CHÍ PHÈO
– Nam Cao-
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
– Là nhà văn hiện thực kiệt xuất của nền văn học Việt nam 30 – 45, là nhà văn nhân đạo, tiêu biểu tiến bộ và phong cách nghệ thuật độc đáo.
– Ông xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân (nay là tỉnh Hà Nam).
– Là người có bề ngoài lạnh lùng, ít nói nhưng đời sống nội tâm vô cùng phong phú, luôn luôn sục sôi, căng thẳng. Ông luôn day dứt và hối hận lấy làm xấu hổ vì những việc đã, những ý nghĩ mà ông cho là tầm thường, nhỏ nhen. Ông cũng là người nghiêm khắc, đấu tranh với chính mình để thoát khỏi lối sống tầm thường, nhỏ nhen, vươn tới một cuộc sống tốt đẹp. Với phẩm chất này, Nam Cao thể hiện rõ dấu ấn của mình trong những sáng tác nói về đề tài người tri thức nghèo trước cách mạng.
– Không chỉ là người nghiêm khắc với chính mình mà ông còn là người có tấm lòng nhân hậu, chan chứa yêu thương, gắn bó sâu nặng với quê hương và những con người nghèo khổ bị áp bức, bị khinh miệt ở làng quê mình. Đây là một trong những lí do ông hay về đề tài người nông dân trong xã hội cũ.
Các đề tài chính:
a) Trước cách mạng:
– Ông thành công ở hai đề tài lớn: người tri thức nghèo, người nông dân nghèo.
– Đề tài người nông dân nghèo: Chí Phèo, Lão Hạc, Một bữa no, Trẻ con không được ăn thịt chó.
+ Nội dung: phản ánh chân thật cuộc sống tối tăm cực nhục của những người nông dân bị chà đạp một cách tàn nhẫn, phũ phàng, bi thảm, bị đẩy vào con đường cùng, bị lưu manh hóa, bị cướp đi bộ mặt, hình hài, tính người.
. Đi sâu phản ánh nỗi đau tinh thần, tâm trạng con người bị lưu manh, bị cướp đi quyền làm người.
. Đi sâu vào nội tâm nhân vật, nhân phẩm, bản chất lương thiện ở những con người tưởng như không còn hình hài, tính cách.
. Bằng giọng văn lạnh lùng nhưng lại chan chứa tình yêu thương vô bờ bến đối với con người, Nam Cao đã kết án một cách đanh thép một xã hội tàn bạo, vô nhân tính đã cướp đi quyền sống, quyền được làm người của con người.
. Ngoài ra, với tư cách nghiêm ngặt, Nam Cao không ngần ngại chỉ ra những thói hư, tật xấu ở họ.
→ Nét mới trong cảm hứng nhân đạo của Nam Cao
. Đi sâu vào nỗi đau tinh thần, nỗi đau không được quyền làm người.
. Ca ngợi khẳng định vẻ đẹp ở những con người tưởng như không còn hình hài và tính cách.
– Đề tài: người tri thức nghèo: Giăng sáng, Đời thừa, Tiểu thuyết Sống mòn.
+ Nội dung:
. Tập trung miêu tả chân thực, tình cảnh nghèo, bế tắc và tấn bi kịch tinh thần của người tri thức nghèo – những con người có ý thức sâu sắc về nhân phẩm, có hoài bão, nhân cách nhưng bị gánh nặng cuộc sống hàng ngày làm cho chết mòn tâm hồn, phải sống như một kẻ vô ích, một người thừa.
. Nam Cao tập trung thể hiện cuộc đấu tranh kiên trì để thể hiện lí tưởng nhân đạo, vươn tới một cuộc sống cao đẹp ở người tri thức nghèo.
. Nhà văn phê phán sâu sắc xã hội ngột ngạt, phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con người.
. Thể hiện khái quát về một cuộc sống có ý nghĩa, xứng đáng với danh hiệu con người.
→ Dù viết về đề tài nào, Nam Cao cũng khái quát lên được những quy luật chung về đời sống, luôn trăn trở, day dứt trước tình trạng con người bị đày đọa, bị vùi dập làm chết mòn về đời sống tinh thần. Ông đặc biệt đau đớn trước tình trạng con người bị xói mòn về nhân phẩm, hủy hoại về nhân cách.
b) Sau cách mạng:
– Ông thành công trong truyện ngắn: Đôi mắt.
– Thể hiện thành công về người nông dân: Ca ngợi phẩm chất cách mạng ở họ và hướng ngòi bút để phục vụ kháng chiến, cổ vũ chiến đấu.
* Quan điểm nghệ thuật:
– Quan điểm nghệ thuật thống nhất, bao trùm toàn bộ sự nghiệp sáng tác của nhà văn, đó là hiện thực nghệ thuật “vi nhân sinh”. Đây là một quan điểm nghệ thuật tiến bộ và tích cực, hình thành ở Nam Cao đó là thế giới quan, nhân sinh quan và nguyên tắc sáng tác của nhà văn “sống đã rồi hãy viết”.
– Biểu hiện cụ thể ở quan điểm nghệ thuật “vi nhân sinh” ở Nam Cao đó là:
+ Nhà văn quan niệm văn chương gắn liền với đời sống và nhân dân lao động vì họ mà lên tiếng: “Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” (Giăng sáng – Nam Cao).
+ Một tác phẩm nghệ thuật có giá trị mang nội dung nhân đạo sâu sắc cao cả. Nó vừa mang nỗi đau “nhân tình thế thái”, vừa có thể tiếp thêm năng lượng cho con người, một cuộc sống tốt đẹp, nhân ái và công bằng. “Một tác phẩm thực sự có giá trị phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, là tác phẩm chung cho cả loài người, phải chứa đựng cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, vừa lớn lao. Nó ca tụng lòng thương người, tình bác ái, sự công bình, nó làm cho người gần người hơn. (Đời thừa)
+ Ông quan niệm nghề viết văn là một nghề sáng tạo, không chấp nhận sự dập khuôn dễ dãi “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài khuôn mẫu đưa cho, văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, những người biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” (Đời thừa)
+ Nhà văn phải có lương tâm nghề nghiệp, phải có phong cách độc đáo “Sự cẩu thả trong bất kì một nghề gì cũng là một sự bất lương rồi, nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”.
– Sau cách mạng, Nam Cao vẫn tiếp tục quan điểm này và hướng ngòi bút phục vụ kháng chiến – coi văn học là vũ khí chiến đấu.
3. Phong cách nghệ thuật:
a) Khái niệm:
– Phong cách nghệ thuật là cá tính sáng tạo của nhà văn được thể hiện qua việc thực hiện và xử lí đề tài.
+ Quan niệm nghệ thuật về con người
+ Những thủ pháp nghệ thuật ưa dùng
+ Ngôn ngữ và giọng điệu riêng.
b) Phong cách của Nam Cao:
– Đề tài: Nam Cao thường viết về những cái nhỏ nhặt, tầm thường trong cuộc sống hàng ngày, từ đó nhà văn đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, những triết lí sâu sắc về con người, cuộc sống, nghệ thuật.
– Quan niệm nghệ thuật về con người của Nam Cao: luôn có hứng thú khám phá con người, đặc biệt đề cao con người tư tưởng, đi sâu vào tinh thần của con người, diễn tả những trạng thái, tâm lí phức tạp, những hình tượng lưỡng tính dở say, dở tỉnh, mấp mé ranh giới giữa thiện và ác, giữa người và vật từ đó làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn, nỗi đau của con người.
– Có biệt tài phân tích, diễn tả tâm lí nhân vật qua những trang độc thoại nội tâm, những đối thoại sinh động kiểu kết cấu đảo lộn không gian và thời gian, kết cấu tâm lí vừa phóng túng, vừa linh hoạt, vừa tự nhiên, nhất quán và chặt chẽ.
– Giọng điệu tỉnh táo, sắc lạnh nhưng suy tư và triết lí. Giọng buồn thương, chua chát, lạnh lùng nhưng chan chứa tình yêu thương, sự cảm thông.
– Ngôn ngữ: sắc sảo, tinh tế, giản dị mà gần gũi, đa thanh.
II. Đọc – hiểu:
1. Ý nghĩa các tên gọi:
* Giới thiệu tác giả, tác phẩm → Vào đề
– Nam Cao – nhà văn hiện thực nhân đạo, kiệt xuất của nền văn học Việt Nam 30 – 45, có phong cách nghệ thuật độc đáo, quan điểm nghệ thuật tiến bộ.
– Chí Phèo được xem là kiệt tác của Nam Cao viết thành công về đề tài người nông dân nghèo trước cách mạng. Đây cũng là phong cách tiêu biểu cho Nam Cao trước cách mạng thể hiện sâu sắc tư tưởng, chủ đề, thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm cho người đọc. Sức hấp dẫn và nét riêng độc đáo của nhà văn trong việc phác họa tính cách nhân vật, tạo dấu ấn gây sự chú ý trong lòng người đọc chính là ngôn ngữ đa thanh, đa giọng điệu.
* Các tên gọi:
– Tác phẩm viết năm 1941, lấy cảm hứng từ những cảnh và con người thật mà Nam Cao được chứng kiến, được nghe kể về làng quê mình. Khi mới ra đời, tác phẩm có tên là “Cái lò gạch cũ”, khi in thành sách 1941, nhà xuất bản đời mới tự ý đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi”. Đến năm 1946, khi in trong tập “Luống cày”, Nam Cao đổi tên thành Chí Phèo.
* Ý nghĩa của các tên:
– “Cái lò gạch cũ”: đây là tên gọi đầu tiên của tác phẩm, tên gọi này có liên quan tới kết cấu đầu cuối tương ứng gắn liền với hình ảnh cái lò gạch cũ – Nơi Chí Phèo xuất hiện trong cuộc đời vào một buổi sáng tinh mơ một anh đi thả ống lươn thấy trần chuồng và xám ngoắt trong một cái váy đụp trong một cái lò gạch cũ bỏ không” và kết thúc tác phẩm hình ảnh cái lò gạch cũ hiện ra trong tâm trí của Thị Nở “Thị nhìn ngay xuống bụng và nhìn thấy cái lò gạch xa xa không người qua lại”.
→ Nhan đề này có ý nghĩa nhấn mạnh tính chất quy luật của hiện tượng Chí Phèo. Nó mang ngụ ý như báo hiệu cái vòng luẩn quẩn, bế tắc trong cuộc đời và số phận của người nông dân nghèo bị tha hóa trước cách mạng. Vì vậy nhan đề này thể hiện cái nhìn phản ánh hiện thực ảm đạm bi quan về số phận của người nông dân, mặc dù nó tố cáo phê phán mạnh mẽ đối với xã hội đương thời.
– “Đôi lứa xứng đôi”: do nhà xuất bản tự ý đổi tên dựa vào mối tình của Chí Phèo và Thị Nở. Nhan đề này chưa khái quát được ý nghĩa và giá trị của tác phẩm vì mối tình Chí Phèo – Thị Nở chỉ có giá trị như một tình huống để tạo nên bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của Chí Phèo. Chỉ bộc lộ một khía cạnh trong tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.
→ Biến mối tình Chí Phèo – Thị Nở thành trò cười và gây ra một hướng tiếp cận sai lầm không gắn với tư tưởng chủ đề và dụ ý của nhà văn.
– “Chí Phèo”: khi đưa vào tin trong tập Luống cày (1946), Nam Cao đổi thành Chí Phèo, lấy tên nhân vật chính để đặt tên cho tác phẩm. Nhan đề này mang tính khái quát thể hiện đầy đủ chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Thông qua nhân vật, nhà văn muốn đề cập đến tình trạng con người bị tước đoạt quyền làm người, bị tha hóa, đẩy vào con đường phi nhân tính để bọn cường hào lợi dụng nhằm trị nhau và trị dân.
2. Cảm nhận của anh chị về những đặc sắc của nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn Nam Cao qua đoạn văn sau:
“Hắn vừa đi vừa chửi…. Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết”.
a) Giới thiệu tác giả, tác phẩm → vào đề (dựa vào phần trên)
– Đoạn văn sau đây là đoạn văn tiêu biểu cho những nét đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nam Cao (trích dẫn).
b) Cảm nhận:
– Đây là đoạn mở đầu trong truyện ngắn Chí Phèo là cách giới thiệu về sự xuất hiện độc đáo của nhân vật chính. Với cách vào truyện độc đáo và hấp dẫn này, Nam Cao đã gây cho người đọc một sự chú ý đặc biệt. Chí Phèo ngất ngưỡng bước ra từ trang văn của Nam Cao bằng một tiếng chửi hết sức đặc biệt: chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn, không ai ra điều, không ai lên tiếng, cuối cùng hắn chửi đứa chết mẹ nào đã đẻ ra Chí Phèo.
– Ý nghĩa của tiếng chửi:
+ Chửi trời: tiếng chửi vô cùng đặc biệt và vô cùng bài bản từ cao xuống thấp, từ không cụ thể đến cụ thể, từ chửi chung chung (đời, trời) đến chửi đổng (cả làng Vũ Đại, cha đứa nào…) rồi cuối cùng hắn chửi đứa nào đẻ ra Chí Phèo. Tiếng chửi là dấu hiệu của niềm khao khát được giao tiếp, được hòa nhập với mọi người. Tiếng chửi báo hiệu một cuộc đời không bình thường, không bằng phẳng đầy uất hận của một con người ít nhiều ý thức được sự tồn tại của mình. Chỉ muốn gây sự, muốn người ta để ý đến mình. Đây là một sự giao tiếp bất thường. Chửi trời: Chí đối lập với số phận; chửi đời – Chí đối lập với cuộc sống; chửi làng Vũ Đại – Chí đối lập với cộng đồng; chửi đứa nào đẻ ra hắn – Chí đối lập với tổ tiên. Đối lập với tất cả nên vô cùng cô đơn và vật vã.
+ Không ai lên tiếng tức là Chí đã bị đoạt ra khỏi cuộc sống của loài người, không ai thừa nhận Chí là người. Chí đã bị tước đoạt quyền làm người ngay từ khi ở tù ra nhưng Chí chưa nhận ra và chưa ý thức được một cách rõ ràng. Vì vậy, tiếng chửi của Chí Phèo là một cách đặt vấn đề độc đáo trong nghệ thuật của Nam Cao, vừa gây sự chú ý, vừa hé lộ tư tưởng, chủ đề mà nhà văn muốn đề cập đến. Với sự xuất hiện này, một Chí Phèo cô đơn tuyệt vọng, một nỗi đau quặn thắt mỗi lúc một căng thẳng và nhức nhối “Tức thật…được mất”. Mỗi câu, mỗi chữ hằn sâu thêm nỗi đau và làm Chí Phèo trở nên dữ dằn hơn. Đó là trạng thái căng thẳng, là chân dung của một kẻ lưu manh của một con người bị hủy hoại, bị cướp đi quyền làm người. Nhà văn đã hóa thân vào nhân vật để thấu hiểu tình cảnh của Chí Phèo, thế có khổ hắn không, Nam Cao đã tách mình ra khỏi nhân vật để mà cảm thông, thấu hiểu được nỗi lòng của kẻ cùng đường trong tuyệt vọng “Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn để ra thằng Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo! Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết”. Như vậy, nỗi đau mà nhà văn muốn đề cập đến ở Chí Phèo không chỉ là nỗi đau không cha, không mẹ, không người thân thích mà là nỗi đau tinh thần, nỗi đau con người sinh ra là người nhưng bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. Đấy chính là chiều sâu trong tư tưởng nhân đạo của Nam Cao, đó là khơi những nguồn chưa khơi và sáng tạo những gì chưa có của nhà văn.
– Nghệ thuật:
+ Nam Cao có biệt tài, có hướng khám phá con người trong con người, với những trang phân tích diễn tả tâm lí nhân vật sắc sảo và tinh tế. Thành công nhất của Nam Cao đó là ngôn ngữ kể chuyện sinh động, về mặt lí thuyết ngôn ngữ kể chuyện thường là ngôn ngữ của người dẫn chuyện và chức năng của nó là dẫn dắt câu chuyện, nối kết mạch chuyện, tổ chức cốt chuyện, giới thiệu nhân vật; nhưng ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao được thể hiện trong đoạn văn không thuần khiết mà nó là một loại ngôn ngữ đa thanh, đa giọng điệu, được tổ chức theo kiểu kết cấu tâm lí. Thường Nam Cao mở đầu tác phẩm bằng việc đưa nhân vật chính ra trước mắt người đọc với trạng thái hiện thời rồi sau đó hồi tưởng lại. Đây là một thủ pháp để nhà văn lí giải hiện thực của nhân vật.
+ Trong đoạn văn, vừa có ngôn ngữ trần thuật của người kể chuyện “hắn vừa đi vừa chửi”, vừa có ngôn ngữ của nhân vật “Tức thật, ờ thế này thì tức thật, tức chết đi được mất”, vừa có ngôn ngữ bình luận “Có hề gì, trời có của riêng nhà nào”, “thế cũng chẳng sao, đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai”. Sự đan xen ngôn ngữ giữa lời giới thiệu nhân vật của nhà văn. Ngôn ngữ đã tạo nên một cuộc đối thoại ngầm. Lắng nghe giọng điệu trong từng câu văn ta thấy câu đầu là lời thông báo, lời dẫn chuyện khách quan “Hắn vừa đi vừa chửi”, nhưng ngay sau câu đó “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi” thì đây không còn là lời giới thiệu nhân vật của nhà văn mà nó còn là tiếng nói thờ ơ, lãnh đạm của làng Vũ Đại. Vì vậy, trong câu văn trần thuật ta thấy bao hàm cả một thái độ trách móc, lên án của sự kì thị của cộng đồng. Những câu văn sau vừa là sự đánh giá, vừa là lời độc thoại của dân làng. Nam Cao muốn nhấn mạnh sự lãnh đạm, thờ ơ đáng sợ. Chính thái độ ấy là nguyên nhân đẩy Chí vào con đường cùng, biến Chí thành con quỷ dữ, tiếp theo là những câu văn ngắn, nhịp điệu dồn dập.
→ Nhịp điệu ấy cho ta cảm nhận thấy nỗi đau, sự vật vã trong tâm cảnh của nhân vật khi bị cự tuyệt. Sự kết hợp các câu văn ngắn, câu kể, câu cảm, câu hỏi đan xen trong đoạn văn đã giúp người đọc hình dung ra bóng dáng, diện mạo điệu bộ của Chí Phèo. Đây cũng là cái cớ nghệ thuật để nhà văn dẫn dắt câu chuyện đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Dòng tâm trạng, quá trình hồi sinh và thức tỉnh của Chí Phèo luôn luôn hiện ra một cách tự nhiên và hấp dẫn. Viết được những câu văn dằn vặt, đau đớn khổ tâm như vậy về nhân vật là vì một niềm trắc ẩn mênh mang tình người. Viết như vậy, Nam Cao đã thể hiện được tài năng trong việc sử dụng ngôn ngữ cũng như khả năng diễn tả phân tích tâm lí bậc thầy của mình.
Chỉ một đoạn văn ngắn mở đầu tác phẩm nhưng chúng ta cũng đã cảm nhận được tài năng bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ của Nam Cao cùng biệt tài phân tích, diễn tả tâm lí nhân vật cũng như chiều sâu tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Nam Cao có biệt tài, có hứng khám phá đi sâu vào nỗi đau tinh thần – bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của những con người lao động nghèo khổ, bất hạnh trong xã hội cũ.
3. Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời → Rút ra giá trị hiện thực sâu sắc:
– Tác giả, tác phẩm, nêu vấn đề
– Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo
– Nêu giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo
– Bình luận, đánh giá, vị trí của tác giả, của nhà văn
a) Tác giả, tác phẩm:
– Nam Cao là nhà văn hiện thực phê phán, nhân đạo có phong cách nghệ thuật tiến bộ, quan điểm độc đáo. Nét nổi bật trong phong cách của nhà văn đó là ông có hướng khám phá con người trong con người với những trang phân tích, diễn tả tâm lí nhân vật độc đáo.
– Chí Phèo là kiệt tác của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, cũng là tác phẩm ghi dấu ấn vị trí của Nam Cao trong nền văn học Việt Nam những năm 30 – 45. Đây cũng là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của nhà văn. Tác phẩm được viết năm 1941, viết về đề tài người nông dân nghèo. Nhân vật trung tâm của tác phẩm là Chí Phèo – điển hình cho cuộc đời và số phận của người nông dân trước cách mạng. Đây cũng là nhân vật thể hiện tài năng, phân tích diễn biến tâm lí bậc thầy của Nam Cao, đặc biệt là tâm trạng của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời.
b) Phân tích diễn biến tâm trạng:
* Tóm tắt cuộc đời của nhân vật Chí Phèo đến khi gặp Thị Nở:
Chí Phèo – đứa trẻ bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ “một anh đi thả ống lươn”, “một buổi sáng tinh sương, đã thấy hắn nằm trần chuồng và xám ngắt trong một cái váy đụp bỏ rơi ở cái lò gạch cũ”. Chí Phèo lớn lên trong vòng tay yêu thương của những con người lao động nghèo khổ và sống lương thiện. Đến năm 17 – 18 tuổi thì làm thuê cho nhà Bá Kiến bị Bá Kiến ghen và đẩy vào tù. Sau 7 – 8 năm ở tù, Chí bước ra cuộc đời và sống trong trạng thái say triền miên, sẵn sàng đập phá làm “chảy máu nước mắt của biết bao nhiêu người lương thiện”. Từ một người lương thiện, Chí Phèo đã bị xã hội đẩy vào con đường lưu manh hóa, bị cướp đi linh hồn người và trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nếu dừng ở đây, tác phẩm chỉ phán ánh được tình cản của người nông dân Việt Nam trước cách mạng, áp bức bóc lột của bọn địa chủ phong kiến cường hào. Song, đây mới là điểm bắt đầu của nhà văn trong hành trình khám phá vẻ đẹp trong tâm hồn con người nghèo khổ bất hạnh. Đây mới thực sự là những trang tuyệt bút diễn tả tâm lí của nhân vật.
* Tâm trạng của Chí Phèo khi gặp Thị Nở, khi ăn cháo hành của Thị Nở:
– Gặp Thị Nở là một sự kiện quan trọng có giá trị như một tình huống tạo nên bước ngoặt lớn trong cuộc đời của Chí Phèo. Chính tình yêu chân thành mộc mạc của người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn, dở hơi có dòng dõi mả hủi đã thức tỉnh phần người ở Chí Phèo – một con quỷ dữ. Với tài xây dựng cốt truyện, khắc họa tính cách nhân vật, Nam Cao đã phân tích, diễn tả một cách tinh tế những biến đổi trong tâm trạng của Chí Phèo, khi gặp Thị Nở, đón nhận tình người ở Thị Nở.
+ Mở đầu dòng tâm trạng đó là những dấu hiệu của sự thức tỉnh. Lần đầu tiên, Chí tỉnh rượu và lắng nghe được, cảm nhận được không gian, thời gian và những âm thanh quen thuộc của cuộc sống hàng ngày “mặt trời chắc đã lên cao và nắng rất rực rỡ”, “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng cười nói của những người đi chợ về”. Những âm thanh này, ngày nào cũng có nhưng hôm nay lần đầu tiên ở tù ra Chí mới nghe được. Chí thấy lòng mơ hồ buồn nhớ về quá khứ “đã có một thời hắn ao ước có một gia đình nho nhỏ…”.
+ Không chỉ nhớ về quá khứ mà Chí còn ý thức được thực tại của bản thân “hắn đã già mà vẫn còn cô độc. Ngoài 40 tuổi đã bước sang cái dốc bên kia của cuộc đời. Hắn sợ đói rét và ốm đau, cô độc”.
Sau khi ăn cháo hành của Thị Nở, tâm trạng của Chí Phèo có nhiều biến đổi. Lần đầu tiên hắn ngạc nhiên và thấy mắt mình ươn ướt vì đây là lần đầu tiên được người đàn bà cho hắn vừa vui, vừa buồn. Vui vì đây là lần đầu tiên hắn được săn sóc bởi bàn tay đàn bà, buồn vì hối hận ăn năn với những gì hắn đã gây ra, đặc biệt là hắn buồn khi nghĩ đến bà ba và đau đớn nhận ra rằng hắng chưa được người đàn bà nào yêu cả. Vì thế, mà bát cháo hành của Thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều: “Hắn có thể… kẻ thù”.
→ Chí đã thức tỉnh tính người và khát vọng người. Trước hết, hắn bắt đầu nảy sinh tình yêu với Thị Nở “Hắn thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với Thị như với mẹ”.
→ Sau khi ăn cháo hành của Thị Nở, lòng Chí ngập tràn hạnh phúc. Lần đầu tiên từ khi sinh ra, bây giờ Chí mới được sống những giây phút của tuổi thơ. Hắn bắt đầu sợ, hắn không còn đủ sức để mà liều. Hắn khát khao được sống lương thiện, được làm hòa với tất cả mọi người “Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống với hắn yên ổn thì sao người khác không thể. Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai, họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Không chỉ là khát vọng được sống lương thiện mà Chí Phèo còn khao khát hơn bao giờ hết được sống hạnh phúc với Thị Nở: “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ”, “hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”. Lời tỏ tình ấy của Chí Phèo mộc mạc mà giản dị nhưng vô cùng thiêng liêng và chất chứa nỗi niềm hạnh phúc. Hắn thấy lòng rất vui khi nhìn Thị Nở, khi được Thị Nở “lườm yêu”. Tóm lại, đoạn văn miêu tả cuộc gặp giữa Chí Phèo và Thị Nở đã diễn tả một cách xúc động quá trình hồi sinh trong tâm hồn Chí Phèo từ một con quỷ dữ triền miên trong những cơn say chỉ biết sống bằng đập phá, cướp giật giờ đây khi được sống trong tình người mộc mạc, lương tri của Chí Phèo đã trở lại. Chí biết buồn, biết vui, hạnh phúc, ước mơ và khao khát. Điều gì đã làm nên sức sống ấy. Phải chăng đó chính là tình người chân thành mộc mạc của Thị Nở – một tình người duy nhất trong làng Vũ Đại thừa bạo lực, thiếu tình thương. Mặc dù Thị Nở qua cách miêu tả của Nam Cao giống như một thứ vô dụng không giá trị nhưng ở con người tưởng như vô giá trị ấy lại có một tài sản vô giá mà cả làng Vũ Đại không ai có được đó chính là tình người. Về điều này, nhà văn muốn gửi đến người đọc một thông điệp: tình yêu thương sẽ nuôi dưỡng, gìn giữ nhân tính và cứu vớt linh hồn của con người. Thị Nở là người đã đánh thức bản chất lương thiện, bản chất người của Chí Phèo. Đồng thời, Thị Nở cũng là người giúp Chí Phèo nhận ra bi kịch của đời mình, nhận ra kẻ thù đã đẩy mình vào bi kịch ấy.
+ Bị Thị Nở từ chối tâm trạng của Chí Phèo từ ngạc nhiên “đau đớn đến tuyệt vọng”
+ Mở đầu cho dòng tâm trạng ấy là thái độ ngạc nhiên hoảng hốt khi bị Thị Nở từ chối “hắn bỗng nhiên ngẩn người, thoáng một cái hắn lại hít thấy hơi cháo hành. Hắn ngồi ngẩn mặt không nói gì. Thị hả hê lắm, Thị ngoay ngoáy cái mông đít ra về. Hắn sửng sốt đứng lên gọi lại, nắm lấy tay Thị”. Hành động chạy theo nắm lấy tay Thị Nở vừa thể hiện sự hụt hẫng xót xa, nuối tiếc vừa giống như một lời van xin khẩn cầu tha thiết để Chí được ở lại với thế giới của con người. Nhưng con đường trở lại làm người của Chí Phèo đã bị Thị Nở đóng lại. Hắn đau đớn nhận ra rằng mình đã không được thừa nhận làm người. Hắn bắt đầu uống rượu và càng uống càng tỉnh “Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành”, “hắn ôm mặt khóc rưng rức”. Nếu như khi ăn cháo hành của Thị Nở hắn thấy mắt mình ươn ướt – đó là tiếng khóc của hạnh phúc thì giờ đây đó là tiếng khóc uất ức, tức tưởi, bất mãn mất niềm tin vào cuộc đời. Tiếng khóc của một con người đã hoàn toàn tỉnh táo trước bi kịch của cuộc đời mình.
+ Trong tột cùng nỗi đau đớn và tuyệt vọng, Chí tỉnh táo nhận ra kẻ thù và xách dao đến nhà Bá Kiến giết kẻ thù và kết thúc kiếp sống của một con quỷ dữ “Ai cho tao lương thiện…”
→ Chú ý phân tích ý nghĩa của hành động:
+ Kết quả của quá trình thức tỉnh và hồi sinh trong tâm hồn Chí Phèo mà không một tội ác, một thế lực nào có thể tiêu diệt được.
→ Khẳng định bản chất tốt đẹp, lương thiện của con người lao động.
+ Nam Cao muốn khái quát lên một hiện thực đau lòng về số phận người nông dân nghèo ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng.
+ Cái chết của Chí Phèo có ý nghĩa tố cáo sâu sắc đối với xã hội vô nhân đạo. Trước đây, để trở thành một con quỷ dữ thì Chí Phèo phải bán bộ mặt và linh hồn mình để tồn tại. Giờ đây, khi lương tri đã trở về, đã thức tỉnh để được làm người Chí phải đánh đổi cả mạng sống của mình. Đây là một cái kết duy nhất để Chí Phèo giải thoát cho mình thoát khỏi linh hồn của một con quỷ dữ.
+ Thông qua hành động của Chí Phèo ở cuối truyện, nhà văn muốn gửi gắm đến người đọc một thông điệp vô cùng quý giá: được sống là một điều quý giá nhưng sống để làm một “con người” còn quý giá hơn nhiều.
c) Giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm:
– Phản ánh thực trạng
Bước ra từ trang sách của Nam Cao, người ta liền nhận ra rằng đây mới là hiện thân đầy đủ những gì gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cày ở một nước thuộc địa bị cào xé, bị hủy hoại từ nhân hình đến nhân tính. Chị Dậu bán con, bán chó, bán sữa nhưng chị vẫn còn được là con người. Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn mình để trở thành con quỷ dữ (Nguyễn Đăng Mạnh)
→ Với điều này, Nam Cao muốn phơi bày hiện thực đau lòng về nông thôn Việt Nam trước cách mạng, người dân bị bọn cường hào bóc lột một cách tàn nhẫn, bị cướp đi quyền làm người.
Kết ấn đanh thép với xã hội tàn bạo, vô nhân đạo:
– Bằng giọng văn lạnh lùng đến tàn nhẫn, Nam Cao đã đi sâu vào phản ánh nỗi đau bằng sự cảm thông, bằng tình yêu thương vô bờ bến. Phản ánh khát vọng mãnh liệt, khát vọng được sống làm người ở những con người lao động nghèo khổ. Vì vậy, hành động giết Bá Kiến và kết thúc cuộc đời thú dữ của Chí Phèo không chỉ là kết quả của quá trình bị áp bức mà đó là kết là kết quả của quá trình thức tỉnh để làm người lương thiện.
– Ca ngợi khẳng định bản chất lương thiện, sức sống mãnh liệt trong tâm hồn người lao động, đặc biệt chỗ nhà văn khơi những nguồn chưa ai khơi, đi sâu khẳng định bản chất tốt đẹp ở những con người tưởng như không còn hình hài và tính cách người.
– Nhà văn có biệt tài diễn tả tâm lí nhân vật để phản ánh nỗi đau tinh thần, nỗi đau không được làm người.
Thông điệp:
– Cái quý nhất là tình người và nhân cách người.
– Tình người có thể nuôi dưỡng, gìn giữ nhân tính của con người, cứu vớt linh hồn của con người.
– Được sống là một điều quý giá nhưng sống làm người còn quý giá hơn người.
4. Đánh giá chung:
– Những thành công nổi bật về nội dung, tư tưởng, nghệ thuật.
– Sức hấp dẫn trong biệt tài diễn tả tâm lí nhân vật.
– Sức sống của tác phẩm, của nhà văn.