Hướng dẫn ôn tập truyện ngắn Chí Phèo Nam Cao

Giữa mênh mông kiến thức, hầu như các bạn học sinh chưa xác định được trọng tâm ôn tập cho phần Nghị luận văn học lớp 11. Bài viết dưới đây khái quát những kiến thức cơ bản và hướng dẫn cách ôn tập truyện Chí Phèo SKG Ngữ văn 11.

Kiến thức cơ bản về tác phẩm Chí Phèo

 Giới thiệu tác giả và tác phẩm:
Nam Cao là cây bút hiện thực phê phán xuất sắc, là nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Sáng tác của ông chủ  yếu ở hai mảng đề tài : viết về người trí thức nghèo và về những người nông dân cùng khổ. Ở mảng đề tài viết về người nông dân, “Chí Phèo” là một kiệt tác. (Nêu vấn đề theo đề bài).
 Khái quát về tác phẩm:
Truyện ngắn “Chí Phèo” ra đời trước Cách mạng tháng Tám, ban đầu truyện có tên là “Cái lò gạch cũ”, khi in thành sách lần đầu, nhà xuất bản tự ý đổi thành “Đôi lứa xứng đôi”, sau này, khi in lại trong tập “Luống cày” (1946) nhà văn đổi lại thành “Chí Phèo”.
Truyện kể về nhân vật Chí Phèo. Thưở nhỏ, Chí bị cả cha lẫn mẹ bỏ rơi, sống bơ vơ bất hạnh. Lớn lên đi làm thuê cho nhà Bá Kiến, bị Bá Kiến ghen, đẩy vào tù. Khi ra tù, Chí thay đổi hẳn cả nhân hình lẫn nhân tính. Hắn trở thành tay sai của Bá Kiến, là con quỉ dữ của làng Vũ Đại. Rồi hắn gặp Thị Nở, một cô gái xấu “ma chê quỉ hờn”. Bát  cháo hành cùng với tình thương yêu, sự quan tâm chăm sóc của Thị đã thức tỉnh phần người bấy lâu nay bị vùi lấp sâu trong tâm hồn Chí. Chí Phèo ao ước được trở lại làm người lương thiện, hắn hi vọng rằng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Nhưng bà cô Thị ngăn cấm. Chí nhận ra bi kịch đau đớn : bị cự tuyệt quyền làm người. Chí bèn xách dao đến nhà Bá Kiến, kẻ đã gây ra bi kịch của hắn, giết chết Bá Kiến rồi tự vẫn.
Nội dung văn bản:
Theo chuẩn kiến thức – kĩ năng: Hình tượng nhân vật Chí Phèo; Gía trị tác phẩm (giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo).

Hình tượng nhân vật Chí Phèo

Phân tích đặc điểm nhân vật:
Chí Phèo – người nông dân lương thiện: có một hoàn cảnh riêng đặc biệt (Vừa sinh ra, Chí đã bị người ta vứt bỏ không thương tiếc. “Một anh đi thả ống lươn, một buổi sáng tinh sương, nhặt được Chí trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp bên cái lò gạch cũ bỏ không”. Rồi khi được đưa về làng, số phận của Chí lại như một đồ vật, bị người ta chuyền tay nhau. Anh đi thả ống lươn đem về cho bà góa mù nuôi, được vài năm, bà góa mù đem bán hắn cho một bác Phó Cối trong làng. Khi bác Phó qua đời, hắn bơ vơ, không nơi nương tựa, hông nhà cửa, không gia đình, không người thân thích chăm sóc), nhưng vẫn có nét chung của những người nông dân lao động (chăm chỉ : tự nuôi bản thân mình bằng cách đi làm thuê, làm mướn; trong sáng, giàu tự trọng : khi làm thuê cho nhà Lí Kiến, bị bà bà gọi làm việc không chính đáng, Chí Phèo thấy “nhục hơn là thích”; có những ước mơ thật giản dị: có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải…)
Chí Phèo – thằng lưu manh, “con quỷ dữ” : Bá Kiến ghen vu vơ đã nhẫn tâm đẩy Chí Phèo vào tù, nhẫn tâm biến người dân hiền lành trở thành tù nhân. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cường hào, bắt giam là anh Chí vô tội nhưng thả ra là một Chí Phèo lưu manh, tha hóa. Sau bảy, tám năm ở tù, Chí Phèo trở về thì thay đổi hẳn cả nhân hình lẫn nhân tính. “Ban đầu, không ai nhận ra hắn”: “cái đầu cạo trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm, ngực và cánh tay chạm trổ đầy những rồng, phượng với hình một ông tướng cầm chùy…”. Sự biến đổi nhân hình của Chí còn thể hiện ở khuôn mặt hắn sau một thời gian sống ở làng: “cái mặt hắn bây giờ không còn là cái mặt người nữa, nó là mặt của một con vật lạ. Nó vằn lên không biết bao nhiêu là sẹo, không thứ tự”. Tuy nhiên, cái biến đổi đáng sợ hơn ở Chí là sự biến đổi nhân tính. Trở về làng, không gia đình, không người thân thích, không nơi nương tựa, không nghề nghiệp mưu sinh, hắn trở thành tay sai của Bá Kiến.  Hắn sống bằng chửi bới, dọa nạt, đập đầu, rạch mặt ăn vạ. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, tác oai tác quái gây họa cho bao nhiêu dân làng. Hắn “phá tan bao nhiêu cơ nghiệp, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của không biết bao nhiêu là người lương thiện”. Người ta thấy hắn “triền miên trong những cơn say”. “Hắn ăn trong lúc say, dọa nạt chửi bới trong lúc say, đập đầu rạch mặt trong cơn say, ngủ trong lúc say, tỉnh dậy vẫn còn say, lại uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say mãi, say vô tận”. Cuộc đời hắn lúc này là một chuỗi dài của sự vô thức, hắn không còn biết đến thời gian, không biết đến những gì đang xẩy ra quanh hắn. Ý thức của hắn đã bị tê liệt hoàn toàn. Hắn chỉ biết uống rượu rồi chửi đổng. Lúc nào người ta cũng thấy Chí ngật ngưỡng “vừa đi vừa chửi”. Người nông dân Chí Phèo lương thiện, hiền lành trước đây đã bị nhà tù thực dân cùng với tầng lớp thống trị phong kiến biến thành con quỷ dữ. Dân làng Vũ Đại ai cũng ghê sợ, xa lánh hắn. Dần dần, hắn không được coi là con người nữa. Không một ai giao tiếp với Chí, dù chỉ là một tiếng chửi.
Chí Phèo – bi kịch của người sinh ra là người nhưng không được làm người : cuộc gặp gỡ với Thị Nở và sự yêu thương chăm sóc chân thành của thị đã đánh thức dậy tính người trong Chí. Hắn muốn làm người lương thiện, muốn làm hòa với mọi người. Bị thị Nở từ chối, Chí rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, bị dồn đến đường cùng. Trong cơn phẫn uất, tuyệt vọng, Chí Phèo đã giết bá Kiến rồi tự sát. Cái chết ấy cho thấy niềm khao khát cháy bỏng được sống lương thiện của Chí Phèo và có sức tố cáo mãnh liệt xã hội thuộc địa phong kiến.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
          “Chí Phèo” là  minh chứng tiêu biểu nhất cho tài năng truyện ngắn Nam Cao. Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, nhà văn tố cáo sâu sắc xã hội thực dân nửa phong kiến phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống của con người, đẩy con người vào “bước đường cùng”. Kết cấu truyện theo kiểu tâm lí, không theo thứ tự thời gian mà bắt đầu truyện bằng tiếng chửi đổng của Chí vừa gây sự chú ý, tò mò cho người đọc, vừa nhấn mạnh cái bi kịch đau đớn của Chí. Đồng thời, lời văn kể chuyện nửa trực tiếp cũng góp phần tạo nên sự hấp dẫn của câu chuyện: trong tác phẩm, có đoạn là lời người kể chuyện hoàn toàn; cũng có đoạn nhà văn như hóa thân vào nhân vật, làm cho đoạn văn như là lời của chính nhân vật tự kể chuyện mình khiến người đọc thực sự khám phá được chiều sâu tâm hồn nhân vật. “Đôi mắt” đầy tình người của Nam Cao cùng với tài năng nghệ thuật của ông đã đưa “Chí Phèo” vào hàng những kiệt tác văn xuôi hiện đại.
Kết luận :
Xây dựng thành công hình tượng nhân vật Chí Phèo, Nam Cao vừa tố cáo sâu sắc xã hội phi nhân tính vừa thể hiện tấm lòng thương yêu đồng cảm của mình với người nông dân đương thời. Với “Chí Phèo”, Nam Cao đã khắc tên mình vào nền văn học hiện đại Việt Nam.
Gíá trị tác phẩm
– Gía trị hiện thực : phản ánh tình trạng một bộ phận nông dân bị tha hóa; mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ, giữa các thế lực ác bá ở địa phương.
– Gía trị nhân đạo : cảm thương sâu sắc trước cảnh người nông dân cố cùng bị lăng nhục; phát hiện và miêu tả phẩm chất tốt đẹp của người nông dân ngay khi tưởng như họ bị biến thành thú dữ; thể hiện niềm tin tưởng vào bản chất lương thiện của con người.
*
Nghệ thuật truyện :
Xây dựng những nhân vật điển hình vừa có ý nghĩa tiêu biểu vừa sống động, có cá tính độc đáo và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo.
Kết cấu truyện mới mẻ, tưởng như tự do nhưng lại rất chặt chẽ, lô ghích.
Cốt truyện và các tình tiết hấp dẫn, biến hóa giàu kịch tính.
Ngôn ngữ sống động, vừa điêu luyện lại vừa gần gũi, tự nhiên; giọng điệu đan xen biến hóa, trần thuật linh hoạt.
Ý nghĩa văn bản :
Chí Phèo tố cáo mạnh mẽ xã hội thuộc địa phong kiến tàn bạo cướp đi cả nhân hình và nhân tính của người nông dân lương thiện đồng thời nhà văn phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp của con người ngay cả khi tưởng như họ đã bị biến thành quỷ dữ.

Một số đề luyện tập

Dựa vào kiến thức cơ bản và phương pháp làm bài nghị luận văn học về tác phẩm, đoạn trích văn xuôi, học sinh luyện tập với các đề văn sau :
Đề 1. Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn “Chí Phèo” của nhà văn Nam Cao.
Đề 2. Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo từ sau khi gặp thị Nở trong truyện ngắn “Chí Phèo” của nhà văn Nam Cao.
Đề 3. Phân tích quá trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn “Chí Phèo” của nhà văn Nam Cao.
Hướng dẫn luyện tập đề 1 :
Tìm hiểu đề
Dạng đề : Phân tích một vấn đề (bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người) trong tác phẩm truyện.
Yêu cầu của đề :
Yêu cầu về nội dung : Làm nổi bật bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo..
Yêu cầu về thao tác : Phân tích là thao tác chính, cần kết hợp các thao tác khác như: chứng minh, bình luận, so sánh…
Yêu cầu về tư liệu : Dẫn chứng là những từ ngữ, câu văn, chi tiết tiêu biểu ở văn bản trong sách giáo khoa Ngữ văn 11.
Lập dàn ý
Mở bài : Giới thiệu tác giả Nam Cao, dẫn vào truyện ngắn “Chí Phèo”. Nêu vấn đề : Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Chí Phèo với bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.
Thân bài :
Khái quát : Nêu xuất xứ, thời gian sáng tác, tóm tắt truyện.
Phân tích :
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người trước hết thể hiện trong tiếng chửi của Chí Phèo ngay đầu tác phẩm.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người được bắt đầu ngay từ khi Chí sinh ra..
Bà cô Thị Nở – đại diện của dân làng Vũ Đại và hành động ngăn cấm cô cháu gái của bà đến với Chí Phèo cũng là một biểu hiện của bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.
Lời nói và hành động của Chí cuối tác phẩm là minh chứng tiêu biểu nhất cho bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Xây dựng những nhân vật điển hình vừa có ý nghĩa tiêu biểu vừa sống động, có cá tính độc đáo và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo.
Kết cấu truyện mới mẻ, tưởng như tự do nhưng lại rất chặt chẽ, lô ghích.
Cốt truyện và các tình tiết hấp dẫn, biến hóa giàu kịch tính.
Ngôn ngữ sống động, vừa điêu luyện lại vừa gần gũi, tự nhiên; giọng điệu đan xen biến hóa, trần thuật linh hoạt.
Kết bài :
Kết luận chung về bi kịch của Chí Phèo. Ý nghĩa của bi kịch.
Cảm nghĩ về tác giả.

Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người

Bài làm
Nam Cao là cây bút hiện thực phê phán xuất sắc, là nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Sáng tác của ông chủ  yếu ở hai mảng đề tài : viết về người trí thức nghèo và về những người nông dân cùng khổ. Ở mảng đề tài viết về người nông dân, “Chí Phèo” là một kiệt tác. Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Chí Phèo với bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Đây là bi kịch phản ánh sâu sắc nỗi thống khổ của Chí Phèo nói riêng, của người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám nói chung.
Truyện ngắn “Chí Phèo” ra đời trước Cách mạng tháng Tám. Ban đầu truyện có tên là “Cái lò gạch cũ”, khi in thành sách lần đầu, nhà xuất bản tự ý đổi thành “Đôi lứa xứng đôi”, sau này, khi in lại trong tập “Luống cày” (1946) nhà văn đổi lại thành “Chí Phèo”.
Truyện kể về nhân vật Chí Phèo. Thưở nhỏ, Chí bị cả cha lẫn mẹ bỏ rơi, sống bơ vơ bất hạnh. Lớn lên đi làm thuê cho nhà Bá Kiến, bị Bá Kiến ghen, đẩy vào tù. Khi ra tù, Chí thay đổi hẳn cả nhân hình lẫn nhân tính. Hắn trở thành tay sai của Bá Kiến, là con quỉ dữ của làng Vũ Đại. Rồi hắn gặp Thị Nở, một cô gái xấu “ma chê quỉ hờn”. Bát  cháo hành cùng với tình thương yêu, sự quan tâm chăm sóc của Thị đã thức tỉnh phần người bấy lâu nay bị vùi lấp sâu trong tâm hồn Chí. Chí Phèo ao ước được trở lại làm người lương thiện, hắn hi vọng rằng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Nhưng bà cô Thị ngăn cấm. Chí nhận ra bi kịch đau đớn : bị cự tuyệt quyền làm người. Chí bèn xách dao đến nhà Bá Kiến, kẻ đã gây ra bi kịch của hắn, giết chết Bá Kiến rồi tự vẫn.
Bi kịch vốn được hiểu là những khát vọng chân chính, cháy bỏng, mãnh liệt của một con người nhưng không có điều kiện thực hiện trên thực tế, cuối cùng người mang khát vọng bị rơi vào kết cục của một thảm kịch bi thương. Chí Phèo suốt đời mang khát vọng cháy bỏng được làm người lương thiện thế nhưng lại trở thành kẻ bất lương, sinh ra là người nhưng không được làm người để rồi chết trên con đường trở về lương thiện.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người trước hết thể hiện trong tiếng chửi của Chí Phèo ngay đầu tác phẩm. Bước vào câu chuyện, người đọc ấn tượng ngay với hình ảnh một thằng say “vừa đi vừa chửi”: “Hắn chửi trời…Rồi hắn chửi đời…chửi cả làng Vũ Đại…chửi đứa nào không chửi nhau với hắn…chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn…”. Mới đọc, ai cũng hình dung ra hình ảnh Chí Phèo ngật ngưỡng trong cơn say, bước đi liêu xiêu và lè bè chửi; và chắc rằng ai cũng cảm thấy bật cười trước hình dung này. Tuy nhiên, đọc và ngẫm cho kĩ, sau cái cười lại là niềm thương cảm, đau đớn cho Chí Phèo. Hắn chửi và mong người ta đáp chửi lại hắn bởi như thế người ta còn coi  hắn là con người. Nhưng không ai lên tiếng vì không còn ai công nhận hắn là người. Đằng sau tiếng chửi ấy là nỗi khao khát được giao tiếp với đồng loại dẫu bằng hình thức tồi tệ nhất, là nỗi cô đơn khủng khiếp của  một người  bị xã hội dứt khoát cự tuyệt quyền làm người, không được coi là con người .
Từ cách mở đầu ấn tượng đó, Nam Cao dẫn dắt người đọc trở lại với quá khứ, giúp người đọc nhận thấy bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí , đồng thời hiểu ra căn nguyên nào đẫn đến tình trạng ấy.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người được bắt đầu ngay từ khi Chí sinh ra.. Sinh ra, Chí đã bị ba mẹ cự tuyệt quyền làm người: sự ra đời của nó không ai chờ đợi, cha nó không thừa nhận, mẹ nó bỏ nó trong một lò gạch hoang mặc cho sống chết. Được cứu sống nhưng ngay lập tức hắn trở thành hàng hóa mua qua bán lại. Sau khi bác phó cối chêtt, hắn trở thành kẻ bơ vơ. Đời Chí bọt bèo , lênh đênh tội nghiệp chẳng khác nào cây hoang, cỏ dại trôi hết góc này đến xó nọ, không người chăm sóc, dạy dỗ. Nhưng không vì thế mà hắn trở nên hư hỏng mà trái lại, “hắn hiền như cục đất”, ai sai gì hắn làm nấy, ai bảo gì hắn nghe vậy. Làm thuê trong nhà Bá Kiến, hắn là anh canh điền chăm chỉ, cần cù, chỉ biết làm ăn, biết tự trọng, có nhân cách.
Nhưng Bá Kiến, nhà tù thực dân đã ra sức hủy diệt  sự lương thiện ở Chí. Bá Kiến ghen vu vơ đã nhẫn tâm đẩy Chí Phèo vào tù, nhẫn tâm biến người dân hiền lành trở thành tù nhân. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cường hào, bắt giam là anh Chí vô tội nhưng thả ra là một Chí Phèo lưu manh, tha hóa. Trở về, không gia đình, không người thân thích, không nơi nương tựa, không nghề nghiệp mưu sinh, hắn trở thành tay sai của Bá Kiến.  Hắn sống bằng chửi bới, dọa nạt, đập đầu, rạch mặt, ăn vạ. Cái mặt của hăn trở nên méo mó thê thảm, “nó là mặt của một con vật lạ, nó vằn lên không biết bao nhiêu là sẹo, không thứ tự”. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, tác oai tác quái gây họa cho bao nhiêu dân làng. Hắn “phá tan bao nhiêu cơ nghiệp, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của không biết bao nhiêu là người lương thiện”. Bây giờ hắn không là con người nữa mà phải sống kiếp con vật, hắn sống trong vô thức, sống triền miên những cơn say. Sự thay đổi đáng sợ của Chí từ khi ra tù có nguyên nhân ban đầu là bởi sự xa lánh của mọi người khi hắn trở về. Nếu như, khi về làng, hắn có được tình yêu thương chăm sóc của một số người, thậm chí chỉ là một người như Thị Nở, thì hắn đã không bị bóp méo cả nhân hình lẫn nhân tính. Thực tế không như thế. Người ta kì thị trước một kẻ đi tù về, không ai cho hắn một nguồn giao tiếp, không ai coi hắn là con người nên hắn cứ phải say, phải chửi cho quên hết. Lâu dần, người ta lại không coi hắn là con người nữa, hắn làm tay sai cho Bá Kiến để rồi ngày càng sa vào vũng lầy tội ác và không thể trở lại làm người nữa.
Bà cô Thị Nở – đại diện của dân làng Vũ Đại  và hành động ngăn cấm cô cháu gái của bà đến với Chí Phèo cũng là một biểu hiện của bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Từ khi gặp Thị Nở, Chí Phèo bắt đầu tỉnh táo. Tình yêu và sự chăm sóc của thị đã đánh thức phần người lương thiện bấy lâu nay bị vùi lấp sâu trong hình hài con quỉ dữ. Hắn “thèm được sống lương thiện, thèm được làm hòa với mọi người”. Hắn hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn, bởi hắn nghĩ rằng, Thị Nở có thể sống được với hắn thì tại sao mọi người lại không thể. Thế nhưng, bà cô Thị Nở – một đại diện của dân làng Vũ Đại – đã dập tắt ngay niềm hi vọng ấy. Sự ngân cấm của bà cô khiến hắn bừng tỉnh nhận ra bi kịch đau đớn mà bấy lâu nay hắn đã mơ hồ nhận thấy: bị cự tuyệt quyền làm người. Lời bà cô Thị Nở làm hắn nhận ra những định kiến khắt khe của xã hội với hắn. Định kiến xã hội đã không coi Chí như là con người, nó chối phắt Chí, đẩy Chí ra khỏi phạm vi loài người. Định kiến ấy không chịu nhận ra phần người lương thiện đã quay về, không chịu chấp nhận một kẻ như Chí. Có thể khẳng định rằng, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người lần này là đau đớn nhất.
Lời nói và hành động của Chí cuối tác phẩm là minh chứng tiêu biểu nhất cho bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo. Bà cô Thị Nở làm hắn nhận ra bi kịch đau đớn của cuộc đời mình, hắn lại uống rượu, nhưng lần này càng uống hắn càng tỉnh. Hắn xách dao ra đi, vừa đi vừa chửi “giết cả nhà nó”, “giết con khọm già nhà nó”, nhưng bước chân hắn lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến. Có lẽ, khi phần người quay về thì nỗi đau, nỗi phẫn uất khiến lí trí hắn tỉnh táo, hắn nhận ra kẻ thù. Đến nhà  Bá Kiến, hắn lên tiếng đòi lương thiện thống thiết.  Tuy lên tiếng đòi lương thiện nhưng đồng thời Chí cũng đau đớn nhận ra không thể là người lương thiện được nữa: “ai cho tao lương thiện, làm thế nào cho mất hết những vết mảnh chai trên mặt này”. Nhận thức được bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người và nguyên nhân của bi kịch, Chí hành động quyết liệt: giết Bá Kiến. Giết lão bá rồi, Chí cũng không còn có thể sống mà làm người được, bây giờ, nếu Chí tiếp tục sống, hắn sẽ phải tiếp tục là con quỷ, hắn “chỉ còn một cách” là tự vẫn. Hai vũng máu thảm khốc cuối tác phẩm chính là lời tố cáo sâu sắc nhất chế độ nhà tù thực dân và tầng lớp thống trị phong kiến. Những thế lực này đẩy Chí vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, và cùng với thế lực hủ tục phong kiến tước đoạt hẳn con đường trở về làm người của Chí.
“Chí Phèo” là  minh chứng tiêu biểu nhất cho tài năng truyện ngắn Nam Cao. Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, nhà văn tố cáo sâu sắc xã hội thực dân nửa phong kiến phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống của con người, đẩy con người vào “bước đường cùng”. Kết cấu truyện theo kiểu tâm lí, không theo thứ tự thời gian mà bắt đầu truyện bằng tiếng chửi đổng của Chí vừa gây sự chú ý, tò mò cho người đọc, vừa nhấn mạnh cái bi kịch đau đớn của Chí. Đồng thời, lời văn kể chuyện nửa trực tiếp cũng góp phần tạo nên sự hấp dẫn của câu chuyện: trong tác phẩm, có đoạn là lời người kể chuyện hoàn toàn; cũng có đoạn nhà văn như hóa thân vào nhân vật, làm cho đoạn văn như là lời của chính nhân vật tự kể chuyện mình khiến người đọc thực sự khám phá được chiều sâu tâm hồn nhân vật. “Đôi mắt” đầy tình người của Nam Cao cùng với tài năng nghệ thuật của ông đã đưa “Chí Phèo” vào hàng những kiệt tác văn xuôi hiện đại.
Xây dựng thành công hình tượng nhân vật Chí Phèo và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí, Nam Cao vừa tố cáo sâu sắc xã hội phi nhân tính vừa thể hiện tấm lòng thương yêu đồng cảm của mình với người nông dân đương thời. Với “Chí Phèo”, Nam Cao đã khắc tên mình vào nền văn học hiện đại Việt Nam.
Hướng dẫn luyện tập đề 2 :
Tìm hiểu đề
Dạng đề : Phân tích một vấn đề (diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở) trong tác phẩm truyện.
Yêu cầu của đề :
Yêu cầu về nội dung : Làm nổi bật diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở.
Yêu cầu về thao tác : Phân tích là thao tác chính, cần kết hợp các thao tác khác như: chứng minh, bình luận, so sánh…
Yêu cầu về tư liệu : Dẫn chứng là những từ ngữ, câu văn, chi tiết tiêu biểu ở văn bản trong sách giáo khoa Ngữ văn 11.
Lập dàn ý
Mở bài : Giới thiệu tác giả Nam Cao, dẫn vào truyện ngắn “Chí Phèo”. Nêu vấn đề : Trong tác phẩm này, nhà văn đã miêu tả sâu sắc diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở.
Thân bài :
Khái quát : Nêu xuất xứ, thời gian sáng tác, tóm tắt truyện.
Phân tích :
Tâm trạng của Chí Phèo khi hắn vừa tỉnh dậy, thị Nở chưa đến : bắt đầu có những cảm giác của một con người. Phần người trong Chí Phèo đang dần dần hồi sinh.
Tâm trạng của Chí Phèo từ khi thị Nở đến, mang theo nồi cháo hành : Chí Phèo có những cảm giác của một người bình thường. Hắn thèm lương thiện, muốn được làm hòa với mọi người, hi vọng được mọi người đón nhận trở về giữa những người thân thiện.
Tâm trạng của Chí Phèo từ khi bị thị Nở từ chối : rơi vào bi kịch không lối thoát; trả thù : giết bá Kiến; tự vẫn để kết thúc bi kịch.
Nghệ thuật miêu tả tâm trạng :
Xây dựng những nhân vật điển hình vừa có ý nghĩa tiêu biểu vừa sống động, có cá tính độc đáo và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo.
Kết cấu truyện mới mẻ, tưởng như tự do nhưng lại rất chặt chẽ, lô ghích.
Cốt truyện và các tình tiết hấp dẫn, biến hóa giàu kịch tính.
Ngôn ngữ sống động, vừa điêu luyện lại vừa gần gũi, tự nhiên; giọng điệu đan xen biến hóa, trần thuật linh hoạt.
Kết bài :
Kết luận chung về bi kịch của Chí Phèo. Ý nghĩa của bi kịch.
Cảm nghĩ về tác giả.
Bài viết
Nam Cao là cây bút hiện thực phê phán xuất sắc, là nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Sáng tác của ông chủ  yếu ở hai mảng đề tài : viết về người trí thức nghèo và về những người nông dân cùng khổ. Ở mảng đề tài viết về người nông dân, “Chí Phèo” là một kiệt tác. Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Chí Phèo, ông đặc biệt khắc họa rõ nét diễn biến tâm trạng của nhân vật này từ sau khi gặp Thị Nở. Đây là một thành công đáng kể của tác giả trong truyện ngắn này.
Truyện ngắn “Chí Phèo” ra đời trước Cách mạng tháng Tám. Ban đầu truyện có tên là “Cái lò gạch cũ”, khi in thành sách lần đầu, nhà xuất bản tự ý đổi thành “Đôi lứa xứng đôi”, sau này, khi in lại trong tập “Luống cày” (1946) nhà văn đổi lại thành “Chí Phèo”.
Truyện kể về nhân vật Chí Phèo. Thưở nhỏ, Chí bị cả cha lẫn mẹ bỏ rơi, sống bơ vơ bất hạnh. Lớn lên đi làm thuê cho nhà Bá Kiến, bị Bá Kiến ghen, đẩy vào tù. Khi ra tù, Chí thay đổi hẳn cả nhân hình lẫn nhân tính. Hắn trở thành tay sai của Bá Kiến, là con quỉ dữ của làng Vũ Đại. Rồi hắn gặp Thị Nở, một cô gái xấu “ma chê quỉ hờn”. Bát  cháo hành cùng với tình thương yêu, sự quan tâm chăm sóc của Thị đã thức tỉnh phần người bấy lâu nay bị vùi lấp sâu trong tâm hồn Chí. Chí Phèo ao ước được trở lại làm người lương thiện, hắn hi vọng rằng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Nhưng bà cô Thị ngăn cấm. Chí nhận ra bi kịch đau đớn : bị cự tuyệt quyền làm người. Chí bèn xách dao đến nhà Bá Kiến, kẻ đã gây ra bi kịch của hắn, giết chết Bá Kiến rồi tự vẫn.
Trước cuộc gặp gỡ đầy tình cờ với thị Nở trong đêm trăng ở vườn chuối cạnh bờ sông, Chí Phèo là một “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại. Hắn triền miên trong những cơn say dài bất tận và sống trong tình trạng vô thức. Sau cái đêm định mệnh ấy, cuộc đời Chí Phèo tưởng như được lật sang một trang mới. Sáng sớm hôm sau, hắn tỉnh dậy. Hắn bắt đầu cảm nhận được cuộc sống xung quanh mình và có những cảm xúc của một con người. Lần đầu tiên từ khi ra tù, Chí Phèo tỉnh rượu và có cái cảm giác “miệng đắng, lòng mơ hồ buồn”. Lần đầu tiên, Chí Phèo nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống hằng ngày xung quanh hắn : “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá”, “tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”, tiếng trò chuyện của những người đi chợ về…Những âm thanh ấy đã gợi nhớ trong hắn ước mơ giản dị từ thuở xa xưa : “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”. Qúa khứ tuy nghèo khổ ấy nay với Chí cũng là một điều thực xa vời. Thực tại giờ đây của hắn là “già mà vẫn còn cô độc”. Điều ấy khiến hắn buồn và lo lắng cho tương lai : đói rét, ốm đau và cô độc sẽ đày đọa hắn khi về già. Và hắn sợ nhất là cô độc. Một kẻ chỉ biết sống bằng giật cướp và dọa nạt, một kẻ đã làm đổ máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện, vậy mà giờ đây cũng biết sợ, mà lại sợ nhất là cô độc. Hình như, bản chất người trong hắn đang mơ hồ tỉnh dậy.
Hắn đang nghĩ vu vơ thì thị Nở đến, mang theo một nồi cháo hành còn nóng nguyên. Đầu tiên, Chí Phèo “rất ngạc nhiên”. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy “mắt hình như ươn ướt”. Con quỷ dữ Chí Phèo đã biết khóc. Hắn cảm động đến như vậy là bởi đây là lần đầu tiên hắn được người ta cho, xưa nay, muốn có cái gì, hắn phải giật cướp và dọa nạt. Hắn nhìn bát cháo bốc khói mà lòng “bâng khuâng”, rồi hắn nhìn thị Nở đang cười toe toét mà cảm thấy thị “có duyên”. Có cái gì đó đang trỗi dậy trong lòng Chí Phèo, phải chăng đó là tình yêu ? Có thế thì mới nhìn một người đàn bà “ma chê quỷ hờn” thành ra “có duyên” chứ ! Rồi thì hắn thấy “vừa vui vừa buồn” và “một cái gì nữa giống như là ăn năn”. Chí vui bởi vẫn đang còn một người quan tâm đến hắn. Chí buồn và ăn năn bởi tội ác mình gây ra quá nhiều, con đường trở về làm một người bình thường của hắn có lẽ là sẽ lắm chông gai. Đưa bát cháo lên miệng, Chí Phèo thấy cháo “mới thơm làm sao” và húp một húp, Chí cảm thấy “cháo hành ăn rất ngon”. Cháo hành vốn là thứ quê mùa, không phải cao lương mĩ vị gì, lại được nấu bởi bàn tay của một người “dở hơi” thì chắc là dở lắm; thế mà với Chí Phèo thì nó thật ngon. Bát cháo từ tay người đàn bà là thị Nở ấy làm Chí Phèo nhớ về bà Ba vợ Bá Kiến. Chí Phèo thừa hiểu, “cái con quỷ cái” ấy chỉ lợi dụng hắn chứ yêu đương gì. Hắn chưa bao giờ được một người đàn bà nào yêu cả. Bởi vậy, bát cháo hành của Thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Ngồi ăn cháo hành cạnh thị Nở, hắn thấy “lòng thành trẻ con”, “hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ”. Ngòi bút Nam Cao thật sắc sảo và tràn đầy tình thương khi miêu tả tinh tế diễn biến tâm trạng của Chí. Ông nhận ra phần người không bao giờ mất trong hình hài con quỷ dữ Chí Phèo. Phần người ấy đã hoàn toàn trở về với Chí và khiến hắn “thèm lương thiện”, hắn muốn “làm hòa” với mọi người biết bao. Hắn hi vọng thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Hắn hi vọng tràn trề “họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Niềm hi vọng được làm người lương thiện làm Chí Phèo thấy “lòng rất vui”. Chí thấy mình và thị Nở sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi, và quyết định lấy thị. Năm ngày sau đó là năm ngày hạnh phúc nhất cuộc đời Chí Phèo. Hắn và thị Nở sống với nhau như vợ chồng. Hắn đã không còn kinh rượu nữa nhưng cố uống cho thật ít để tỉnh táo. Bây giờ hắn “say” thị Nở chứ không còn say rượu. Bây giờ, hắn là con người chứ không còn là “con quỷ”.
Thế nhưng, năm ngày ấy thật ngắn ngủi. Đến ngày thứ sáu thì thị Nở nhớ ra thị đang còn một bà cô đi làm ăn xa sẽ về trong ngày hôm ấy. Thị phải dừng yêu để về nhà hỏi cô thị đã. Thị trở về nhà rồi quay lại nhà Chí Phèo với cơn tức giận sau những lời xỉa xói đay nghiến của bà cô. Thị tới và “trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô”. Nghe những lời ấy, Chí Phèo “nghĩ ngợi một tí rồi hình như hiểu”. Đầu óc bị tê liệt bấy lâu của hắn phải nghĩ ngợi một tí rồi mới “hiểu” được những lời của bà cô thị Nở. Hắn hiểu một cách sâu sắc về những lời ấy. Hắn hiểu rằng không còn ai coi hắn là con người nữa. Một người cuối cùng mà hắn hi vọng nhất cũng đã từ chối hắn. Hắn hiểu ra rằng người ta không chấp nhận hắn trở lại làm người lương thiện. Đó là bi kịch đau đớn của cuộc đời hắn : bị cự tuyệt quyền làm người. Nhận ra bi kịch thê thảm ấy, Chí Phèo lại uống rượu. Nhưng bây giờ, càng uống, hắn “càng tỉnh ra” và lại càng “buồn” hơn. Hắn cứ thấy hơi cháo hành thoang thoảng đâu đây. Hắn “ôm mặt khóc rưng rức”. Thương thay, hắn sinh ra là người mà giờ đây muốn làm người cũng không thể được. Hắn cứ thế uống, uống cho đến say mềm đi. Rồi hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng. Trong cơn say, đầu óc của hắn vẫn không thể nào quên được bi kịch đau đớn của đời mình, và càng không thể nào quên được kẻ đã đẩy hắn vào bi kịch ấy. Không ai khác ngoài Bá Kiến. Bởi vậy mà hắn không đến nhà “con đĩ Nở” như dự định ban đầu mà đi thẳng đến nhà lão bá. Đến đấy, hắn cất tiếng đòi lương thiện thống thiết : “Tao muốn làm người lương thiện” nhưng cũng đồng thời hiểu rằng “tao không thể làm người lương thiện được nữa”. Những câu nói cuối cùng của Chí nghe sao thật xót xa, cay đắng. hắn chỉ còn một cách nữa, cách để được nhẹ nhàng, thanh thản, đó là ra đi cùng với bản chất người của mình. Nhưng trước khi ra đi, hắn phải trả thù, phải giết kẻ đã khiến hắn không được làm người nữa. Hắn hành động dứt khoát, quyết liệt : giết bá Kiến và tự vẫn. Chí Phèo tự vẫn bởi hắn có sống tiếp cũng không thể được làm người lương thiện nữa. Cái chết đau đớn, tức tưởi của Chí Phèo vừa là tiếng nói tố cáo tội ác của tầng lớp thống trị phong kiến vừa là lời khẳng định, tin tưởng vào bản chất lương thiện không bao giờ mất đi trong những người nông dân cùng khổ đáng thương.
            “Chí Phèo” là  minh chứng tiêu biểu nhất cho tài năng truyện ngắn Nam Cao. Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, nhà văn tố cáo sâu sắc xã hội thực dân nửa phong kiến phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống của con người, đẩy con người vào “bước đường cùng”. Kết cấu truyện theo kiểu tâm lí, không theo thứ tự thời gian mà bắt đầu truyện bằng tiếng chửi đổng của Chí vừa gây sự chú ý, tò mò cho người đọc, vừa nhấn mạnh cái bi kịch đau đớn của Chí. Đồng thời, lời văn kể chuyện nửa trực tiếp cũng góp phần tạo nên sự hấp dẫn của câu chuyện: trong tác phẩm, có đoạn là lời người kể chuyện hoàn toàn; cũng có đoạn nhà văn như hóa thân vào nhân vật, làm cho đoạn văn như là lời của chính nhân vật tự kể chuyện mình khiến người đọc thực sự khám phá được chiều sâu tâm hồn nhân vật. “Đôi mắt” đầy tình người của Nam Cao cùng với tài năng nghệ thuật của ông đã đưa “Chí Phèo” vào hàng những kiệt tác văn xuôi hiện đại.
Tóm lại, truyện ngắn “Chí Phèo” đã miêu tả sinh động diễn biến tâm trạng của Chí Phèo từ sau khi gặp thị Nở. Qua đó, nhà văn thể hiện tình yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với hoàn cảnh bi đát của người nông dân trong xã hội cũ, đồng thời khẳng định và tin tưởng vào bản chất lương thiện tốt đẹp của họ. Đó cũng chính là tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Nam Cao trong dòng văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.  Truyện ngắn này đã đưa tên tuổi Nam Cao vào hàng những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam.
Tài liệu sưu tầm
Xem thêm những đề thi về bài Chí Phèo : soạn bài : Chí Phèo

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *