Viết bài văn nghị luận bàn về vai trò của các hoạt động sinh hoạt cộng đồng ở địa phương

BỘ KẾT NỐI

Đề bài

ĐỌC – HIỂU (6,0 điểm)

Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu:

Đọc văn bản:       

NGHĨ VỀ TIẾNG VIỆT, CHỮ VIỆT

(Nhà lý luận phê bình Mã Giang Lân)

Nguyễn Du (1766-1820), đại văn hào dân tộc, sống trước chúng ta chừng 200 năm. Và Truyện Kiều của ông ra đời cũng chừng ấy năm. Tôi đọc và thuộc nhiều đoạn Truyện Kiều, lại đọc, lại tự hỏi: Tiếng Việt cách đây bấy nhiêu năm sao mà đẹp, trong sáng, tài tình đến thế.

– Long lanh đáy nước in trời

Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng

– Vừng trăng ai xẻ làm đôi?

Nửa in gối chiếc nửa soi dặm đường

Nhạc sĩ Phạm Duy, trong bài hát Tình ca viết ở Sài Gòn năm 1953 cũng bộc lộ nỗi niềm: “Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời, người ơi, mẹ hiền ru những câu xa vời”. Một nhạc sĩ Việt sống ở nước ngoài tâm sự: “Nhờ sáng tác ca khúc, tôi mới hiểu được tiếng mẹ đẻ, tiếng Việt giúp tôi tìm lại chính mình, và tự nhiên hồn tôi luồn được vào bảy nốt nhạc của phương Tây để thể hiện mình. Càng tìm về tiếng Việt, tôi càng thấy lời Việt Nam, hồn Việt Nam đầy nhạc đầy thơ, thấm đẫm một triết lý sống riêng của dân tộc… Hiểu được tiếng Việt, tôi hiểu được lối nghĩ, lối diễn đạt của người Việt Nam… Tiếng Việt tràn đầy âm sắc, bản thân nó đã là nhạc, là thơ. Tiếng Việt chính là hồn tôi chảy trôi mà tôi chỉ mượn những nốt nhạc của phương Tây đẩy mạnh linh hồn của từ ngữ” (Tiếng Việt là nhạc là thơ, Mai Thục, Tinh hoa Hà Nội NXB Văn hóa  – Thông tin 2006, tr.419).

Nhà văn Nguyễn Tuân, bằng vào những từ láy ba (Quay cu lơ, gọn thon lỏn…), láy bốn (Dấp da dấp dính, ngất nga ngất ngưỡng…) của tiếng Việt, ông nói đến “cái kỳ diệu của tiếng mình”. Bằng vào phụ âm kép kh (KH): khàn, khản, khảnh… ông nghĩ “cứ khiêm tốn mà làm học trò giỏi của tiếng nói nhân dân thì mình còn gặp được nhiều, thấy được nhiều hơn nữa, để mà góp được nhiều hơn nữa và nâng mãi lên nữa”. “Tôi thấy trong ba mươi nhăm năm hành nghề, tôi chưa “sài” được cho trọn bấy nhiêu phụ âm kép bấy nhiêu từ trong những trang của mình đã được in ra”. “Tiếng nói dân tộc nào nói chung cũng có cái linh diệu của nó. Và tiếng ta lại càng có cái linh diệu rất đáng quý đáng yêu của tiếng Việt” (Tạp chí Tác phẩm mới, 1972, số 18).

Nhà thơ Lưu Quang Vũ có bài thơ Tiếng Việt ca ngợi sự giàu có, phong phú của tiếng ta.

Tiếng trong trẻo như hồn dân tộc Việt

Một thứ tiếng cao quý, thâm trầm, rực rỡ giàu sắc thái âm thanh. Một thứ tiếng tồn tại xuyên thấm qua đời này đời khác, có sức cảm hóa lòng người.

Ai ở phía bên kia cầm súng

Cùng tôi trong tiếng Việt quay về

Và đem lại cho tâm hồn chúng ta những giá trị trường tồn. Nhà thơ thốt lên “Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ”, cũng là thái độ yêu quý, biết ơn tiếng nói của dân tộc.

Nhà thơ, nói chung là người lao động chữ nghĩa, biết tận dụng từng chữ, săn sóc từng chữ. Trong sự phát triển kỳ diệu của tiếng mẹ đẻ, một nhà thơ chỉ biết tiếng mẹ đẻ, chưa đủ, mà cần phải biết sống chung với vẻ đẹp phong phú của các ngôn ngữ khác. Sử dụng được một chữ mới, khác thường, chính xác cũng gây sự cảm phục, sự đồng tình ở người đọc.

Chúng ta đã được sử dụng một thứ ngôn ngữ giàu có, chính xác, mạnh mẽ và vô cùng đẹp là tiếng Việt. Và cũng qua việc đối xử với tiếng mẹ đẻ của nhà thơ, người đọc có thể nhận ra trình độ văn hóa và phẩm chất của người đó. Tình yêu quê hương đất nước của một người không thể tách rời tình yêu ngôn ngữ dân tộc. Lãnh đạm với tiếng mẹ đẻ là thờ ơ với quá khứ, hiện tại và tương lai của dân tộc mình. Mọi người thừa biết chúng ta đã thụ hưởng những thành quả tốt đẹp của tiếng Việt phong phú, giàu có, trong sáng, uyển chuyển ở tục ngữ ca dao, ở các tác phẩm cổ điển của dân tộc mà điển hình đỉnh cao là Truyện Kiều.

Tất nhiên, như những ngôn ngữ khác, tiếng Việt phát triển diễn ra theo quy trình hai mặt: Là tiếng nói giao tiếp hàng ngày, là đối tượng để nhà thơ sáng tạo. Có người đề cao quá mức vai trò chức năng của ngôn ngữ, chỉ chú trọng đến ngôn ngữ, đến chữ: “Chữ bầu lên nhà thơ” (Edmond Jabes – nhà thơ Pháp gốc Do Thái). Sự thực, thơ, đặc biệt là thơ hay đều chứa đựng, kết tinh nhiều tố chất, không đơn thuần chỉ là ở chữ. Thơ còn là ý, tình, hình, nhạc của rung động thẩm mỹ. Ngôn ngữ là phương tiện chuyên chở. Cái chính của thơ là nội dung tư tưởng. Thơ cần tư tưởng. Tư tưởng càng lớn, cao cả, thơ càng có sức mạnh làm rung động người đọc. Sáng tạo ngôn ngữ là cái tài, nhưng cái tình lớn hơn cái tài. Tư tưởng nhân văn, tình yêu thiên nhiên đất nước, con người, mới có thể nâng cao, làm giàu có tâm hồn con người. Tính nhân văn, lòng nhân ái, bất kỳ ở đâu, thời nào, bao giờ cũng là của quý.

Ngôn ngữ luôn chuyển động biến đổi phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ thời đại. Thô tục, suồng sã không bao giờ là ngôn ngữ thơ. Ảnh hưởng của công nghệ thông tin, mạng xã hội, tiếng nước ngoài thơ trở nên sinh động, hợp với đời sống hiện đại, với tư duy, tinh thần của thế hệ @, nhưng cần sáng tạo, làm mới ngôn ngữ, làm phong phú lời văn tiếng nói, câu chữ Việt là cái đích cần có. Vay mượn, thuê mướn tiếng nước ngoài một cách dễ dãi, sống sượng chỉ gây phản cảm, mất ý nghĩa. Nhà thơ nào cũng có cách sử dụng ngôn ngữ riêng của mình, không giống ai, riêng biệt và độc đáo. Có người ngôn ngữ bay bướm, mềm mại; có người ngôn ngữ sắc lạnh, sâu sắc; có người ngôn ngữ giản dị trong sáng, thấm đẫm triết luận; có người ngôn ngữ dân gian, dân tộc. Quan sát chúng ta nhận ra ngôn ngữ tương ứng với đối tượng cảm xúc, nội dung thể hiện. Câu chữ thanh nhã khi viết về tôn giáo, viết về những điều hệ trọng cao cả cần trang trọng, viết về những điều thường nhật cần sinh động, phóng khoáng, bề bộn…

Tôi hôm nay vẫn đọc thơ. Và đã đọc không biết bao nhiêu thơ từ những ngày phải chuyên tâm với công việc, chừng năm mươi năm chi đó. Bây giờ nghe nhiều phàn nàn: thơ ít có tư tưởng, cứ nói những chuyện đâu đâu, cảm xúc cầu kỳ, tiếng Việt, chữ Việt như làm xiếc, diễn đạt rắc rối khó hiểu. Quả có thế thật, mà một phần cũng tại người “phê bình”, cứ tán, cứ véo von, bài viết nào cũng ngọt ngào dễ sợ.

(Nguồn: báo Văn nghệ số 28/2023)

* Mã Giang Lân (1941-) tên khai sinh là Lê Văn Lân, sinh ngày 5-4-1941 tại quê gốc thành phố Thanh Hoá, hiện sống tại quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó tiến sĩ văn học, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1996). Từ 1965 đến nay Mã Giang Lân là cán bộ giảng dạy tại khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp (nay là trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn), chủ nhiệm bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm chính: Bình minh và tiếng súng (thơ, 1975), Một tình yêu như thế (thơ, 1990), Văn học Việt nam (1945-1954) (chuyên khảo, 1990), Thơ-Những cuộc đời (tiểu luận, 1992), Sức bền của thơ (phê bình, tiểu luận, 1993)…                                                  

Trả lời các câu hỏi:

Câu 1. Văn bản tập trung bàn về vấn đề gì?

Câu 2. Theo tác giả, tình yêu quê hương đất nước của một người không thể tách rời cái gì?

Câu 3. Tác giả đã sử dụng yếu tố bổ trợ nào trong đoạn văn: “Nguyễn Du (1766-1820), đại văn hào dân tộc, sống trước chúng ta chừng 200 năm. Và Truyện Kiều của ông ra đời cũng chừng ấy năm. Tôi đọc và thuộc nhiều đoạn Truyện Kiều, lại đọc, lại tự hỏi: Tiếng Việt cách đây bấy nhiêu năm sao mà đẹp, trong sáng, tài tình đến thế?”.

Câu 4. “Một thứ tiếng cao quý, thâm trầm, rực rỡ giàu sắc thái âm thanh. Một thứ tiếng tồn tại xuyên thấm qua đời này đời khác, có sức cảm hóa lòng người.” Trong ví dụ trên xuất hiện biện pháp tu từ gì?

Câu 5. Để chứng minh sự giàu đẹp của tiếng Việt, tác giả đã lấy những dẫn chứng nào?

Câu 6. Mục đích của người viết thể hiện trong văn bản là gì?

Câu 7. Anh/chị hiểu như thế nào khi tác giả cho rằng: “qua việc đối xử với tiếng mẹ đẻ của nhà thơ, người đọc có thể nhận ra trình độ văn hóa và phẩm chất của người đó”?

Câu 8. Anh/chị rút ra được bài học gì khi đọc văn bản trên?

LÀM VĂN (4,0 điểm)

Anh/chị hãy viết bài văn nghị luận bàn về vai trò của các hoạt động sinh hoạt cộng đồng ở địa phương đối với học sinh.

Hướng dẫn đáp án chi tiết  

ĐỌC – HIỂU

Câu 1. Văn bản tập trung bàn về vấn đề: Bàn về tiếng Việt và cách sử dụng, ứng xử với tiếng Việt.

Câu 2. Theo tác giả, tình yêu quê hương đất nước của một người không thể tách rời:

Không thể tách rời tình yêu ngôn ngữ dân tộc

Câu 3. Tác giả đã sử dụng yếu tố bổ trợ trong đoạn văn: Biểu cảm

Câu 4. Trong ví dụ trên xuất hiện biện pháp tu từ: Điệp ngữ

Câu 5. Để chứng minh sự giàu đẹp của tiếng Việt, tác giả đã lấy những dẫn chứng:

Nguyễn Du và Truyện Kiều, nỗi niềm của nhạc sĩ Phạm Duy, tâm sự của nhà văn Nguyễn Tuân, thái độ của nhà thơ Lưu Quang Vũ

Câu 6. Mục đích của người viết thể hiện trong văn bản là: Ngợi ca vẻ đẹp của tiếng Việt và bày tỏ quan điểm về cách sử dụng tiếng Việt.

Câu 7. Tác giả cho rằng: “qua việc đối xử với tiếng mẹ đẻ của nhà thơ, người đọc có thể nhận ra trình độ văn hóa và phẩm chất của người đó” có thể hiểu là:

– Vốn ngôn ngữ và tình yêu đối với tiếng mẹ đẻ thể hiện trình độ, phẩm chất của người nghệ sĩ

– Trình độ cao thì vốn ngôn ngữ càng giàu có, và tình yêu tiếng mẹ đẻ càng lớn càng chứng tỏ vẻ đẹp của phẩm chất, tâm hồn

Câu 8. Có thể rút ra bài học khi đọc văn bản trên là:

– Tiếng Việt rất giàu và đẹp, cần có ý thức giữ gìn và phát huy vẻ đẹp đó.

– Tiếng Việt có những biến đổi theo thị hiếu thời đại. Phải có bản lĩnh trước ảnh hưởng của công nghệ thông tin, mạng xã hội, tiếng nước ngoài, để bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt.

 

LÀM VĂN

Mở bài: Giới thiệu vấn đề trong cuộc sống cần bàn luận.

– Dẫn dắt và nêu vấn đề cần bàn luận: vai trò của các hoạt động sinh hoạt cộng đồng ở địa phương đối với học sinh.

– Có thể nêu ý kiến cá nhân của người viết về vấn đề

Thân bài:

* Trình bày bản chất của vấn đề đời sống

– Sinh hoạt cộng đồng là hoạt động tập thể của một nhóm người, một tập thể mang tính đoàn thể, tổ chức tại nơi sinh hoạt, nơi lao động, học tập, nơi sinh sống ,… nhằm mục đích tạo sự vui tươi, giao lưu, giáo dục qua đó nhằm phát triển năng lực của cá nhân và hiệu quả của hoạt động tập thể

* Xem xét vấn đề dưới nhiều góc nhìn khác nhau, bàn về các khía cạnh của vấn đề.

– Tóm tắt vấn đề một cách ngắn gọn: Sinh hoạt cộng đồng gồm các hoạt động tập thể đa dạng như: múa hát, câu lạc bộ theo chủ đề, lao động, học tập, hoạt động thiện nguyện

– Bàn luận về vai trò của các hoạt động sinh hoạt cộng đồng ở địa phương đối với học sinh:

+ Đem lại cho học sinh những trải nghiệm mới mẻ, thú vị, tăng thêm phần tự tin

+ Tạo động lực và khát khao cống hiến, sống tích cực

+ Là chìa khóa để phát huy năng lực bản thân và cơ hội học hỏi thêm nhiều kĩ năng mới

+ Giáo dục học sinh ý thức mình là một phần của cộng đồng, phải biết hợp tác, cầu thị, khiêm tốn, hòa đồng

* Bàn luận vấn đề từ góc nhìn trái chiều

– Có một bộ phận HS phản đối việc tham gia các hoạt động sinh hoạt cộng đồng vì mất nhiều thời gian; một bộ phận do tự ti, ngại tiếp xúc, giao lưu; một bộ phận khác lại tham gia do trào lưu

Rút ra ý nghĩa của vấn đề bàn luận: Vấn đề bàn luận có ý nghĩa với cộng đồng, với lứa tuổi học sinh và với bản thân người viết vì nó mang lại nhiều lợi ích tích cực.

+ Phân tích tác động của việc nhận thức đúng đắn về vấn đề đối với cá nhân hoặc cộng đồng.

Đề xuất giải pháp lan tỏa ý nghĩa tích cực của vấn đề; Sự tác động của vấn đề về nhận thức, hành động

– Đề xuất các hoạt động cộng đồng phù hợp lứa tuổi học sinh; sáng tạo, tích cực, có giá trị giáo dục

– Khi tham gia các hoạt động cần đặt lợi ích tập thể lên trên

Kết bài: Rút ra ý nghĩa của việc bàn luận vấn đề.

– Nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của cá nhân và cộng đồng trong việc giải quyết vấn đề

– Gợi mở suy nghĩ, định hướng hành động

Bài viết tham khảo

Eleanor Roosevelt có nói: “Mục đích của cuộc đời chính là sống nó, trải nghiệm đến tận cùng, háo hức vươn ra và không bao giờ sợ hãi đón nhận những trải nghiệm mới mẻ và phong phú hơn”. Trên hành trình vươn ra để trải nghiệm cuộc sống, ta nhận thấy giá trị tích cực mà những hoạt động sinh hoạt cộng đồng mang lại, bồi đắp đời sống cá nhân cũng như  đem lại hữu ích cho xã hội.

Chắc hẳn ai cũng đã từng nghe qua khái niệm “hoạt động sinh hoạt cộng đồng” qua lời ông bà, cha mẹ hay thầy cô, bạn bè. Sinh hoạt cộng đồng là hoạt động tập thể của một nhóm người, một tập thể mang tính đoàn thể, tổ chức tại nơi sinh hoạt, nơi lao động, học tập, nơi sinh sống ,… nhằm mục đích tạo sự vui tươi, giao lưu, giáo dục qua đó nhằm phát triển năng lực của cá nhân và hiệu quả của hoạt động tập thể. Đây là 1 hoạt động mang vai trò quan trọng, tích cực đối với đời sống tinh thần mỗi người, đặc biệt ở độ tuổi đang ngồi trên ghế nhà trường.

Tùy vào đặc điểm văn hóa, thời điểm tổ chức và mục đích tổ chức mà mỗi vùng đất lại có những hoạt động sinh hoạt cộng đồng riêng. Đó có thể gồm các hoạt động tập thể đa dạng như: múa hát, câu lạc bộ theo chủ đề, lao động, học tập, hoạt động thiện nguyện như hiến máu nhân đạo, bảo vệ môi trường, đền ơn đáp nghĩa,…Những hoạt động này dù lớn hay nhỏ đều mang lại những lợi ích, bài học quý giá cho mọi ngươi, nhất là cho các thanh thiếu niên.

Trong 1 cuốn sách của mình, nhà văn Phi Tuyết từng nói rằng “Không có trải nghiệm, tuổi trẻ không đáng giá 1 xu”. Câu nói ấy như đã khẳng định vai trò của những trải nghiệm đối với tuổi trẻ của mỗi người. Và những hoạt động sinh hoạt cộng đồng được tạo ra với mong muốn đem lại cho học sinh những trải nghiệm mới mẻ, thú vị, tăng thêm phần tự tin. Từ những hoạt động ngoại khóa tập thể, ta có cơ hội được giao lưu, kết bạn, học hỏi thêm nhiều điều mới trong cuộc sống, tăng thêm phần tự tin, lạc quan, yêu đời.  Ta thấy cuộc đời thú vị, đa sắc màu, phong phú, đáng để ta sống sâu hơn, sống đẹp hơn và thấy đời hạnh phúc hơn.

Bên cạnh đó, những hoạt động cộng đồng cũng cho ta được cống hiến, được khẳng định giá trị bản thân mình. Chúng ta sinh ra đâu chỉ để tan biến như hạt cát vô danh, ta sinh ra để cống hiến, để “lặng lẽ dâng cho đời”, để tạc ghi dấu ấn cá nhân.Và để làm được điều đó, ta không thể cứ mãi sống trong vùng an toàn mà không có những hành động thiết thực. Với những hoạt động thiện nguyện ý nghĩa, những hoạt động nghệ thuật mà sinh hoạt cộng đồng mang lại, ta đã có thể vẽ thêm màu sắc cho đời, giúp đỡ mọi người, cũng như nâng cao giá trị bản thân, mở rộng tầm hiểu biết trên con đường đi đến tương lai.

Trên con đường chập chững trở thành “người lớn”, đã bao lần ta khao khát được phát huy giá trị bản thân, khao khát được hiểu hơn về chính mình. Bằng những trải nghiệm thiết thực khi tích cực tham gia các hoạt động cộng đồng, các bạn trẻ có thể nắm rõ được những năng lực của bản thân, những điểm thiếu sót để rồi xây dựng mục tiêu phấn đấu hướng tới tương lai. Trải nghiệm còn giúp thế hệ trẻ thêm hiểu đời, dưới lăng kính hiện thực ta thấy cuộc sống này có thật nhiều điều tốt đẹp, và cũng thật nhiều những mảnh đời bất hạnh, từ đó thêm trân trọng mỗi ngày ta được sống. Không chỉ vậy, sinh hoạt cộng đồng còn đem lại cho ta những bài học, đem lại những hiểu biết và kinh nghiệm, giúp con người trưởng thành hơn, dám dấn thân, biết cách vượt qua những trở ngại khó khăn, biết cách xử lý tình huống, tự tin, bản lĩnh và rèn luyện ý chí.

Với mục đích nhân văn cao đẹp, các hoạt động sinh hoạt cộng đồng cũng sẽ giáo dục cho học sinh biết ý thức được rằng bản thân mình là 1 phần tế bào của cộng đồng, từ đó xây dựng ở mỗi cá nhân tinh thần trách nhiệm, biết cầu thị, khiêm tốn, hòa đồng. Hơn thế, những hoạt động này cũng góp phần bồi đắp tình yêu quê hương, tinh thần đoàn kết dân tộc, cũng như rèn luyện các kỹ năng mềm, nâng cao sự chuyên nghiệp trong công việc. Bên cạnh đó, những hoạt động thực tế luôn chứa đựng những niềm vui, cho các bạn trẻ có cơ hội được thư giãn, sáng tạo sau những giờ học căng thẳng.

Từ những ý nghĩa tưởng như rất giản dị ấy, hoạt động sinh hoạt cộng đồng đã được đẩy lên thành các phong trào xã hội tốt đẹp, từ đó lan tỏa những tấm gương tích cực. Trong Lễ tuyên dương “Những tấm gương sáng thầm lặng vì cộng đồng” của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội năm 2020, có 400 tấm gương đã được tôn vinh vì sự cống hiến thầm lặng cho cộng đồng. Trong số đó có nhiều người xuất phát từ các hoạt động sinh hoạt cộng đồng.

Mang trong mình ý nghĩa tích cực, quan trọng, những hoạt động sinh hoạt cộng đồng là 1 hoạt động đáng được quan tâm. Tuy nhiên, hiện nay, một bộ phận giới trẻ có quan niệm sai lệch về các hoạt động sinh hoạt cộng đồng ở địa phương. Nhiều bạn cho rằng đây chỉ là những hoạt động mất thời gian, một bộ phận do tự ti, ngại tiếp xúc, giao lưu; một bộ phận khác lại tham gia do trào lưu. Đây là những quan niệm không đúng, cần được nhận thức rõ hơn về lợi ích và ý nghĩa mà những hoạt động cộng đồng mang lại.

Cùng với mục đích cao đẹp và vai trò quan trọng như trên, vấn đề bàn luận không chỉ có ý nghĩa với lứa tuổi học sinh mà còn với cộng đồng, với tất cả mọi người. Mỗi người trong chúng ta cần có những nhận thức đúng đắn về vai trò và tầm quan trọng của các hoạt động sinh hoạt cộng đồng, lan tỏa những giá trị tích cực của hoạt động này, từ nhận thức đi đến những hành động thiết thực vì một xã hội tốt đẹp hơn, văn minh hơn. Bên cạnh đó cũng cần sáng tạo, làm mới những hoạt động trong sinh hoạt cộng đồng để có thể tiếp cận gần hơn với học sinh, mang lại hiệu quả cao hơn. Có thể kể đến như các hoạt động làm nghiên cứu, làm triển lãm, trải nghiệm nghề nghiệp, tuần lễ giao lưu văn hóa, buổi tranh luận học thuật….Đặc biệt, ở mỗi cá nhân cũng cần ý thức khi tham gia các hoạt động sinh hoạt cộng đồng, không hời hợt, xem nhẹ và cần đặt lợi ích tập thể lên trên.

Có thể nói rằng, những hoạt động sinh hoạt cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong đời sống giáo dục tinh thần, đặc biệt ở lứa tuổi học sinh. Tựa như ống kính vạn hoa, những hoạt động này giúp ta nhìn nhận được nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh và đem lại những giá trị tích cực. Vì vậy, mỗi cá nhân nói riêng và cộng đồng nói chung cần có nhận thức và ý thức, trách nhiệm đối với những hoạt động cộng đồng.

 

, ,

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *