9. Đề thi thử TN THPT 2021 – Môn Văn – Bộ đề chuẩn cấu trúc minh họa – Đề 9

ĐỀ THI THỬ CHUẨN CẤU TRÚC MINH HỌA

ĐỀ SỐ 09

(Đề thi có 02 trang)

KỲ THI TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NĂM 2021

Bài thi: Ngữ Văn

Thời gian làm bài: 120 phút không kể thời gian phát đề

 

  1. ĐỊNH HƯỚNG RA ĐỀ
  2. Cấu trúc đề vẫn gồm hai phần, đó là phần Đọc hiểu (3 điểm) và Làm văn (7 điểm).

– Trong đó, câu hỏi Đọc hiểu gồm ngữ liệu nằm ngoài sách giáo khoa cùng 4 câu hỏi đọc hiểu theo các mức độ: Nhận biết/ thông hiểu/ vận dụng. Đó là những dạng câu hỏi quen thuộc với học trò từ nhiều năm nay.

– Trong phần Làm văn, câu Nghị luận xã hội (2 điểm) với yêu cầu viết một đoạn văn khoảng 200 chữ, nội dung nghị luận là vấn đề có quan hệ hữu cơ với nội dung trong ngữ liệu đọc hiểu.

  1. Nội dung:

– Đề đảm bảo kiến thức cơ bản, và không có kiến thức trong nội dung tinh giản mà Bộ mới công bố ngày 31.3.2020. Đề không khó, vừa sức với học sinh, học sinh trung bình không khó để đạt mức điểm 5 – 6; học sinh khá đạt 7 – 8. Tuy nhiên để đạt mức điểm 9-10 đòi hỏi học sinh phải phát huy được tư duy phản biện, các trình bày vấn đề nghị luận sắc bén, thể hiện quan điểm cá nhân mang tính sáng tạo.

– Phần Đọc hiểu trong đề thi sử dụng ngữ liệu nằm ngoài sách giáo khoa, gồm một đoạn trích dẫn cho trước và 4 câu hỏi. Để trả lời được 4 câu hỏi này, đòi hỏi học sinh phải nắm chắc kiến thức về Tiếng Việt, đọc hiểu nội dung và suy ngẫm, đánh giá. Đặc biệt ở câu 3, câu 4 đòi hỏi người làm bài phải hiểu sâu sắc đoạn trích, câu trích dẫn thì bài làm mới hay, hiểu đúng vấn đề.

– Trong phần Làm văn:

+ Đề thi yêu cầu học sinh viết đoạn văn nghị luận xã hội: Câu này vẫn giữ nguyên tắc ra đề truyền thống, yêu cầu học sinh viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về một vấn đề được rút ra từ ngữ liệu ở phần Đọc hiểu.

+ Ở câu nghị luận văn học, nội dung câu hỏi nằm ở phần kiến thức chương trình học kì I lớp 12, không ra ngoài nội dung tinh giản của Bộ GDĐT, mức độ phù hợp giống với câu nghị luận học trong đề thi chính thức năm 2019. Và đây là đơn vị kiến thức nhỏ (không phải toàn bộ tác phẩm), phù hợp với dung lượng bài văn 5 điểm trong thời lượng đề thi 120 phút.

 

  1. MA TRẬN ĐỀ THI

MA TRẬN

PHẦN CÂU CẤP ĐỘ NHẬN THỨC
Nhận biết Thông hiểu Vận dụng Vận dụng cao
ĐỌC HIỂU 1 x      
2 x      
3   x    
4     x  
LÀM VĂN 1     x
2    

 

C – BIÊN SOẠN ĐỀ THI

  1. Đọc hiểu (3 điểm)

Đọc văn bản sau:

Từ trong tay mẹ con đi
Ba lô, khẩu súng… có gì nữa đâu
Đạn bom táp bạc mái đầu
Bao năm mẹ ngóng… giàn trầu héo cong
Bảy chìm, ba nổi long đong
Dòng đời gió bụi đục trong khôn lường
Tan trong băng giá, tuyết sương…
Đơn côi muôn vạn nẻo đường – Khát yêu!
Giữa thị thành, vẫn cô liêu
Bát cơm, manh áo sớm chiều bon chen
Rớt mình trong cảnh sang hèn
Rủi may, vinh nhục, đỏ đen khóc cười
Xót xa quăng quật nửa đời
Về ngôi nhà mẹ tìm nơi yên bình!

(Nguồn https://baohaiduong.vn, Bình yên bên mẹ, Vũ Thành Chung)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1 (NB). Văn bản trên được viết theo thể thơ nào?

Câu 2 (TH). Nêu tác dụng việc vận dụng sáng tạo thành ngữ trong dòng thơ Bảy chìm, ba nổi long đong.

Câu 3 (TH). Anh/chị hiểu các dòng thơ sau như thế nào?

Giữa thị thành, vẫn cô liêu
Bát cơm, manh áo sớm chiều bon chen
Rớt mình trong cảnh sang hèn
Rủi may, vinh nhục, đỏ đen khóc cười

Câu 4 (VD). Hai dòng thơ cuối của bài thơ gợi anh/chị suy nghĩ gì?


  1. LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm)

Từ nội dung bài thơ ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ ý nghĩa của những khát khao yêu thương trong cuộc sống con người.

Câu 2. (5,0 điểm)

Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân.

Lão đàn ông lập tức trở lên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”.

 Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy.

Tất cả mọi việc xẩy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.

Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác – thằng bé trên rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng làm nó khi chạy qua không nhìn thấy tôi. Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tôi gọi nó vẫn không hề ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông.

Cũng y hệt người đàn bà, thằng bé của tôi cũng như một người câm, và đến lúc này tôi biết là nó khỏe đến thế!

Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết làm thế nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát.

 (Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu, SGK Ngữ văn 12, NXBGD 2008, tr 72-73)

Phân tích phát hiện của nghệ sĩ Phùng được thể hiện ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét tình huống nhận thức trong tác phẩm.

 

———–HẾT———-

Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm

 

 

 

 

 

 

HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT

 

Phần Câu/Ý Nội dung Điểm
I   Đọc hiểu 3.0
  1 Thể thơ: Lục bát 0.5
  2  Việc vận dụng sáng tạo thành ngữ trong dòng thơ Bảy chìm, ba nổi long đong có tác dụng:

– Giúp cho sự diễn đạt trở nên gần gũi, dễ hiểu vì đây là sự sáng tạo của tác giả từ văn hoá dân gian;

– Nhấn mạnh số phận bấp bênh, lênh đênh, phải đối mặt với những gian nguy mà con phải trải qua.

0.5

 

  3 Cách hiểu các dòng thơ sau:

Giữa thị thành, vẫn cô liêu
Bát cơm, manh áo sớm chiều bon chen
Rớt mình trong cảnh sang hèn
Rủi may, vinh nhục, đỏ đen khóc cười

– Những trăn trở lo toan của con người về cuộc sống chạy theo “giá trị ảo” giữa bộn bề cuộc mưu sinh trong thời bình.

– Bộc lộ tâm trạng xót xa, lo lắng của người con khi va chạm cuộc đời đầy cạm bẫy.

1.0

 

 

  4 Hai dòng thơ cuối của bài thơ gợi suy nghĩ:

– Nội dung hai dòng thơ: vào cái tuổi “nửa đời”, khi đã trải qua bao gian truân, thử thách, con mới nhận ra ngôi nhà của mẹ là nơi bình yên nhất.

– Nêu suy nghĩ của bản thân: Mẹ chính là nơi trú ngụ của tình yêu, nơi trả lại tất cả những chân giá trị đích thực như vốn có của cuộc sống. Nơi bình yên, nơi hạnh phúc nhất của cuộc đời, không phải tìm đâu xa, đó chính là vạt áo mẹ, vòng tay mẹ, nơi ru ta, nuôi ta để ta ra đi và đón ta trở lại.

1.0

 

 

 

 

II   Làm văn  
  1 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ ý nghĩa của những khát khao yêu thương trong cuộc sống con người. 2.0
a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận 200 chữ

Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng -phân-hợp, song hành hoặc móc xích.

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận về một vấn đề xã hội: ý nghĩa của những khát khao yêu thương trong cuộc sống con người.

0.25

 

 

0.25

 

c. Thí sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ ý nghĩa của những khát khao yêu thương trong cuộc sống con người. Có thể triển khai theo hướng sau:

nghĩa của những khát khao yêu thương trong cuộc sống con người.:

– Khát khao yêu thương là ước muốn, khát vọng nhận được sự quan tâm, che chở, bảo vệ từ trong trái tim mỗi người dành cho nhau.

– Khát khao yêu thương có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với mỗi người chúng ta:

+ Đối với bản thân, gia đình, khi được yêu thương, chúng ta sẽ sống vui vẻ, hạnh phúc, có tinh thần lạc quan;

+ Đối với xã hội, khao khát được yêu thương từ mọi người sẽ giúp con người hướng tới suy nghĩ tích cực, tạo sức mạnh tinh thần để vượt qua những thử thách, khó khăn.

– Bài học nhận thức và hành động.

+  Mỗi người cần có nhận thức đúng đắn về giá trị của tình thương, luôn vun đắp đời sống tâm hồn của chính mình;

+  Mỗi người cần có hành động đúng đắn: biết sống đẹp, sống có ích, không sống vô cảm, ích kỉ, vụ lợi cá nhân…

1.00
d. Sáng tạo

Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.

0,25
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. 0,25
  2 Phân tích phát hiện của nghệ sĩ Phùng được thể hiện ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét tình huống nhận thức trong tác phẩm. 5,0
1. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận về một đoạn văn xuôi (có ý phụ)

Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.

(0,25)
2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Phát hiện của nghệ sĩ Phùng được thể hiện ở đoạn trích; tình huống nhận thức trong tác phẩm.

(0,25)
3. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Cụ thể:

3.1.Mở bài

– Nguyễn Minh Châu là nhà văn khoác người lính- người lính viết văn. Ông rất thành công với nhiều tác phẩm mang cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi trước 1975; sau 1975 lại tiếp tục sáng tác với nhiều trăn trở về cách khám phá hiện thực cũng như phương thức thể hiện. Nhờ những nỗ lực không ngừng của một người lao động nghệ thuật dũng cảm và đầy bản lĩnh, Nguyễn Minh Châu đã có mặt trong hàng ngũ những nhà văn tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học.

Chiếc thuyền ngoài xa xuất hiện vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX. Truyện ngắn là thành công mới trong phong cách tự sự triết lý.

– Đoạn trích Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng(…)lảo đảo ngã dúi xuống cát diễn tả phát hiện của nhân vật Phùng, làm nên thành công nghệ thuật tạo tình huống nhận thức của Nguyễn Minh Châu.

3.2.Thân bài

a. Khái quát về truyện ngắn, đoạn trích

Chiếc thuyền ngoài xa (1983) rút ra từ tập truyện ngắn cùng tên (in 1987). Đây là một trong những truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu mang đậm phong cách tự sự – triết lí của nhà văn.

-Với ngôn từ dung dị, đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của người nghệ sĩ đó về nghệ thuật – cuộc đời.

– Đoạn trích thuộc phần đầu của truyện, kể lại bức tranh đời sống mà nhiếp ảnh Phùng trực tiếp chứng khi chiếc thuyền vào đến bờ.

b. Phân tích phát hiện của nhân vật Phùng trong đoạn trích

b.1. Về nội dung:

– Giới thiệu sơ lược về tình huống truyện và phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ Phùng

+Tình huống được xây dựng trong truyện là tình huống nhận thức.

+Phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ Phùng là phát hiện về nghệ thuật đầy thơ mộng, lãng mạn.

– Phân tích phát hiện (thứ hai) của nghệ sĩ Phùng trong văn bản:

+Ngược lại với phát hiện trước đó, khi khoảng cách giữa Phùng và chiếc thuyền đã thu hẹp lại, Phùng lần lượt chứng kiến những cảnh tượng vô cùng đau lòng: Cảnh gã đàn ông hàng chài ra sức đánh người vợ khốn khổ một cách tàn bạo, dã man và cảnh thằng Phác – con trai gã đàn ông – chạy tới giật chiếc thắt lưng từ tay cha nó, vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần của cha để che chở cho người mẹ đáng thương.

+Những cảnh tượng đó khiến cảm giác, cảm xúc trong Phùng hoàn toàn thay đổi: Không còn thấy hạnh phúc tràn ngập tâm hồn nữa mà kinh ngạc, đau lòng, nhận ra ngay sau cảnh đẹp của chiếc thuyển ngoài xa là sự bạo hành của cái xẩu, cái ác.

+Phát hiện thứ hai của nghệ sĩ nhiếp ảnh đầy nghịch lí. Nó bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. Đó chính là phát hiện về cuộc đời – một- cuộc đời thực trần trụi, đau đớn.

– Đánh giá:

Với phát hiện (thứ hai) này, Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm một thông điệp: Nghệ thuật đích thực không thể xa rời cuộc đời, dù cuộc đời đó có đau đớn, trần trụi và mỗi người, đặc biệt là người nghệ sĩ không nên nhìn nhận cuộc sống từ một phía mà phải nhìn từ nhiều phía, nhiều góc độ để cảm nhận được nhiều hơn về nó.

– Về nghệ thuật:

Thông điệp đó được thể hiện sâu sắc qua tình huống truyện độc đáo, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống và lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa.

c. Nhận xét tình huống nhận thức trong tác phẩm.

– Biểu hiện: Đó là tình huống nhân vật Phùng đang trong những giây phút thăng hoa của cảm xúc, bất ngờ chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ một cách vô lí, dã man. Từ đây, nhận thức, suy nghĩ về con người, về cuộc sống của Phùng có những thay đổi: từ chỗ khám phá cái đẹp của bức tranh thiên nhiên qua cảnh chiếc thuyền ngoài xa, anh đã phát hiện ra những nghịch lí của cuộc đời, để rồi cuối cùng nhận thức được nhiều điều: những vấn đề đầy nghịch lí, nghịch lí giữa cái đẹp của nghệ thuật với sự trần trụi, bi đát của cuộc sống hiện thực. Nghịch lí giữa người vợ tốt bị hành hạ nhưng vẫn không bỏ chồng, nghịch lí giữa sự vũ phu tàn bạo của anh hàng chài với vợ nhưng không bỏ vợ.

– Ý nghĩa:Với tình huống của truyện, nhà văn đã đặt ra một vấn đề rất quan trọng để người đọc suy nghĩ, đó là mối quan hệ giữa văn chương, nghệ thuật với cuộc sống. Nghệ thụật là một cái gì xa vời như chiếc thuyền ngoài xa trong màng sương sớm mờ ảo, còn cuộc sống thì rất cần như con thuyền khi đã vào tới bờ. Hay nói một cách khác, Nguyễn Minh Châu cho rằng nghệ thuật trước hết phải gắn liền với cuộc sống, phải phản ánh chân thật cuộc sống và góp phần cải tạo cuộc sống, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.

3.3.Kết bài

– Kết luận về sự thật cuộc đời qua cảnh nhân vật Phùng chứng kiến trực tiếp khi chiếc thuyền vào bờ ở cự li rất gần;

– Nêu cảm nghĩ trách nhiệm của nghệ sĩ trước cuộc sống con người.

 

 

 

 

0,25

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

0,25

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

2,0

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

1,0

 

 

 

0,5

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

4. Sáng tạo

Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.

 0,25
5. Chính tả, dùng từ, đặt câu

Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu

0,25

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *