SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC VÀ CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN TRONG PHƯƠNG THỨC PHẢN ÁNH
Sơ lược về chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn
- Khái niệm
1.Chủ nghĩa hiện thực là thuật ngữ dùng để chỉ một phương pháp nghệ thuật, một trào lưu văn học, đó là chủ nghĩa hiện thực phê phán. Chủ nghĩa hiện thực phê phán là phản ánh hiện thực với cảm hứng phân tích phê phán hiện thực (thuật ngữ này được Macxim Gorki sử dụng đầu tiên). Đây là trào lưu văn học lớn xuất hiện vào những năm 30- 40 của thế kỷ XIX. Những đại biểu xuất sắc của trào lưu này là Banzăc, Xtăngđan, Gôgôn, LépTônxtôi, Đôtxtôiepxki…
- 2. Chủ nghĩa lãng mạn là một trào lưu văn học xuất hiện ở Tây Âu sau Cách mạng tư sản Pháp 1789 với các đại diện tiêu biểu: Victo Huy go, Satôbriăng, Muytxê, Lamactin, Puskin, Bai rơn…Đây cũng là thuật ngữ chỉ một phương pháp sáng tác thiên về tái tạo hiện thực, coi trọng yếu tố chủ quan của người nghệ sĩ (lãng mạn trong tiếng Hán có nghĩa là sóng tràn bờ).Chủ nghĩa lãng mạn còn là một khuynh hướng thẩm mỹ được khơi nguồn từ sự khẳng định cái tôi cá nhân cá thể được giải phóng về tình cảm, cảm xúc và trí tưởng tượng. Nó phá vỡ tính duy lý, tính quy phạm mực thước của văn chương cổ điển. Nó thích hợp với công chúng thanh niên vì tuổi trẻ nói chung giàu nhiệt tình và mộng mơ, thích những điều mới lạ, độc đáo, khác thường.
II.Khuynh hướng hiện thực và lãng mạn trong văn học Việt Nam.
1.Văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930 – 1945.
- Những tiền đề chính trị xã hội, văn hoá tạo nên cơ sở cho sự xuất hiện văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930 – 1945.
Sau khi xâm lược thực dân Pháp ra sức củng cố địa vị thống trị, chúng bắt tay khai thác thuộc địa đẩy dân ta lún sâu hơn cảnh bần cùng. Tiếp đó, chúng ra sức bóc lột dân ta để bù lại những thiệt hại to lớn do cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 gây ra đẩy nền kinh tế Việt Nam vào tới chỗ điêu đứng: sản xuất bị đình đốn, ngân hàng rút bớt giấy bạc đẩy nông dân và công thương đến chỗ phá sản, vỡ nợ thất nghịêp ngày càng tăng, hạn hán lụt lội liên tiếp xảy ra, thuế khoá nặng nề, đói trầm trọng, nhân dân bị bóc lột đến tận xương tuỷ trong khi đó những ông chủ bà chủ sống xa hoa, mâu thuẫn dân tộc và thực dân Pháp, nông dân và địa chủ ngày càng sâu sắc.
Xã hội Việt Nam có sự biến đổi: đô thị mở rộng, thi trấn mọc lên, quan hệ xstb hình thành, cá nhân trở thành một thực thể, văn học Việt Nam dần dần thoát khỏi ảnh hưởng của văn hoc Trung Quốc, bắt đầu tiếp xúc với nền văn học phương Tây.
Xã hội Việt Nam lúc ấy chịu ảnh hưởng của rất nhiều luồng tư tưởng. Tư tưởng phong kiến được thực dân Pháp ra sức khuyến khích: suy tôn Khổng giáo, bảo tồn quốc hồn quốc tuý, kêu gọi trở về với nền văn học cũ với mục đích triệt tiêu tinh thần đấu tranh của nhân dân ta. Tư tưởng tư sản với hai chiều hướng tich cực và tiêu cực: tiêu cực ở chỗ chịu ảnh hưởng của khuynh hướng duy tâm tư sản trong triết học của Frơt, Nisơ; tích cực là chịu ảnh hưởng của khuynh hướng dân chủ tư sản qua một số tác phẩm của các nhà văn hiện thực của Pháp, của thế giới và tiếp thu triết học duy vật biện chứng Rutxô, Điđơrô…Tư tưởng Mác xit và tinh thần nhân văn nhân đạo: hạt nhân là cái nhìn biện chứng khoa học góp phần hình thành thế giới quan tiến bộ thôi thúc các nhà văn tìm hướng giải phóng cho con người mở ra cách nhìn mới, cảm thông, bênh vực, ca ngợi con người.
Chủ nghĩa hiện thực Việt Nam nảy sinh từ hoàn cảnh xã hội, lịch sử văn hóa đó. Nó tiếp thu thành tựu vĩ đại của trào lưu hiện thực phê phán thế giới song nó đi theo con đường riêng.
b.Quá trình phát triển của văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930 – 1945
*Chặng thứ nhất 1930-1935
Xuất hiện một số cây bút thu hút được sự chú ý của độc giả. Nguyễn Công Hoan với tập truyện “Người ngựa ngựa người” (1934), Kép Tư Bền (1935), Vũ Trọng Phụng với hai phóng sự “Cạm bẫy người” (1933), “Kĩ nghệ lấy Tây” (1934); Tam Lang với phóng sự “Tôi kéo xe” (1935), truyện ngắn “Một đêm trước”; Ngô Tất Tố với “Giao cầu thuyên tán”; Tú Mỡ với tập thơ trào phúng “Dòng nước ngược”. Nguyễn Công Hoan là đại biểu xuất sắc nhất.
Các tác phẩm của chủ nghĩa hiện thực phê phán thời kì này đã toát lên tinh thần phê phán: phê phán tính chất bất công, vô nhân đạo của xã hội; bộc lộ sự cảm thông, thương xót đối với các nạn nhân của xã hội.
Hạn chế: nội dung phản ánh hiện thực của các tác phẩm thời kì này còn hạn hẹp, chưa sâu sắc, chỉ mới phản ánh hiện tưọng nổi lên trên bề mặt của xã hội chưa tập trung vào mâu thuẫn cơ bản của xã hội, tính chất chiến đấu chưa cao, mục đích phê phán chưa thật chính xác, thế giới nhân vật mới tập trung vào dân nghèo, lưu manh thành phố. Nhiều tác phẩm chỉ mới có tính chất ghi chép, tình cảm của các nhà văn đối với người nghèo chưa được sâu sắc, cái nhìn còn có vẻ khinh bạc, một vài phóng sự chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa tự nhiên…
*Chặng thứ hai 1936-1939
Phong trào dân tộc dân chủ phát triển mạnh, các tác giả được tự do trên văn đàn, có điều kiện tiếp xúc với sách báo cách mạng công khai; lưỡi kéo kiểm duyệt của thực dân Pháp đỡ gắt gao hơn, không khí của thời đại phát huy cao độ sở trường của nhà văn nên văn học hiện thực phê phán phát triển rực rỡ hơn bao giờ hết. Lực lượng sáng tác ngày càng đông, bên cạnh những nhà văn của giai đoạn trước có thêm Mạnh Phú Tứ, Đồ Phồn, Nguyên Hồng, Trần Tiêu…Các tác phẩm phong phú, xuất hiện nhiều tiểu thuyết, tiểu phẩm, truyện ngắn phát huy được sức mạnh như một vũ khí sắc nhọn: Ngô Tất Tố với “Tắt Đèn”, “Lều chõng”; Vũ Trọng Phụng với “Số đỏ”, “Giông tố”, “Vỡ đê”, “Cơm thầy cơm cô”; Nguyên Hồng có “Bỉ vỏ”, “Những ngày thơ ấu”, Nguyễn Công Hoan có “Bước đường cùng”, “Cái thủ lợn”…
Các nhà văn hiện thực phê phán thời kì này bắt đâu đi sâu phản ánh bản chất đích thực và những vấn đề nổi cộm trong lòng xã hội: mâu thuẫn giai cấp, những thủ đoạn của quan lại phong kiến, chính sách thâm độc của thực dân; nói lên thật thống thiết nỗi khổ của nông dân, cổ vũ, biểu dương tinh thần đấu tranh, phản kháng, xây dựng thành công nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Nhiều cuốn tiểu thuyết khái quát được những mảng lớn của đời sống xã hội. Ngọn cờ của chặng này là Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng.
Cuối 1939 khi chiến tranh thế giới xảy ra dưới ách của hai đế quốc thực dân Nhật, Pháp, văn học lại bị kiểm soát gắt gao.
*Chặng thứ ba: 1940-1945
Trào lưu văn học hiện thực phê phán đi đến chỗ tàn lụi, Ngô Tất Tố không còn viết văn mà quay sang lĩnh vực khảo cứu, Nguyễn Công Hoan bị thực dân Pháp treo giò, rơi vào tư tưởng sai lầm thoái hoá (tiểu thuyết Thanh đạm ca ngợi quan lại), Vũ Trọng Phụng mất năm 1939. Xuất hiện trên văn đàn lúc bấy giờ là Tô Hoài, Bùi Hiển, Kim Lân, Nam Cao….
Các nhà văn thời kì này lảng tránh những vấn đề nóng bỏng. Truyện của Tô Hoài phản ánh phong tục tập quán sinh hoạt của vùng nông thôn ngoại ô, đằng sau đó cho thấy hình ảnh xã hội đang đói khổ, cùng quẫn, cái xã hội của những người nông dân nghèo, thợ dệt vải bị phá sản, cảnh bỏ làng đi làm thuê, những mối tình dang dở (Xóm giếng ngày xưa, Quê người, Giăng thề…), Bùi Hiển đi vào phản ánh cuộc sống làm ăn của người dân chài lưới Quảng Nam: mê tín, nóng nảy cục cằn nhưng có tinh thần nhân hậu (Nằm vạ). Đáng chú ý nhất là Nam Cao. Nam Cao là cây bút có chiều sâu của chủ nghĩa hiện thực. Tác phẩm của ông đã đặt ra những vấn đề lớn lao có tính chất triết lí , khái quát xã hội sâu sắc và đã có những kiệt tác để đời.
So với giai đoạn trước, văn học hiện thực phê phán giai đoạn này có mặt yếu: ít xuất hiện những điển hình bất hủ, ít có những tiểu thuyết lớn, cách nhìn bế tắc hơn, bi quan hơn, có những tác phẩm chất lượng còn mờ nhạt.
- Văn học lãng mạn Việt Nam
Những mầm mống của chủ nghĩa lãng mạn đã xuất hiện ở nước ta từ cuối thế kỷ XIX với thơ văn, từ khúc của Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê, Dương Lâm, Đào Tấn…Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa lãng mạn thể hiện khá đầy đủ những đặc trưng của nó trong thơ Tản Đà và trong văn của Hoàng Ngọc Phách (tiểu thuyết Tố Tâm). Đến giai đoạn 1930-1945, với lớp nhà văn Tây học trẻ tuổi, cái tôi cá nhân mới thực sự được thể hiện sâu sắc . Chủ nghĩa lãng mạn do đó phát triển thành trào lưu rầm rộ với đầy đủ đặc trưng của nó trên các thể loại: thơ, truyện ngắn, bút ký, tùy bút
a.Thơ Mới lãng mạn
* Hoàn cảnh lịch sử xuất hiện phong trào thơ Mới
Thơ Mới là thơ lãng mạn. Đó là tiếng nói của giai cấp tiểu tư sản. Sự xuất hiện của giai cấp tư sản và tiểu tư sản thành thị với những tư tưởng tình cảm mới, những thị hiếu thẩm mỹ mới cùng với sự giao lưu văn hóa Đông Tây là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào thơ Mới ra đời.
Năm 1919 chấm dứt chế độ thi cử Hán học, thơ Đường mất dần vị trí độc tôn. Các tác phẩm cổ điển của Coocnây, Môlie và những tác phẩm văn học lãng mạn Pháp thế kỷ XIX của Lamactin, Bôđơle xuất hiện và được giới thiệu rộng rãi trên văn đàn, trong nhà trường…Chính những đổi mới trong sinh hoạt tư tưởng và sự tiếp xúc với văn học lãng mạn Pháp đã dần dần đem đến cho thanh niên tiểu tư sản thành thị những năm 30 của thế kỷ này những tình cảm mới, những rung động mới. Họ yêu đương mơ mộng, vui buồn khác các nhà thơ xưa. Trong buổi diễn thuyết ở nhà hội Quy Nhơn tháng 6-1934, Lưu Trọng Lư đã nói : “Các cụ ta ưa những màu đỏ choét, ta lại ưa màu xanh nhạt, Các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya, ta lại nao nao vì tiếng gà đúng ngọ. Nhìn thấy một cô gái xinh xắn ngây thơ, các cụ coi như đã làm một điều tội lỗi, ta thì cho là mát mẻ như đứng trước một cánh đồng xanh… Cái ái tình của các cụ là sự hôn nhân nhưng đối với ta thì trăm hình muôn trạng: cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình gần gụi, cái tình xa xôi, cái tình trong giây phút, cái tình ngàn thu…”. Chính vì sự khác nhau sâu xa đó giữa hai thế hệ mà những câu thơ ngâm hoa vịnh nguyệt sáo mòn và cũ rích trên Nam Phong , Văn học tạp chí, Tiếng dân không còn hợp với tình cảm mới của họ. Phong trào Thơ mới lãng mạn Việt Nam ra đời năm 1932 chính là để đáp ứng nhu cầu tình cảm của một tầng lớp thanh niên mới. Một phong trào văn học ra đời bao giờ cũng phản ánh những đòi hỏi nhất định của xã hội. Nó là tiếng nói của một tầng lớp người, của một giai cấp vừa mới ra đời, đang lớn lên hoặc già cỗi trong xã hội. Văn học lãng mạn 1932 trở đi là tiếng nói của tư sản và tiểu tư sản thành thị. Thơ mới chủ yếu là tiếng nói của giai cấp tư sản và tiểu tư sản thành thị là nguyên nhân chính cho phong trào Thơ mới ra đời.
*Quá trình phát triển
– Thời kỳ 1932-1935:
Bắt đầu quá trình sinh thành của Thơ mới, bài thơ được gọi là Thơ mới và dư luận khen chê sôi nổi là bài Tình già của Phan Khôi được ra mắt bạn đọc trên Phụ nữ Tân văn số 122, ngày 10-3-1932, cùng với bài giới thiệu lấy tên Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ. Lưu Trọng Lư là người diễn thuyết hăng hái nhất bênh vực thơ mới và là người có công khai sinh ra thơ mới. Bài thơ Ðường đời và Vắng khách thơ là những bài thơ mới của Lưu Trọng Lư xuất hiện sau bài Tình già của Phan Khôi. Thơ Lưu Trọng Lư là một lối thơ quen thuộc của dân tộc, một chút xưa của thơ Ðường. Lưu Trọng Lư đến với thơ bằng cả tâm hồn sầu mộng của mình. một mối sầu hoài cảm… Thế Lữ là người có công trong việc xây dựng nền thơ mới. Phan Khôi, Lưu Trọng Lư chỉ là người làm cho người ta chú ý đến thơ mới mà thôi, còn Thế Lữ mới chính là người làm cho người ta tin cậy vào tương lai của thơ mới. Thế Lữ xuất hiện được Hoài Thanh đánh giá rất cao: Ðộ ấy thơ mới vừa ra đời. Thế Lữ như vầng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam. Thơ Thế Lữ tiêu biểu cho tiếng nói của cái tôi trong thơ mới thời kì đầu. Nó hăng hái tự khẳng định, vẫn ít nhiều còn dè dặt, tình yêu còn mức độ, chứ chưa buông tuồng, ích kỉ trắng trợn như về sau. Thế Lữ nói đúng cái tôi trong thơ mới khi kêu gọi yêu đi, yêu mãi bạn lòng ơi. Thơ Thế Lữ thời kì đầu say sưa thoát li hiện thực. Nhưng những sự kiện lớn lao của lịch sử còn dư vang trong tâm trí. Thơ Thế Lữ có ấp ủ một tinh thần dân tộc, một khát khao tự do. Thời kì đầu tinh thần dân tộc đó chính là tiếng vọng lại xa xôi của phong trào cách mạng (1930-1931).
– Thời kì 1936-1939:
Thời kì này xuất hiện nhà thơ Xuân Diệu trường hợp mới nhất trong các nhà thơ mới (thi nhân Việt Nam). Xuân Diệu xuất hiện chiếm hẳn dịa vị độc tôn trên thi đàn. Tiếng thơ của Xuân Diệu như luồng gió mát thổi tâm hồn trẻ: Xuân Diệu là nhà thơ đầu tiên của Việt Nam đã áp dụng thuyết hiện sinh vào thi ca (Nguyễn Tấn Long-Việt Nam thi nhân tiền chiến). Thời kì này còn xuất hiện Nguyễn Bính: nhà thơ chân quê ; Huy Cận, người dồn cả cái buồn thời đại vào thơ, Hàn Mặc Tử với hồn thơ đau thương kỳ dị…
-Thời kì 1940- 1942:
Do đại chiến thế giới lần hai, xã hội Việt Nam bước vào những năm khủng hoảng tột độ. Văn học công khai diễn ra hỗn loạn. Cái Tôi trong thơ mới rút đến sợi tơ cuối cùng. Mỗi nhà thơ thoát li một cách, và càng thoát li lại càng lạc lối. Từ 1940 về sau thơ mới càng đi xa con đường đấu tranh cách mạng. Thơ mới lắm xu hướng, nhiều màu sắc nhưng đều là những hình thức khác nhau của sự khủng hoảng. Nhóm Dạ Ðài: Vũ Hoàng Chương, Trần Dần, Ðinh Hùng. Nhóm Xuân Thu Nhã Tập trình làng một lối thơ khó hiểu, gồm các thành viên: nhà thơ Nguyễn Xuân Sách, nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Ðỗ Cung, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Lương Ngọc, Ðoàn Phú Tứ . Xu hướng thoát li siêu thoát triết lí thần bí tiêu biểu là Huy Cận với Vũ trụ ca, Kinh cầu tự, Chế Lan Viên với Vàng sao…
b.Văn xuôi lãng mạn với nhóm Tự lực văn đoàn
* Hoàn cảnh ra đời
Người sáng lập Tự lực văn đoàn là Nguyễn Tường Tam, bút danh Nhất Linh. “Tự lực” là có ý tự sức mình gây nên một cơ sở chứ không cậy nhờ chính phủ hay một thế lực tài chính nào và cũng không tuân theo một chỉ thị nào, đường lối do chính họ đặt ra. Nhóm gồm có 7 thành viên: Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Nguyễn Gia Trí.
Quan điểm xã hội và nhân sinh chủ trương duy tân và cấp tiến, họ muốn phá bỏ xã hội nho phong với những tập tục lễ giáo, đả phá những hủ tục dân quê, đả phá phong thái đạo học, thành kiến chán đời của lớp người đứng tuổi trong xã hội. Họ đưa ra quan niệm sống ôn hòa, họ muốn cải cách dân chúng, nhất là dân quê. Họ đề cao tự do cá nhân, hạnh phúc vật chất và chủ nghĩa yêu đời của lớp người trẻ tuổi. Quan niệm nhân sinh này dần dần ngả theo mục tiêu chính trị, đả đảo chế độ quan liêu phong kiến, tẩy chay chế độ dân bản bù nhìn và đòi tự do dân chủ. Năm 1940, nhóm ngừng hoạt động, chuyển sang hoạt động chính trị.
*Tôn chỉ và đường lối sáng tác
– Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về vật chất chứ không phiên dịch sách nước ngoài nếu những sách này chỉ có tính chất vật chất.
– Làm giàu cho văn sản của đất nước.
– Họ chủ trương soạn những cuốn sách có tư tưởng xã hội để làm cho xã hội tốt đẹp hơn.
– Soạn những cuốn sách có tính chất bình dân -> cổ vũ mọi người yêu chủ nghĩa bình dân.
– Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ Nho -> tính cách An Nam
– Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, phấn đấu, tin tưởng
– Ca tụng vấn đề b.dân khiến cho người khác yêu nước một cách b.dân
– Trọng tự do cá nhân
– Cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời.
– Vận dụng phương pháp sáng tác phương Tây trong văn chương Việt Nam
*Quá trình phát triển
– 1932 -1934: Cổ vũ cho cá nhân, chống lễ giáo phong kiến
– 1934-1939: Chống lễ giáo phong kiến, xu hướng nghiêng về bình dân, những hoạt động cải cách thôn quê, lý tưởng hóa hình ảnh người chinh phụ.
– Từ 1939 trở đi: Xuống dốc và kết thúc bằng một số tác phẩm đi vào thi vị hóa đời sống, ca tụng lối sống cá nhân, ích kỉ : “Bướm trắng…”
* Đóng góp của Tự lực văn đoàn
Về nội dung: chống lễ giáo phong kiến, đấu tranh cho tự do yêu đương và đòi quyền sống cho con người, đòi giải phóng cá nhân,cá thể. Còn ở giai đoạn này họ đề cao cuộc sống cá nhân; các nhà văn đã theo tư tưởng đứng về phía cái mới, cổ vũ cho văn minh phương Tây.
Về nghệ thuật: Lối văn giản dị, ít chữ Nho, đi sâu khám phá đời sống nội tâm, tâm lý nhân vật. Các tác giả có ý thức đổi mới về cốt truyện, kết cấu trong thể loại văn xuôi.Trong văn trung đại, kết cấu thường theo thời gian, kết cấu biên niên, theo mô tip gặp gỡ – chia ly – đoàn tụ.Trong tiểu thuyết tự lực văn đoàn, kết cấu đa dạng, linh hoạt, đòi hỏi nhà văn phải xử lý tuyến sự kiện và tuyến nhân vật. Tự sự xen lẫn miêu tả, với đối thoại, độc thoại nội tâm, với những lời bình luận trữ tình ngoại đề, chi phối cách bố trí hình thức kết cấu. Tác phẩm của nhóm Tự lực văn đoàn đã xóa bỏ cách kết cấu đơn tuyến thay bằng kết cấu đa tuyến, sử dụng hình thức đối lập để tạo tình huống căng thẳng. Có thể nói: “Với Tự lực văn đoàn, tiếng Việt trong sáng hơn, chấm dứt những câu văn biền ngẫu chồng chất điển cố Hán-Việt. Với Tự lực văn đoàn cũng không còn những câu lai căng cộc lốc như văn của Hoàng Tích Chu mà là những lời ăn tiếng nói của nhân dân được chọn lọc, gọt giũa, trau chuốt đưa vào tác phẩm. Có thể nói, Tự lực văn đoàn đã góp phần hiện đại hóa văn chương Việt Nam”.
- Một số điểm khác biệt trong phương thức phản ánh giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn.
- Nguyên tắc phản ánh hiện thực
- Chủ nghĩa hiện thực coi trọng nguyên tắc lịch sử cụ thể. Đây là một trong những nguyên tắc phản ánh đời sống của chủ nghĩa hiện thực, là nét khu biệt giữa chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực. Cách tiếp cận chủ quan với sự mô tả hiện thực là đặc điểm của chủ nghĩa lãng mạn, còn chủ nghĩa hiện thực lại chú ý đến sự mô tả khách quan đời sống. Các nhà văn hiện thực nhìn nhận sự vật theo một quá trình nào đó và họ có tham vọng biết chính xác lịch sử xã hội. Banzăc – đại biểu xuất sắc của trào lưu hiện thực phê phán nói “Chính xã hội Pháp mới là sử gia còn tôi chỉ là người thư kí”.
- Chủ nghĩa lãng mạn coi trọng nguyên tắc biểu hiện. Văn học lãng mạn sáng tạo nhân vật, hình ảnh, tình huống nhằm thỏa mãn việc biểu hiện lý tưởng và tình cảm mãnh liệt của nhà văn. Nhân vật hành động theo ý muốn chủ quan của tác giả, thể hiện một cách trực tiếp tư tưởng của nhà văn.
- Đề tài, cảm hứng, lý tưởng thẩm mỹ
- Chủ nghĩa hiện thực:
Cảm hứng chủ đạo là phê phán, bóc trần, phê phán thực tại xã hội. Lý tưởng thẩm mĩ của chủ nghĩa hiện thực có tính nhân đạo. Nếu chủ nghĩa lãng mạn hướng vào cái phi thường thì chủ nghĩa hiện thực hướng tới cái bình thường. Với các nhà văn hiện thực, cái đẹp gắn với cái thực “Chúng tôi không đòi hỏi lí tưởng cuộc sống mà đòi hỏi chính bản thân cuộc sống như nó vốn có, tốt hoặc xấu mà ta không muốn tô điểm” (Biêlinxki). Với các nhà văn, phụng sự cái đẹp chính là thái độ phủ nhận hiện thực, cái hiện thực xấu xa, tàn ác. Vì vậy trong một số tác phẩm hiện thực, nhà văn không xây dựng hình tượng nhân vật chính diện, mang vẻ đẹp lý tưởng (Tấn trò đời của Ban dăc, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng…) Trả lời chất vấn của giới phê bình, Banzăc cho rằng: Người ta đòi hỏi chúng ta xây dựng những nhân vật đức hạnh nhưng tìm đâu ra nguyên mẫu của những nhân vật đó. Vũ Trọng Phụng cũng chỉ ra trong tác phẩm của mình, rằng xã hội tư sản thành thị đương thời về bản chất là chó đểu và vô nghĩa lý. Trong cuộc bút chiến với Nhất Chi Mai, ông khẳng định: Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết, tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết phải là sự thực ở đời.
- Chủ nghĩa lãng mạn
Nhà văn lãng mạn thường hướng tới những cái phi thường có tính biệt lệ. Chẳng hạn, truyện ngắn Chữ người tử tù xây dựng một không khí thiêng liêng khác thường, con người cũng tài hoa, dũng liệt một cách rất đỗi nghệ sĩ như Huấn Cao. Văn học lãng mạn còn xây dựng những hình tượng con người vượt lên thực tại của đời sống của hoàn cảnh, hướng tới một cái gì tốt đẹp và thánh thiện hơn hiện thực. Có khi đó chỉ là những khát vọng dẫu mơ hồ nhưng cũng đủ để niềm tin của con người có điểm tựa.
Khát vọng chờ chuyến tầu đêm qua phố huyện nghèo (Hai đứa trẻ – Thạch Lam) chính là được viết theo cảm hứng lãng mạn bay bổng ấy. Hai chị em Liên đợi tầu không xuất phát từ nhu cầu vật chất. Hai đứa trẻ chờ tầu bởi nhu cầu tinh thần, chuyến tầu đêm là cả một niềm vui lớn. Con tầu mang đến phố huyện một luồng ánh sáng rực rỡ và những âm thanh sôi động xua đi không khí tĩnh lặng của phố huyện nghèo. Bên cạnh đó, con tầu khiến chị em Liên như trở về với quá khứ tươi đẹp, con tầu chạy tới từ Hà Nội, chạy tới từ tuổi thơ đã qua. Hai chị em đã có thời sống ở Hà Nội xa xăm, tươi đẹp, huyên náo, hai chị em từng được đi chơi bờ hồ, được ăn những thức quà ngon, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Con tầu đã đánh thức dậy một miền kí ức tuổi thơ tươi đẹp để cân bằng lại cuộc đời không mấy niềm vui, hạnh phúc nơi phố huyện nghèo. Vì vậy khi tầu đến, Liên và An đứng cả dậy hướng về phía con tầu và khi con tầu đi rồi Liên vẫn lặng theo mơ tưởng.
Chất lãng mạn được kết hợp nhuần nhuyễn với chất hiện thực tạo nên vẻ đẹp riêng của văn xuôi lãng mạn. Cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù được miêu tả một cách chân thực, cụ thể, chi tiết: Thời gian: lúc nửa đêm; không gian: trại giam tỉnh Sơn; sự việc: diễn ra giữa ba nhân vật Huấn Cao, viên quản ngục, thầy thơ lại. Tuy nhiên cảnh hiện thực mà lại lãng mạn gợi liên tưởng tới sự bất tử của cái đẹp. Ngọn đuốc rừng rực trong bong đêm gợi liên tưởng tới tài năng khí phách, thiên lương; mùi thơm của chậu mực và mầu trắng tinh của tấm lụa bạch là biểu tượng cho vẻ đẹp của tấm lòng và tài năng…
Đề tài trong văn học hiện thực là những vấn đề nóng bỏng trong xã hội, những xung đột và mâu thuẫn giai cấp. Đề tài trong văn học lãng mạn lại là tình yêu, thiên nhiên, quá khứ, văn hóa…, những vấn đề có tính muôn thuở, vững bền.
III. Hệ thống hình tượng
1.Chủ nghĩa hiện thực miêu tả cuộc sống bằng hình tượng tương ứng với bản chất những hiện tượng của chính cuộc sống, bằng điển hình hoá những hiện tượng của chính cuộc sống. Nguyên tắc này xuất phát từ tham vọng của các nhà văn hiện thực muốn mô tả hiện thực đúng như nó vốn có. Vì vậy, có nhà nghiên cứu phát biểu rằng “Chủ nghĩa hiện thực bắt đầu từ nơi nào tương quan với thực tại, nơi mà tái tạo chân lí của đời sống”. Do vậy, chủ nghĩa hiện thực hay dùng nguyên mẫu, rất ghét hư cấu bịa đặt ngay cả trong việc lựa chọn một cái tên, cái tên đối với họ cũng rất gần gũi đối với đời sống. Văn học hiện thực miêu tả các cá thể, các hiện tượng ngẫu nhiên có tính quy luật chứ không phải cái ngẫu nhiên biệt lệ; những hình tượng nhà văn mô tả phải nói lên được bản chất của đời sống.
Văn học hiện thực thường khắc họa hình tượng thông qua thủ pháp nghệ thuật điển hình hóa. Điển hình hoá là biện pháp nghệ thuật nhằm làm cho hình tượng nghệ thuật trở thành điển hình là con đường đưa sáng tạo nghệ thuật đạt đến chất lượng cao. Điển hình hoá là hình thức khái quát hoá – đặc trưng của phương pháp hiện thực hình thành trên cơ sở quan sát tình hình lặp đi lặp lại tương đối ổn định của các hiện tượng tính cách và quá trinh cuộc sống cùng loại trong thực tại. “Cần phải quan sát những người cùng lọai để sáng tác lên một điển hình nhất định” Leptônxtôi. Chính vì lẽ đó, chủ nghĩa hiện thực rất chú trọng mối quan hệ biện chứng giữa tính cách điển hình và hoàn cảnh điển hình.
Tính cách điển hình là sự kết hợp hài hoà giữa tính riêng sắc nét và tính chung có ý nghĩa khái quát cao. Nói một cách khác, nó vừa mang nét tính cách riêng có của mình lại vừa mang đặc điểm của tầng lớp, giai cấp trong xã hội “Tính cách điển hình là con người này, lạ mà quen” (Hêghen).
Hoàn cảnh điển hình là hoàn cảnh được tái hiện trong tác phẩm phản ánh được bản chất hoặc một vài nét bản chất trong cuộc sống với những quan niệm giai cấp cụ thể. Tính cách điển hình là con đẻ của hoàn cảnh điển hình, chịu sự tác động của hoàn cảnh điển hình.
- Chủ nghĩa lãng mạn xây dựng những tính cách phi thường trong những hoàn cảnh phi thường, tính cách không tồn tại trong những hoàn cảnh không tồn tại. Các nhà văn lãng mạn thường tìm kiếm những giá trị cao đẹp trong những cảnh đời tăm tối, tầm thường; khám phá cái cao cả trong những số phận bị ruồng bỏ, chà đạp. Trong Hai đứa trẻ, Thạch Lam xúc động, trân trọng cái khát vọng được đổi đời, được sống hạnh phúc hơn của những con người bé nhỏ bị lãng quên nơi phố huyện nghèo xưa. Nguyễn Tuân trong Chữ người tử tù tìm thấy sự tỏa sáng của nhân cách người tử tù nơi ngục thất tăm tối; sự vươn lên cái đẹp, cái thiên lương của một ngục quan, trong một nhà tù xã hội phong kiến xấu xa, suy tàn.
Nhân vật của văn xuôi lãng mạn hành động theo sự tưởng tượng chủ quan của nhà văn và trực tiếp thể hiện tư tưởng của tác giả. Liên và An tuy còn nhỏ nhưng phải thay mẹ trông coi một quán tạp hóa nhỏ để kiếm sống. Hàng đêm các em lại cố thức để đón chuyến tàu đêm đi qua phố huyện. Con tàu với những toa sang trọng, đèn sáng trưng chiếu sáng xuống mặt đường và tiếng còi rít lên rầm rộ như mang theo cả một thế giới khác đối lập với cái phố huyện tăm tối, tĩnh lặng. Nó như thắp lên trong tâm hồn của các em một niềm khát vọng dẫu mơ hồ nhưng thật xúc động, đáng trân trọng. Nhà văn muốn qua đó thể hiện khát vọng của những con người bé nhỏ bị lãng quên trong xã hội cũ…
Văn học lãng mạn là tự do biểu hiện tình cảm của cái tôi cá nhân, các nhà văn lãng mạn thường tuyệt đối hóa vai trò của cái tôi cá nhân, đặt chúng cao hơn thực tế khách đời sống để thể hiện tư tưởng của mình. Nhân vật trong Chữ người tử tù thể hiện quan điểm thẩm mĩ riêng của Nguyễn Tuân: Cái đẹp gắn với văn hóa dân tộc, gắn với cái thiện, có sức cảm hóa cái xấu, cái ác và cái đẹp luôn bất tử với đời.
- Nghệ thuật biểu hiện
1.Văn học hiện thực coi trọng sự chân thực của các chi tiết.
Chi tiết là đơn vị nhỏ nhất của sáng tác, là chất liệu xây dựng lên hình tượng văn học. Chi tiết có thể là một lời nói, một nét tính cách ngoại hình, một khâu trong quan hệ…
Chi tiết chân thực là chi tiết có thật hoặc có thể có tính thống nhất với hiện thực cuộc sống.
Vai trò của các chi tiết chân thực: mọi chi tiết đều có ý độc lập góp phần đan dệt nên những hình tượng sinh động, những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình.
- Văn học lãng mạn thường sử dụng thủ pháp tương phản, đối lập, thích khoa trương, phóng đại, sử dụng ngôn ngữ giàu sức biểu hiện cảm xúc.
Cảnh tượng cho chữ trong Chữ người tử tù là một đoạn văn giầu kịch tính, sử dụng thành công nghệ thuật đối lập, tương phản. Trước hết đó là sự đối lập tương phản về cảnh. Chơi chữ là một thú chơi tao nhã thường được diễn ra ở các thư phòng, lại được diễn ra tại phòng giam “chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Về thời gian: Cảnh cho chữ không diễn ra lúc thanh thiên bạch nhật mà được diễn ra lúc nửa đêm khi lính canh đã ngủ, đêm cuối cùng của tử tù Huấn Cao. Cả không gian và thời gian đều tăm tối. Tương phản với cái tăm tối, bẩn thỉu ấy là ánh sáng: ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu, là mầu trắng tinh của tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ, là mùi thơm của chậu mực bốc lên. Tuyệt vời hơn tương phản với cái tăm tối ấy của ngục thất là sự sáng tạo ra cái đẹp: cái đẹp của nghệ thuật, cái đẹp của tài năng, của dũng khí và nhân cách. Đó còn là sự tương phản về nhân vật: Vị thế và tư thế của các nhân vật trong cảnh cho chữ cũng có sự thay bậc, đổi ngôi. Huấn Cao là một người tù, “cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa bạch trắng tinh” nhưng phong thái ung dung, đĩnh đạc của một người tự do nhất, uy quyền nhất vì ông là người sáng tạo ra cái đẹp, tượng trưng cho cái đẹp và phẩm giá của con người. Huấn Cao đang viết những con chữ cuối cùng cho đời nhưng không phải đi vào cõi chết mà đi vào cõi bất tử bởi cái tài, khí phách và nhân cách của ông đang được người tôn kính, giữ gìn bằng tất cả thiên lương. Trái lại, viên quản ngục là người có uy quyền nhất đang “khúm núm” nhặt những đồng tiền kẽm đánh dấu ô cho Huấn Cao viết chữ. Đây không phải là cử chỉ sợ sệt luồn cúi mà là sự ngưỡng mộ, trân trọng những dòng chữ cuối cùng của Huấn Cao. Nhưng nét chữ vuông, tươi tắn nó nói nên cái hoài bão tung hoành của một đời con người, những nét chữ đó kết tinh tài năng, tâm huyết, vẻ đẹp của một con người mà ông từng ngưỡng mộ. Người nghệ sĩ tài hoa có thể bị hãm hại nhưng cái đẹp phi thường thì bất tử khi ở đời vẫn có thiên lương. Ánh sáng bó đuốc phải chăng là ánh sáng thiên lương mà người tử tù đang chiếu lên để lay tỉnh ngục quan. Chi tiết ngục quan khúm núm và ngục quan vái tử tù trong nước mắt nghẹn ngào “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”, đây là cái vái lạy trước một nhân cách hiếm có cùng với lời thề danh dự. Có thể khi Huấn Cao bị giải vào kinh chịu án chém cũng là lúc viên quản ngục trả áo mũ để về quê để giữ thiên lương cho lành vững bởi con người chỉ xứng đáng được thưởng thức cái đẹp khi giữ được thiên lương. Bên cạnh đó, những từ ngữ Hán-Việt cổ kính như thiên lương, bức châm, bái lĩnh được sử dụng nhuần nhuyễn vừa phù hợp với không khí, cảnh tượng vừa góp phần tạo nên sự thiêng hóa nhân vật theo bút pháp lãng mạn.
- Bài tập vận dụng
- Một số đề bài tham khảo
Đề 1: Sự đan xen của các yếu tố hiện thực và thi vị, trữ tình trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
Đề 2: Phân tích đối sánh hai tác phẩm Đời thừa (Nam Cao) và Hai đứa trẻ (Thạch Lam) để thấy sự khác biệt về khuynh hướng văn học.
Đề 3: Vẻ đẹp lãng mạn của cái tôi trữ tình trong hai thi phẩm Vội vàng (Xuân Diệu) và Từ ấy (Tố Hữu).
Đề 4: Về việc sử dụng thủ pháp tương phản đối lập trong truyện ngắn Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) và đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (Trích Số đỏ – Vũ Trọng Phụng).
Đề 5: Cảm nhận về hai chi tiết: giọt nước mắt của chàng sinh viên Raxtinhăc (Đám tang lão Gôrio – Banzac) và nụ cười trên khuôn mặt của Phăngtin (Người cầm quyền khôi phục uy quyền – Huygo)
- Gợi ý làm bài
Đề 2: Phân tích đối sánh hai tác phẩm Đời thừa – Nam Cao và Hai đứa trẻ – Thạch Lam để thấy sự khác biệt về khuynh hướng văn học.
- Đề tài, chủ đề, cảm hứng chủ đạo
* Hai đứa trẻ: Thông qua bức tranh phố huyện, tác giả muốn nói lên ý thức về cuộc sống nghèo nàn quẩn quanh và ước mơ vượt thoát lên cảnh sống đó.
– Bức tranh từ chiều đến đêm được miêu tả qua cảm nhận của Liên, mang đậm yếu tố chủ quan. Từ đó nảy sinh ra ý thức về cuộc sống, những mơ ước về một cuộc sống đổi thay. Sự ý thức ở đây không thiên về đời sống vật chất mà chủ yếu ở sự đơn điệu, cằn cỗi, mòn mòi của đời sống tinh thần.
– Nhà văn đánh thức ở con người những khát vọng, mơ ước về một cảnh sống ý nghĩa hơn. Khát vọng chủ yếu được nhìn ở phương diện tinh thần, mơ ước về một điều gì tươi sáng, vui vẻ hơn, dấu ấn của văn phong lãng mạn Thạch Lam.
* Đời thừa: Thông qua khung cảnh sinh hoạt và những bi kịch của người trí thức, nhà văn muốn nói lên tình trạng tha hóa của người trí thức trong xã hội cũ.
– Từ việc nêu ra tình trạng tha hóa của người trí thức tiểu tư sản đương thời, tác giả đi sâu vào thế giới tâm lý, tâm trạng, những giằng xé nội tâm của nhân vật ở cả hai phương diện: nghề nghiệp và lẽ sống.
– Hiện thực mà Nam Cao miêu tả là hiện thực của tâm lý, tâm trạng, bi kịch có tính chất phổ biến của những người trí thức đương thời, tâm trạng tha hóa phổ biến của người trí thức.
– Nhà văn có khuynh hướng cắt nghĩa, lý giải và nêu ra quy luật của hiện thực khách quan: “khốn nạn” không phải bản chất của nhân vật Hộ mà là tác động của hoàn cảnh bất hạnh, phi lý, bóp nghẹt con người. Đó là cả một quá trình. Qua đó, Nam Cao muốn nêu một quy luật: người trí thức khi bị đẩy vào tình trạng tha hóa, dù có cố gắng thế nào đi nữa cũng không thể chống lại hoàn cảnh nếu môi trường xã hội không thay đổi.
- Hình tượng nhân vật
– Điểm tương đồng: Nhân vật đều có hình bóng tác giả, đó là một mẩu hồi ức thời ấu thơ, hay bóng dáng một người trí thức trung thực, luôn có xu hướng tự phán xét bản thân.
– Nét khác biệt: Trong Hai đứa trẻ, nhân vật được khắc họa còn nguyên dấu ấn chủ quan của nhà văn, người đọc tưởng như được tiếp xúc với cái tôi của nhà văn Thạch Lam.
Trong Đời thừa, Hộ dù mang dấu ấn tự truyện nhưng nguyên mẫu đó được xử lý theo kiểu khách quan hóa, xây dựng nhân vật có tính cách điển hình. Thông qua cái cá biệt thấy được cái chung, phổ biến. Thông qua nhân vật Hộ, ta thấy được bao nhiêu bi kịch của người trí thức đương thời.
+ Nhân vật Liên: Chú ý đến những cảm giác, tâm trạng của nhân vật (rất mong manh, mơ hồ, tinh tế), cảm giác man mác buồn trước giờ khắc của ngày tàn, cảm giác tâm hồn yên tĩnh khi ngồi đợi chuyến tàu qua, hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một…
àVăn học lãng mạn thường miêu tả trạng thái có tính chất nhất thời, thoáng qua. Vì vậy, ta thường không thấy được mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh.
+ Nhân vật Hộ chủ yếu được khắc họa ở phương diện tâm lý.Tâm lý nhân vật Hộ thường được miêu tả như một quá trình, có những trạng thái xung đột, chuyển hóa và dẫn đến kết quả nào đó (từ thuần nhất đến phức tạp, giằng xé, đẩy nhân vật vào tình thế buộc phải lựa chọn)
à Khắc họa những quá trình tâm lý rất điển hình của người trí thức khi bị đẩy vào tình trạng tha hóa.
Sự tha hóa ở đây là tha hóa trong nhân cách, trong tâm hồn Hộ. Nó được nhà văn xem xét như một quá trình có tính chất biện chứng. Đó là sự tự ý thức của nhân vật Hộ vào sáng hôm sau. Nam Cao đã thấy được mối quan hệ giữa bi kịch tinh thần của Hộ với môi trường sống, hoàn cảnh sống của anh ta.
Dù vậy, con người luôn luôn có ý thức chống trả lại sự tha hóa bằng giọt nước mắt, những dằn vặt, đau đớn, thể hiện sự tự ý thức cao.
Cái cao đẹp trong nhân vật của Nam Cao chính là trong quá trình đấu tranh chống lại sự tha hóa, nhưng sự đấu tranh ấy chỉ chạm đến độ dấn sâu hơn vào bi kịch chứ không giúp anh ta thoát khỏi. Ở nền văn học hiện thực cách mạng sau đó, con người mới có thể tìm ra lối thoát.
àQuy luật khách quan của đời sống được các nhà văn hiện thực nhận thức thấm thía.
- Nghệ thuật biểu hiện
– Chi tiết:
+ Đời thừa: Chân thực hơn, như đời sống (VD: Từ muốn nói với Hộ nhưng không dám nói, Hộ tỉnh dậy vào sáng hôm sau…)
+ Hai đứa trẻ: Tạo ấn tượng về sự chân thực (VD: cảnh chợ vãn, những đứa trẻ nhặt nhạnh thanh nứa thanh tre, cảnh lên đèn, con tàu đi qua….) nhưng mang đậm dấu ấn chủ quan của nhân vật và cũng chính là của tác giả.
– Ngôn ngữ: Trần thuật trong Hai đứa trẻ giàu chất thơ, cách phối hợp miêu tả giữa đời sống con người và bức tranh thiên nhiên, những cảm nhận mơ hồ và cuộc sống trước mắt tạo chất thơ, chất trữ tình. Ngôn ngữ trong Đời thừa mang đậm chất suy tư, triết lý; bắt đầu từ một tình huống, một cảnh ngộ, một suy tư mà khái quát lên những quy luật của đời sống, những quy luật của tâm hồn.