Đề thi Văn 10 trại hè Hùng Vương và duyên hải 2015 văn 11 tỉnh Ninh Bình

HỘI CÁC TRƯỜNG CHUYÊN

VÙNG DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

 TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG VĂN TỤY

TỈNH NINH BÌNH

ĐỀ THI ĐỀ XUẤT

ĐỀ THI MÔN NGỮ VĂN 11

NĂM  2015

Thời gian làm bài: 180 phút

(Đề này có 01 trang, gồm 02 câu)

 

Câu 1 (8,0 điểm)

Dân gian Việt Nam có câu:

Không có mợ thì chợ vẫn đông,

Mợ đi lấy chồng thì chợ vẫn vui.

Nhà thơ Nga Evtushenkô lại viết:

Chẳng có ai tẻ nhạt mãi trên đời

Mỗi số phận chứa một phần lịch sử

Mỗi số phận riêng, dù rất nhỏ

Chẳng hành tinh nào sánh nổi được đâu.

(Chẳng có ai tẻ nhạt mãi trên đời– Bằng Việt dịch).

Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về vấn đề đặt ra trong hai trích dẫn trên.

 

Câu 2 (12,0 điểm)

Bàn về thơ, nhà thơ Ấn Độ R.Tagore viết:

Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong.

Anh (chị) hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên qua một số bài thơ Mới đã học trong chương trình.

…………………………………………….. HẾT…………………………………………………..

 

ĐÁP ÁN VÀ BIỂU ĐIỂM CHẤM

MÔN NGỮ VĂN 11

Câu 1 ( 8,0 điểm):

  1. Yêu cầu:
  2. Yêu cầu về kĩ năng:

– Biết làm kiểu bài nghị luận xã hội theo yêu cầu của đề, bài viết có lập luận chặt chẽ, bố cục rõ ràng, diễn đạt mạch lạc, thuyết phục, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.

  1. Về kiến thức:

Có thể kết cấu bài theo nhiều cách nhưng cần đảm bảo những ý cơ bản sau:

  1. Giải thích:

Không có mợ… vẫn vui: mỗi cá nhân chỉ là một phần tử bé nhỏ của tập thể, của cộng đồng, xã hội, không có cá nhân ấy thì xã hội vẫn tồn tại, hoạt động bình thường.

Chẳng có ai tẻ nhạt… sánh nổi đâu: mỗi cá nhân là duy nhất, mang trong nó một phần đặc tính, lịch sử phát triển của cả cộng đồng. Mỗi cá nhân dù nhỏ bé nhưng  là một giá trị riêng góp phần làm nên sự đa dạng, thúc đẩy xã hội phát triển.

– Tác giả dân gian Việt Nam và nhà thơ Nga Evtushenkô đã đặt ra vấn đề mang ý nghĩa triết học về sự tồn tại của mỗi cá nhân con người, mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.

  1. Lí giải- Bàn luận:

– Hai quan niệm tưởng mâu thuẫn nhưng thực ra lại phản ánh hai mặt của một vấn đề: mỗi cá nhân con người là vô cùng nhỏ bé, thiếu một cá nhân thì xã hội vẫn tồn tại và phát triển bình thường nhưng chính mỗi con người bé nhỏ lại góp phần tạo nên sự phong phú đa dạng, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Bởi vì:

+ Xã hội hợp thành từ hàng triệu triệu con người, thiếu đi một cá thể thì sẽ có người khác điền vào vị trí thiếu hụt đó, xã hội vẫn hoạt động, phát triển bình thường; sự tác động của mỗi cá nhân đến đời sống xã hội là rất nhỏ.

+ Mỗi con người là một cá thể độc đáo, không lặp lại, mỗi cá nhân có nhân cách độc lập duy nhất không thể thay thế, là một thế giới bí ẩn chứa đựng những giá trị người to lớn với hiểu biết, trí tuệ, tài năng, tâm hồn… Cá nhân gia nhập vào tập thể xã hội như là bộ phận của cái toàn thể, thể hiện bản sắc của mình thông qua hoạt động tập thể, trong các mối quan hệ xã hội nhưng không “hoà tan” vào tập thể.

– Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau:

+ Xã hội là điều kiện, là môi trường, là phương thức để lợi ích cá nhân được thực hiện. Cá nhân chỉ được hình thành, phát triển, giá trị được khẳng định trong các mối quan hệ xã hội, trong tập thể (gia đình, giai cấp, dân tộc, nhân loại…).

+ Cá nhân không chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể của sự phát triển xã hội. Mỗi cá nhân là vô cùng nhỏ bé nhưng đều góp sức vào sự phát triển chung của xã hội, không có cá nhân thì không thể có xã hội, không có lịch sử phát triển của xã hội.

(Thí sinh đưa dẫn chứng cụ thể để minh hoạ)

  1. Bài học nhận thức:

– Cộng đồng xã hội, việc quốc gia đại sự rất quan trọng nhưng số phận cá nhân cũng không phải không quan trọng.

– Quan tâm đến số phận cá nhân, tôn trọng giá trị, bản sắc, cá tính của mỗi con người, tăng cường tinh thần đoàn kết, hoà nhập gắn bó với cộng đồng, nỗ lực đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội.

– Tránh lối sống cá nhân ích kỉ, thiếu hoà nhập cộng đồng, bệnh “ngôi sao”…

  1. Biểu điểm:

Điểm 7- 8: Đáp ứng tốt nội dung trên, hiểu sâu sắc vấn đề, có sáng tạo trong cấu trúc bài, lập luận chặt chẽ, lí lẽ thấu đáo, cách bày tỏ chân thành, có cảm xúc.

Điểm 5- 6: Đáp ứng khá tốt nội dung trên, hiểu vấn đề, có sự hiểu biết và lập luận thuyết phục, lí lẽ đúng đắn, diễn đạt có cảm xúc, mắc một vài lỗi không đáng kể.

Điểm 3- 4: Đáp ứng cơ bản yêu cầu trên, có thể thiếu ý hoặc một vài chỗ chưa hoàn thiện.

Điểm 1- 2: Bài sơ sài, thiếu nhiều ý, lúng túng trong triển khai vấn đề, mắc nhiều lỗi các loại.

Điểm 0: Không làm bài hoặc lạc đề hoàn toàn.

Câu 2 ( 12,0 điểm)

  1. Yêu cầu.
  2. Về kĩ năng.

– Trên cơ sở những kiến thức lí luận về đặc trưng thơ, thí sinh biết vận dụng kết hợp các thao tác nghị luận để giải quyết vấn đề theo định hướng của đề bài.

– Bài làm có bố cục hợp lí, lập luận chặt chẽ, hành văn mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ.

  1. Về kiến thức.

Thí sinh có nhiều cách trình bày nhưng cơ bản cần đảm bảo những yêu cầu sau:

  1. Giải thích:

Nụ cườinước mắt: là những trạng thái cảm xúc của tâm hồn, là niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ… Đó là những cung bậc, sắc thái phong phú đa dạng của tâm hồn, là biểu hiện của thế giới “bên trong” con người.

Phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong: là cảm xúc đã đến độ chín, cao hơn, là sự thống nhất giữa cảm xúc và lí trí, giữa tư tưởng và tình cảm của nhà thơ. Thơ là tình nhưng không phải là những cảm xúc hời hợt mà là lí trí đã chín muồi, nhuần nhuyễn. Bài thơ nào cũng gói ghém bên trong một chiều sâu suy nghĩ, tư tưởng, chứa đựng ít nhiều chân lí của cuộc đời.

à Câu nói của Tagore đã nêu chính xác bản chất, đặc trưng của thơ là sự bộc lộ tình cảm, cảm xúc mãnh liệt đã được ý thức, được lắng lọc qua cảm xúc thẩm mĩ của nhà thơ.

– Lí giải vì sao thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong:

+ Vì văn học bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, phản ánh cuộc sống trực tiếp hoặc gián tiếp. Tuy nhiên, không phải đơn giản là mô phỏng, sao chép, miêu tả sự vật bên ngoài, các sự kiện xảy ra mà là sự tái tạo thông qua thế giới chủ quan của người nghệ sĩ.

+ Do đặc trưng của thơ ca: Nói đến thơ là nói đến cảm xúc, nhà thơ tái hiện cuộc sống thông qua những rung động của chủ thể trữ tình, bằng những xúc cảm mãnh liệt. Tình cảm mãnh liệt ở đây không phải là những khóc cười ồn ào bên ngoài mà là sự rung động mãnh liệt ở bên trong, sự giày vò, chấn động trong tâm hồn. Nhà thơ phải sống rất sâu vào tâm hồn mình, lắng nghe các xao động, đau đớn, sướng vui với những xúc động nội tâm. Thiếu tình cảm mãnh liệt và sâu sắc thì sẽ không có thơ. Độ chín của cảm xúc nhà thơ làm nên chiều sâu của sự thể hiện cuộc sống và lay động tâm hồn người đọc.

  1. Chứng minh:

Thí sinh cần lấy được dẫn chứng tiêu biểu (một số bài thơ Mới đã học trong chương trình) và phân tích một cách thuyết phục để làm sáng tỏ các khía cạnh của vấn đề nghị luận.

  1. Đánh giá, bình luận:

– Câu nói của R.Tagore đã nêu chính xác đặc trưng nội dung của thơ là sự thổ lộ tình cảm mãnh liệt đã được ý thức, là những rung động rất sâu ở bên trong tâm hồn nhà thơ, là tấc lòng, tư tưởng tình cảm mà thi sĩ kí thác, gửi gắm. Đó không phải là sự bộc lộ tình cảm một cách bản năng, trực tiếp mà là tình cảm nảy sinh từ những tiếp xúc với cuộc sống, là tình cảm được ý thức, được lắng lọc qua những xúc cảm thẩm mĩ, gắn liền với sự tự ý thức của nhà thơ về mình và cuộc đời.

– Thơ là kết quả của sự thăng hoa cảm xúc, là sự kết tinh vốn văn hoá, thể hiện cái nhìn về cuộc đời và biểu hiện những trạng thái xúc cảm của nhà thơ.
Tình cảm trong thơ phải là tình cảm lớn, cao đẹp, cao thượng, mang tư tưởng sâu sắc, thấm nhuần chất nhân văn, mang giá trị Chân- Thiện- Mĩ… thì thơ mới có sức vang động trong lòng người, tạo nên sức sống lâu bền.

– Ý kiến của Tagore mới chỉ nhấn mạnh đến đặc trưng nội dung của thơ là tình cảm đã được ý thức, mang đậm tính cá thể mà chưa đề cập đến đặc trưng hình thức của thơ. Thơ là tình đời, tình người ngân lên trong những âm vang ngôn ngữ, kết cấu, hình ảnh, giọng điệu, nhịp điệu… Sự hoàn thiện từ bên trong cần được biểu hiện bằng sự hoàn thiện của hình thức nghệ thuật để có thơ hay.

– Rút ra được bài học sâu sắc đối với người sáng tạo và người tiếp nhận văn chương.

  1. Biểu điểm:

– Điểm 11 – 12: Đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trên, bài viết sâu sắc độc đáo, diễn đạt lưu loát, có chất văn.

– Điểm 8 – 10: Nội dung đầy đủ, bố cục rõ ràng, diễn đạt trôi chảy, có thể còn thiếu một vài ý nhỏ.

– Điểm 5 – 7:  Bài làm còn thiếu ý. Văn chưa hay nhưng rõ ý. Mắc không quá 7 lỗi các loại.

– Điểm 3 – 4: Trình bày ý còn sơ sài, kết cấu không rõ ràng, mắc nhiều lỗi.

–  Điểm 1- 2: Không hiểu đề, không có kĩ năng nghị luận, mắc quá nhiều lỗi diễn đạt.

– Điểm 0: Không làm bài hoặc lạc đề hoàn toàn.

 

Lưu ý: Giám khảo vận dụng linh hoạt biểu điểm, định tính chứ không định lượng, cho điểm khuyến khích những bài viết sáng tạo, có chất văn nếu điểm toàn bài chưa đạt tối đa.  Điểm cho lẻ đến 0,25.

                           

— HẾT—

 

Người ra đề và đáp án

 

          Tạ Anh Ngọc

                                                 Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy-Ninh Bình

ĐT: 0988 686 922

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *