vào chế độ xã hội trọng nam khinh nữ, chế độ tàm tòng tứ đức đè nặng lên số phận người phụ nữ mà viết, mà lên án, mà phê phán.

 

Thạch Lam thương cho Tâm, một cô gái “từ tuổi trẻ đến tuổi già toàn khó nhọc và lo sợ”, nỗi khổ tâm, lo lắng trong lòng kéo dài vô hạn, không có điểm dừng. Ngoài kia cũng có biết bao mảnh đời như thế, cũng cặm cụi sớm hôm dể cáng đáng gia đình. Tâm – một kiếp phận “như tấm vải thô dệt đều nhau” – đầy nhọc nhằn, mệt mỏi. Số phận này dường như hiện thân vào cả cảnh vật “Cái vòng đen của rặng tre làng Bằng bỗng vụt hiện lên trước mặt, tối tăm và dày đặc.” Tâm buộc phải chấp nhận số phận “cúi đầu đi vào trong ngõ tối”, nhanh nhanh trở về với hiện thực, tiếp tục cuộc sống mưu sinh vất vả, gánh gồng.

Và hơn hết, nhân vật Tâm trong “Cô hàng xén” được tác giả viết nên bởi tấm lòng tôn vinh, ngợi ca vẻ đẹp muôn đời của người phụ nữ: Chịu thương, chịu khó,nhân hậu,vị tha, giàu đức hy sinh, giàu tình yêu thương. Đâu chỉ có “đấng mày râu” mới làm nên nghiệp lớn. Thạch lam thấy thương yêu và sẵn sàng cúi mình trước sự cho đi của những kiếp người bé nhỏ mà kiên cường ấy. Không phải Tâm không có ước mơ, nàng “mơ màng nghĩ đến sự thành công của các em sau này: “đỗ đạt rồi làm trên tỉnh giúp thầy mẹ. Nhà mình lại sung túc và mát mặt như xưa”. Cô chẳng hề bận tâm đến thứ hạnh phúc của riêng mình. Biết bao người con gái tuổi trăng tròn phải đánh đổi mồ hôi, nước mắt, tuổi xuân và ước vọng cả đời mà nuôi gia đình,con thơ. Những năm tháng thanh xuân mơ mộng với họ thật ngắn ngủi, câu chuyện học hành đèn sách cũng chỉ có trong huyễn mộng, cơm áo gạo tiền mới là bản chất của cuộc đời. Chưa chắc những “tấm lụa đào” thời xưa đã chịu lắm đắng cay bằng những “tấm vải thô sơ”- hình ảnh biểu trưng cho người phụ nữ một đời cực nhọc, bận bịu, chẳng còn biết mình nên sống vì điều gì ngoài việc tận tâm với gia đình đôi bên. Tác giả xót xa, thương cảm cho thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến, họ cam chịu, thiệt thòi, chịu bao đắng cay vất vả; họ không được quan tâm sẻ chia. Cuộc sống của họ chỉ bị cương tỏa bởi những lề thói lạc hậu của chế độ phong kiến, con người không dám sống cho riêng mình, bị trói chặt bởi những lễ giáo lạc hậu hà khắc…

Không chỉ vậy, với “Cô hàng xén”, Thạch Lam mong muốn thể hiện ước mơ về một cuộc sống công bằng; không còn những bất công, không còn những người phụ nữ phải hi sinh riêng mình vì thứ trách nhiệm mà lẽ ra ai cũng phải gánh vác. Ông vừa phản ánh hiện thực, vừa truyền thổi vào tâm hồn người đọc một niềm tin, một tình yêu bát ngát vào cuộc sống. Thay vì “cúi đầu đi mau vào trong ngõ tối”, ông muốn những người phụ nữ ấy hãy biết yêu thương bản thân mình hơn, được sẻ chia yêu thương,nâng niu, trân trọng hơn.

          “Cô hàng xén” là tác phẩm tiêu biểu cho truyện ngắn của Thạch Lam, yếu tố hiện thực hòa quyện với lãng mạn trữ tình, cốt truyện thiên về mạch trữ tình. Những câu văn giàu chất thơ, tác giả khai thác thế giới nội tâm của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ trong cuộc sống thường ngày.Những biến thái tinh vi của cảnh vật sóng bước cùng những chuyển biến tâm lý đầy tinh tế trong nội tâm nhân vật: Cô Tâm bớt mệt hẳn đi khi nhìn thấy cây đa và cái quán gạch lộ ra trong sương mù. Cùng một lúc, dãy tre đầu làng gần hẳn lại, cành tre nghiêng ngả dưới gió thổi và nghe thấy tiếng lá rào rào và tiếng thân tre cót két…Cô thấy chắc dạ và ấm cúng trong lòng, bỏ hẳn nỗi lo sợ từ nãy vẫn quanh quẩn trong trí khi cô qua quãng đồng rộng, trơ gốc rạ dưới gió bấc vi vút từng cơn. Câu văn giàu hình ảnh, gợi cảm, trong sáng, giá trị thâm trầm sâu sắc. Trong tác phẩm, ta thấy dòng ý thức của người kể chuyện như trùng khớp với hình tượng nghệ thuật dù tác giả chọn ngôi kể thứ ba. Điểm nhìn trần thuật linh hoạt, từ điểm nhìn của người kể chuyện, nhà văn chuyển điểm nhìn sang nhân vật. Nhà văn tưởng chừng như đã nhập tâm vào nhân vật của mình để miêu tả những biến thái tinh vi trong nội tâm nhân vật “Cô hàng xén”. Từ những bước chân nặng nề, mệt mỏi của Tâm sang phiên chợ kết thúc tới cảm giác an yên mãn nguyện trong bữa cơm gia đình vì được ngắm: các nét mặt xinh xẻo, những con mắt ngây thơ lóng lánh dưới mái tóc tơ của các em: cô thấy lòng đầm ấm và tự kiêu, lòng người chị chịu khó nhọc để kiếm tiền nuôi các em ăn học…Tất cả đã khắc họa nên “Cô hàng xén” đại diện cho vẻ đẹp và nỗi đau khổ, thiệt thòi của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.

Bên cạnh những đặc sắc nghệ thuật của Thạch Lam được nói ở trên, ta còn thấy Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua lời nói, cử chỉ, hành động (hành động không có xung đột), qua những suy tư của Tâm, qua những đánh giá của người trần thuật. Truyện Thạch Lam không có những xung đột, truyện như một bài thơ trữ tình. Thạch Lam viết những điều hết sức bình dị và tinh tế với giọng điệu điềm đạm nhưng chứa đựng bao tình cảm yêu mến.

Nhà văn Sê-khốp đã từng khẳng định : “Nhà văn chân chính phải là nhà văn nhân đạo trong cốt tủy”. Và có lẽ cái thiên bẩm của Thạch Lam là “ nhân đạo từ trong cốt tủy ấy”. Văn phong Thạch Lam được coi là “ngắt câu bằng màu, chấm câu bằng nốt nhạc, chuyển đoạn bằng hình ảnh” (Thụy Khê) và dẫn dắt người đọc  không phải bằng tình tiết, bằng những xung đột gay cấn mà bằng “ hành trình cảm giác” bởi thế nhân đạo trong tác phẩm của ông cũng có gì đó khác biệt với những nhà văn khác. Thạch Lam hướng ngòi bút của mình đến những con người bé mọn, nghèo khổ, yếu đuối đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Thạch Lam thấu hiểu và cảm thông sâu sắc với những nỗi bất hạnh ngang trái trong cuộc đời họ. Nhân vật của Thạch Lam thường có số phận bất hạnh nhưng vượt lên tất cả, họ luôn giữ gìn phẩm chất cao đẹp, luôn quan tâm yêu thương vị tha.

Tác phẩm “Cô hàng xén” của Thạch Lam trong sáng, giản dị, đẹp tinh tế, tác giả đã khai thác thế giới nội tâm nhân vật với những xúc cảm mong manh, mơ hồ mà thấm đẫm dư vị của tình người mênh mang. Nhà văn mong muốn xã hội phải thay đổi, phải bình đẳng hơn để người phụ nữ trong xã hội phong kiến được sống đúng với giá trị mình đang có, được trân trọng, yêu thương, được đối xử công bằng, được tự do, hạnh phúc.

Hemingway từng nói: “Mọi tác phẩm nghệ thuật đều có sự bất tử riêng của nó. Vì nó là thành phẩm vững bền nhất của sức lao động và trí tuệ của con người”. Đúng như vậy, những  tranh tượng có thể tiêu tan, các tượng đài có thể sụp đổ nhưng các tác phẩm chân chính sẽ vượt ngoài quy luật băng hoại thời gian để tồn tại vĩnh viễn. Tác phẩm “Cô hàng xén” của Thạch Lam sẽ ngân vang mãi với thời gian bởi những giá trị nội dung, nghệ thuật đặc sắc của nó.

 

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *