Đề trọng tâm thi TN 2022: Đề chuyên sâu đoạn văn Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông – Hoàng Phủ Ngọc Tường

MỞ BÀI CHUNG

Gamzatop đã từng nói rằng: “Nếu như người nghệ sĩ không tham gia vào việc hình thành thế giới này thì thế giới không trở nên tươi đẹp như thế này.” Quả thực, dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ, vạn vật và cuộc đời trở nên tươi đẹp hơn rất nhiều. Đến với những trang văn đậm chất trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, ta sẽ bắt gặp một dòng sông Hương xinh đẹp, diệu kì hơn bao giờ hết. Hoàng Phủ Ngọc Tường quê gốc ở Quảng Trị, nhưng ông sinh ra ở Huế và cho đến tận cuối đời ông vẫn gắn bó với đất Huế. Có lẽ cũng chính vì thế mà nhà văn có một tình yêu và sự nghiên cứu rất sâu sắc về văn hóa, lịch sử, địa lý của xứ Huế, là cơ sở vững chắc để có những trang viết đặc sắc về Huế. Ông có sở trường ở thể loại bút ký và bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện rõ lối tư duy phóng túng, liên tưởng mãnh liệt phong phú, ngôn ngữ trong sáng đẹp đẽ tài hoa kết hợp nhuần nhuyễn giữa cái chất trữ tình và trí tuệ, giữa nghị luận sắc bén và niềm suy tư đa chiều. “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông. Bài kí được viết vào ngày 4-1-1981, tại Huế, được in trong tập sách cùng tên. Tác phẩm gồm có ba phần, đoạn trích chúng ta được học nằm ở phần mở đầu, chủ yếu nói về vẻ đẹp của dòng Hương giang giữa Huế mộng mơ.

 

PHÂN TÍCH ĐOẠN VĂN

Đoạn số 1:

Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Nhưng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt có thể lý giải được về mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở. Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở mọi cửa rừng và ném chìa khoá trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng.

Phân tích hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về cách nhìn mang tính khám phá phát hiện về dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

 

MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

– Đoạn trích đã làm nổi bật vẻ đẹp của sông Hương, từ đó, bộc lộ rõ nét tài hoa trong phong cách bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.

THÂN BÀI

  1. Khái quát

Các dòng sông là cái nôi của những vùng, các nền văn hóa đa sắc màu nên viết về nó các nhà thơ, nhà văn thường viết bằng cả sự am tường, bằng một tình yêu tha thiết, sâu lắng. Từ lâu, con sông Hương của xứ Huế cũng đã rất nhiều lần đi vào các tác phẩm văn hóa, thơ ca. Dòng sông ấy đã từng được nhà thơ Hàn Mặc Tử miêu tả :

“Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng bắp buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay“

Hay một nhà thơ nào đó cũng ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương, xứ Huế:

“Thiếu nữ thẫn thờ vê áo mỏng

Nghiêng nghiêng vành nón đứng chờ ai

Ven dòng sông phẳng con đò mộng

Lả lướt đi về trong nắng mai”

Bởi vậy, viết về dòng sông Hương là một thử thách. May thay nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vượt qua thử thách ấy để tặng cho đời bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Trong tác phẩm này nhà văn đã cảm nhận về đẹp của sông Hương từ nhiều góc độ, phương diện. Nhà văn đã tìm hiểu thủy trình, khám phá vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên sông Hương và nhìn dòng sông trong sự gắn bó với nền văn hóa của xứ Huế, trong lịch sử dựng nước và giữ nước, cảm nhận về nó một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất với một tâm hồn nghệ sĩ đầy rung cảm.

Trong bài kí, vẻ đẹp của sông Hương trước hết được tác giả cảm nhận từ góc nhìn địa lí qua thủy trình, cảnh sắc thiên nhiên của dòng Hương giang từ vùng thượng lưu qua vùng đồng bằng rồi về thành phố Huế. Ở mỗi khúc đoạn dòng sông lại hiện lên với một vẻ đẹp riêng đầy cuốn hút.Trong đó, đoạn văn này miêu tả vẻ đẹp của sông Hương ở khúc thượng nguồn.

  1. Vẻ đẹp của dòng sông Hương trong đoạn trích

2.1. Là một dòng sông đẹp trên thế giới và thuộc về một thành phố duy nhất

          Với một cái nhìn có phần ưu ái và thiên vị, mở đầu đoạn trích tác giả khẳng định sông Hương là một trong những dòng sông đẹp trên thế giới: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất.” Lời nhận xét tràn đầy tình yêu say đắm ấy không chỉ thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng mà còn thể hiện niềm tự hào, kiêu hãnh của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với dòng sông thuộc về quê hương xứ sở mình sinh ra và lớn lên. Có lẽ cũng vì thế mà trong bài kí ông đã nhiều lần so sánh và đặt ngang hàng sông Hương với những dòng sông nổi tiếng như sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Xen của Pari, sông Nê-va ở Lê-nin-grat. Bằng sự am hiểu về địa lí nhà văn còn đưa ra nêu rõ trong những dòng sông đẹp ấy chỉ riêng Hương giang là thuộc về một thành phố duy nhất.

2.2. Sông Hương là bản trường ca của rừng già

Với tình yêu tha thiết với Hương giang, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ngược dòng tìm về nguồn cội của dòng sông để rồi phát hiện ra vẻ đẹp độc đáo, hoang dã, man dại nhưng cũng rất trữ tình của nó. Khởi nguồn của dòng chảy là từ Trường Sơn hùng vĩ và đặt dòng sông Hương trong mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có phát hiện vô cùng mới mẻ, đặc sắc: dòng sông Hương tựa như “một bản trường ca của rừng già”. Ở đây, rừng già là hình ảnh của những cánh rừng đại ngàn hoang sơ, bí ẩn, mênh mông. Hình ảnh này đem đến sắc thái hoang dại cho dòng sông nơi thượng nguồn. Trường ca là bản hợp âm có độ dài và giai điệu phong phú nên có thể hiểu dòng sông khi trôi chảy trong lòng dãy Trường Sơn đã nhận vào nó tất cả những sắc thái phong phú đa dạng. Khi so sánh sông Hương với bản trường ca của rừng già, người đọc có thể liên tưởng Sông Hương ở đại ngàn mang nhiều vẻ đẹp khác nhau nhưng vẻ đẹp nổi bật của nó là sự mãnh liệt, man dại và huyền bí khi nó “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn”, “mãnh liệt qua những ghềnh thác” và “cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực bí ẩn”. Nghệ thuật so sánh được đặt trong một câu văn dài, được chia làm nhiều vế, có sử dụng thủ pháp điệp cấu trúc vừa để gợi dậy cái dư vang của trường ca, vừa tạo nên âm hưởng hùng tráng, mạnh mẽ của con sông giữa rừng già.

2.3.Vẻ đẹp dịu dàng, say đắm

Nhưng sông Hương ở rừng già có khi lại mang vẻ đẹp rất thơ mộng và trữ tình khiến người ta không khỏi say mê, cảm thán. Trong lòng Trường Sơn, Hương giang trở nên “dịu dàng, say đắm” khi chảy giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Sắc đỏ “chói lọi” của loài đỗ quyên càng làm nổi bật lên vẻ đẹp của một dòng sông giữa lòng Trường Sơn hoang dã và bí ẩn. Dường như chỉ có duy nhất màu đỏ, một màu sắc đầy hoang dại ấy mới làm toát lên được vẻ đẹp đầy ám ảnh, mê đắm nhưng lại rất đỗi bình dị của sông Hương giữa đại ngàn. Đặc biệt, thủ pháp đối lập (giữa sự mãnh liệt, man dại, huyền bí và sự dịu dàng, say đắm) được sử dụng một cách điêu luyện vừa thể hiện được vẻ đẹp phong phú sắc thái, vừa thể hiện được sức mạnh hoang sơ của sông Hương khi nằm giữa rừng già, núi non, khơi gợi lên vẻ bí ẩn, đầy say mê của dòng sông xứ Huế. Vẻ đẹp ấy của dòng sông Hương đã được Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện qua lối hành văn mang đậm dấu ấn cá nhân: hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.

 

 

2.4. Như một cô gái Di- gan phóng khoáng và man dại 

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng rất nhiều từ ngữ gợi hình và gợi cảm như bản trường ca của rừng già, rầm rộ, mãnh liệt, dịu dàng, say đắm, cuộn xoáy như cơn lốc, đáy vực bí ẩn… để tô đậm vẻ đẹp đầy gợi cảm của dòng sông. Nhưng đáng chú ý nhất là biện pháp so sánh nhân hóa ví dòng sông như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại, rừng già đã hun đúc cho nó bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do, phóng khoáng… Nghệ thuật so sánh đã làm nổi bật vẻ đẹp căng đầy sức sống của dòng sông khi nó giống như người con gái tuổi đôi mươi, tinh nghịch nhảy xoay tròn bằng đôi chân trần linh hoạt, với nụ cười lanh lảnh trong vắt, tựa tiếng chim… Hơn nữa, cô gái ấy là một cô gái Di gan. Hình ảnh cô gái Di-gan khiến người đọc liên tưởng đến một cô gái thuộc tộc người nổi tiếng trên thế giới, một tộc người thích sống du mục, nhảy múa, ca hát và giỏi bùa chú. Các cô gái của tộc người Di gan thường đem lời ca, điệu múa của của mình “đốt cháy” bao người. Bởi vậy có thể nói đây là lối so sánh – liên tưởng táo bạo, bất ngờ, lấp lánh trí tuệ, thể hiện được cái nhìn đa chiều của tác giả trong sự hội nhập văn hóa của thời đại mới. Tác giả đã mang văn hóa phương Tây vào văn hóa Việt Nam; mang thượng nguồn sông Hương của Việt Nam ra thế giới một cách cụ thể, dễ hình dung nhất qua hình ảnh so sánh này. Lối ẩn dụ, nhân hóa sâu sắc, trí tuệ khi chạm đến chiều sâu tâm hồn của sông Hương như tâm hồn của một con người, một cô gái với “một tâm hồn tự do và trong sáng”. Những liên tưởng thú vị và độc đáo ấy đã chạm khắc vào tâm trí người đọc ấn tượng mạnh mẽ về vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng đầy quyến rũ, tình tứ, tinh tế, đầy cá tính của sông Hương, khiến sông Hương khúc thượng nguồn càng trở nên quyến rũ say đắm.

2.5. Sông Hương trên thủy trình trở về với vùng châu thổ êm đềm

Chính rừng già đã hun đúc cho sông Hương bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do, trong sáng, vẻ đẹp thiên tạo với sức sống mãnh liệt, hoang dại và đầy cá tính. Đó là phần tâm hồn sâu thẳm mà sông Hương không muốn bộc lộ nên luôn giấu kín khi ra khỏi rừng nó đóng cửa rừng và ném chìa khóa dưới chân núi Kim Phụng. Cũng chính rừng già đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để ngay khi ra khỏi rừng sông Hương khoác lên mình “một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ”, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Như vậy, nhà văn đã xem sông Hương như một đấng sáng tạo góp phần tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của một vùng thiên nhiên, xứ sở. Đây là một phát hiện độc đáo về sông Hương chỉ có thể có ở một người gắn bó và am tường về mảnh đất cố đô. Với đoạn văn này, tác giả còn muốn nhắc khẽ mọi người rằng muốn hiểu tường tận về dòng sông Hương phải biết đến sông Hương ở thượng nguồn bởi “nếu chỉ mãi mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành cùa nó… sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua. .”. Khám phá và suy tưởng ấy của tác giả về Hương giang khiến người đọc rung động, thấm thía. Có lẽ, viết đoạn văn là tác giả muốn kết luận: muốn hiểu được dòng sông Hương phải ngược lên thượng nguồn; cũng giống như muốn hiểu một dân tộc phải tìm hiểu rõ cội nguồn của dân tộc ấy.

  1. Đánh giá

3.1. Nghệ thuật

Với một lối hành văn uyển chuyển, ngôn ngữ đa dạng và giàu hình ảnh, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả một cách sinh động và hấp dẫn từng bước đi của sông Hương. Vốn ngôn từ đẹp, tao nhã, tinh tế, lịch lãm; những ví von, so sánh nhân hóa giàu chất thơ, chất nhạc, chất họa và chất suy cảm, hướng nội đã làm nên nét thanh tao rất riêng trong chất kí Hoàng Phủ Ngọc Tường; sự quan sát và tưởng tượng bằng lăng kính của tình yêu và cái nhìn lãng mạn; giọng điệu rất Huế, rất trữ tình và sâu lắng, đầy suy niệm đã làm nên chất trữ tình riêng của đoạn văn và tác phẩm.

3.2. Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện của nhà văn về dòng sông

– Nhà văn phát hiện dòng sông giống như một người con gái mang trong mình nhiều phẩm chất và vẻ đẹp tâm hồn: vừa mạnh mẽ sôi nổi, vừa đằm thắm, dịu dàng. Nhà văn phát hiện dòng sông giống như một cô gái Di – gan, một bà mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở.

– Hoàng Phủ Ngọc Tường: khám phá ra “phần đời” mà dòng sông không muốn bộc lộ là vẻ đẹp ở thượng nguồn với cảnh sắc thiên nhiên phong phú và đa dạng.

– Dòng sông được miêu tả với nhiều góc nhìn từ góc nhìn địa lí đến góc nhìn văn hóa. Gắn thủy trình của dòng sông với lịch sử hình thành của nền văn hóa xứ sở. Phải là một con người có vốn tri thức sâu rộng về địa lý, lịch sử, văn hóa, đặc biệt là phải có một tình yêu thiết tha, mãnh liệt với dòng sông Hương, với thành phố Huế, với quê hương xứ sở, nhà văn mới có được góc nhìn mới mẻ, độc đáo đến vậy.

=> Hoàng Phủ Ngọc Tường quê gốc không phải ở Huế song ông lại sinh ra ở Huế, lớn lên và học tập, hoạt động cách mạng ở Huế. Vì thế, ta không thể phủ nhận rằng hơn ai hết, Hoàng Phủ Ngọc Tường có một tình yêu thương sâu nặng, có một sự gắn bó bền chặt bằng cả trái tim, máu thịt và tâm hồn mình với mảnh đất kinh đô xưa. Bằng tình yêu và niềm tự hào với dòng sông quê hương, với trí tưởng tượng phong phú và khả năng khám phá tài tình, độc đáo, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả dòng sông Hương  trong vẻ đẹp nguyên sơ, đầy cá tính và văn hóa. Vì vậy, thật không ngoa khi một nhà phê bình văn học từng nhận xét: “Nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường yêu Huế và hiểu Huế, thì đó là một lẽ đương nhiên. Tôi muốn đi xa hơn, tìm một căn nguyên thấm kín để cắt nghĩa cho sự thành công mỹ mãn của những trang viết ấy….Phải là sự tương giao, đến mức hòa quyện chặt chẽ mới sinh ra được những áng văn tài hoa không dễ một lần thứ hai viết được như thế”.

3.3. Hình tượng cái tôi tác giả

Thật vậy, qua từng câu, từng chữ trong đoạn trích, hình ảnh cái tôi của tác giả hiện lên vô cùng rõ nét. Trước hết, đó là một cái tôi uyên bác, nghiêm túc cẩn trọng trong tìm kiếm và phát hiện những vẻ đẹp của sông Hương và xứ Huế. Hơn nữa, đoạn văn cũng như tác phẩm còn thể hiện một cái tôi mê đắm, tài hòa và vô cùng lãng mạn.  Ông đã có những liên tưởng thú vị mang tính sáng tạo bất ngờ về dóng sông Hương. Qua đó, ta cảm nhận được tình yêu quê hương tha thiết, sâu sắc của ông trong từng áng văn viết về sông Hương, xứ Huế, đặc biệt là trong đoạn trích của tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.  Đoạn trích còn thể hiện phong cách sáng tác riêng biệt và đặc sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường: Sự kết hợp giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều.

 

Đoạn số 2:

Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyên dùng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiểu tím” như người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ tỏa lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…

(Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr.198-199).

Phân tích hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về tính trữ tình của bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.

 

MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

– Dẫn vào đoạn văn và yêu cầu của đề bài: Đoạn trích “Phải nhiều thế kỉ qua đi… tiếng gà” đã làm nổi bật vẻ đẹp của sông Hương, từ đó, bộc lộ rõ tính trữ tình trong phong cách bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.

THÂN BÀI

  1. Khái quát

Các dòng sông là cái nôi của những vùng, các nền văn hóa đa sắc màu nên viết về nó các nhà thơ, nhà văn thường viết bằng cả sự am tường, bằng một tình yêu tha thiết, sâu lắng. Từ lâu, con sông Hương của xứ Huế cũng đã rất nhiều lần đi vào các tác phẩm văn hóa, thơ ca. Dòng sông ấy đã từng được nhà thơ Hàn Mặc Tử miêu tả :

“Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng bắp buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay“

Hay một nhà thơ nào đó cũng ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương, xứ Huế:

“Thiếu nữ thẫn thờ vê áo mỏng

Nghiêng nghiêng vành nón đứng chờ ai

Ven dòng sông phẳng con đò mộng

Lả lướt đi về trong nắng mai”

Bởi vậy, viết về dòng sông Hương là một thử thách. May thay, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vượt qua thử thách ấy để tặng cho đời bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Trong tác phẩm này nhà văn đã cảm nhận về đẹp của sông Hương từ nhiều góc độ, phương diện. Nhà văn đã tìm hiểu thủy trình, khám phá vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên sông Hương và nhìn dòng sông trong sự gắn bó với nền văn hóa của xứ Huế, trong lịch sử dựng nước và giữ nước, cảm nhận về nó một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất với một tâm hồn nghệ sĩ đầy rung cảm.

Trong bài kí, vẻ đẹp của sông Hương trước hết được tác giả cảm nhận từ góc nhìn địa lí qua thủy trình, cảnh sắc thiên nhiên của dòng Hương giang từ vùng thượng lưu qua vùng đồng bằng rồi về thành phố Huế. Ở mỗi khúc đoạn dòng sông lại hiện lên với một vẻ đẹp riêng đầy cuốn hút.Trong đó, đoạn văn này miêu tả vẻ đẹp của sông Hương khi nó chảy về đồng bằng châu thổ.

  1. Vẻ đẹp của hình tượng sông Hương qua đoạn trích

2.1. Mang vẻ đẹp nữ tính, diễm kiều và nhuốm màu cổ tích

– Sông Hương qua cái nhìn lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường như một cô gái dịu dàng, mơ mộng đang khát khao đi tìm tình yêu theo tiếng gọi của trái tim. Dòng sông Hương khi về đến đồng bằng được tác giả so sánh và nhân hóa với một người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng chờ người tình mong đợi đến đánh thức. Trong sự so sánh, nhân hóa này sông Hương mang vẻ đẹp nữ tính, mềm mại, diễm kiều của một người con gái nhưng vẻ đẹp của nó cũng nhuốm màu cổ tích, gợi người đọc liên tưởng đến nàng công chúa xinh đẹp ngủ trong rừng chờ hoàng tử đến hóa giải lời nguyền để đến với tình yêu.

Sau một trăm năm, hoàng tử xuất hiện đánh thức nàng công chúa trong cổ tích, còn dòng sông Hương phải chờ đợi qua nhiều thế kỉ “Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”. Vẻ đẹp của Hương giang ở đây giống như vẻ đẹp gợi cảm của người thiếu nữ giữa một cánh đồng đầy hoa. Có thể nói, hình ảnh, cánh đồng hoa dại làm tôn thêm biết bao nhiêu vẻ đẹp thơ mộng của dòng Hương giang khi về đồng bằng châu thổ, khiến sông Hương mang một gương mặt khác hẳn so với khi nó chảy giữa rừng già.

2.2. Sức sống của tuổi thanh xuân và cuộc hành trình có chủ đích

Sau giấc ngủ mơ màng hàng thế kỉ, dòng sông Hương được đánh thức và đã bừng tỉnh. Để rồi sau đó, bằng sức sống mãnh liệt của tuổi thanh xuân nó thực hiện một cuộc hành trình có chủ đích để tìm đến với thành phố tương lai của nó. Phải nói rằng trong thiên bút kí này, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn nhìn dòng sông Hương và thành phố Huế như một cặp tình nhân đầy thương nhớ. Và như một người con gái dám dấn thân để tìm đến với tình yêu đích thực, để đến được với người tình mong đợi là thành phố Huế, Hương giang đã phải trải qua một cuộc hành trình đầy gian truân. Nó phải chuyển dòng một cách liên tục, vòng những khúc quanh đột ngột, uốn một đường cong thật mềm, vẽ một hình cong thật tròn… qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Những từ “liên tục”, “đột ngột”… là những trạng từ miêu tả sự đổi dòng đầy bất ngờ, thể hiện sự gian khổ của dòng sông phải trải qua để gặp người tình cố đô. Sông Hương phải đi trong dư vang của núi rừng Trường Sơn, vượt qua những lòng vực sâu, trôi đi giữa những dãy đồi sừng sững như thành quách với những điểm cao đột ngột như Tam Thai, Lựu Bảo…

Có thể thấy, bằng một lối hành văn uyển chuyển, ngôn ngữ đa dạng và giàu hình ảnh, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả một cách sinh động và hấp dẫn những khúc quanh, ngã rẽ của con sông. Mỗi đường đi nước bước của sông Hương gắn liền với những địa danh khác nhau của xứ Huế được nhà văn dành cho một cách diễn đạt riêng. Nhờ đó mà hành trình về xuôi của dòng sông không đơn điệu, nhàm chán mà trái lại nó luôn luôn biến hóa khiến người đọc đi từ ngạc nhiên, thú vị này đến bất ngờ, ấn tượng khác. Có những câu văn giàu chất họa đến mức cứ ngỡ như đường cọ của người họa sĩ đang đưa những nét vẽ về sông Hương trên bức tranh thiên nhiên xứ Huế: vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán… vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc. Lại có câu văn gợi một nét mơ hồ với nhiều liên tưởng và cảm xúc rất thích: sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn. Thủ pháp nhân hóa và so sánh được sử dụng kết hợp với hệ thống ngôn từ giàu cảm xúc và hình ảnh cũng góp phần đáng kể vào việc khắc họa một dòng sông thơ mộng, trữ tình.

2.3. Vẻ đẹp của dòng sông Hương trong cuộc hành trình đầy gian truân

Giống như con người trong khó khăn, gian khổ thường bộc lộ ra những phẩm chất tốt đẹp, trong cuộc hành trình đầy gian truân ấy, sông Hương có dịp bộc lộ vẻ đẹp của nó. Sông Hương như người con gái đẹp biết tự làm mới mình, trang điểm cho mình đẹp hơn trước khi gặp người tình mà nó mong đợi:

+ Về hình dáng: Vì phải uốn lượn, đổi dòng liên tục nên hình dáng dòng sông trở nên mềm mại như một tấm lụa. Có thể nói, vẻ đẹp của sông Hương trước khi vào thành phố Huế là vẻ đẹp mềm mại của một người con gái đẹp. Dòng chảy uốn lượn, những khúc quanh của nó hiện lên như những đường cong trên cơ thể của một người thiếu nữ đương độ xuân thì.

+ Về sắc nước: Vượt qua những lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản sắc nước sông Hương trở nên xanh thẳm. Dòng sông còn tạo nên những mảng phản quang thay đổi trong ngày trên bầu trời thành phố Huế với sớm xanh, trưa vàng, chiều tím như người Huế vẫn thường miêu tả. Như vậy, sông Hương ngoài vẻ đẹp về cảnh sắc thiên nhiên còn là tấm gương phản chiếu nét đẹp của cảnh quan đất trời hai bên bờ sông. Không có sông Hương, những ngọn đồi ở ngoại vi Huế vẫn có vẻ đẹp riêng nhưng vẻ đẹp ấy sẽ mất đi cái long lanh, cái đa sắc màu và không còn những “điểm cao đột khởi” xuất hiện như một điểm nhìn văn hoá, thưởng thức. Bởi vậy, Sông Hương chính là “trung tâm cảnh”, là linh hồn của thiên nhiên cảnh vật ở đây.

     + Vẻ đẹp: Vẻ đẹp của sông Hương ở vùng châu thổ còn là vẻ đẹp văn hóa. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất như triết lí, cổ thi, nhất là khi dòng sông chảy qua những đám quần sơn lô nhô, giữa giấc ngủ ngàn năm của vua chúa với những lăng tẩm đồ sộ của vua chúa thời Nguyễn được phong kín trong những rừng thông u tịch. Chảy bên những di sản văn hóa ấy, con sông như bỗng trở nên nghiêm trang hơn, nó như khoác lên mình tấm áo “trầm mặc” mang cái “triết lí cổ thi” của cổ nhân hay mang vẻ đẹp của hai câu thơ cổ kính: “Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. Dòng sông Hương hay chính là dòng chảy của lịch sử vẫn bền bỉ chảy qua năm tháng và đang vọng về trong ngày hôm nay. Hơn nữa, vẻ đẹp trữ tình, văn hóa của dòng sông còn được thể hiện qua chính âm hưởng, nhịp điệu, tiết tấu của văn bản ngôn từ, qua cách nhà văn miêu tả nhịp điệu dòng chảy của sông Hương, qua âm thanh gợi cõi vô thường, huyền hoặc của tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia và âm thanh nồng ấm thân yêu của những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà.

  1. Đánh giá tính trữ tình (chất thơ) của bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường

3.1. Chất trữ tình thể hiện qua phương diện nghệ thuật:

Hình tượng sông Hương được miêu tả bằng ngôn ngữ tinh tế, giàu chất thơ; lối hành văn hướng nội, mê đắm, tài hoa; nghệ thuật so sánh, nhân hóa sáng tạo, những liên tưởng độc đáo,… sử dụng rộng rãi đặc sắc những phép tu từ gợi cảm vốn là quen thuộc trong thơ như so sánh kết hợp với nhân hóa, ẩn dụ. Chất thơ toát ra từ những câu văn, hình ảnh đẹp, đầy màu sắc và từ độ nhòe mờ của hình tượng nghệ thuật: “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”, “Sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “Sắc nước trở nên xanh thẳm”, “những ngọn đồi này tạo nên nhiều mảng phản quang nhiều màu sắc”. “Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”…

3.2. Chất trữ tình thể hiện qua vẻ đẹp thơ mộng của Hương giang:

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã “vẽ” lên sông Hương bằng chất liệu ngôn từ cái dáng điệu yêu kiều và rất tạo hình của sông Hương khi nó ở ngoại vi thành phố Huế. Nhà văn không chỉ tái hiện lại một cách chân thực dòng chảy địa lí tự nhiên của con sông mà quan trọng hơn biến cái thủy trình ấy thành “hành trình đi tìm người yêu” của một người con gái đẹp, duyên dáng và tình tứ. Đây cũng chính là cảm nhận riêng, độc đáo và rất đặc sắc của nhà văn về sông Hương trước khi nó chảy vào lòng thành phố thân yêu.

3.3. Chất trữ tình của đoạn kí còn thể hiện rõ qua cái tôi đầy xúc cảm của tác giả:     Cảm hứng xuyên suốt trong đoạn trích cũng như trong tác phẩm là niềm say sưa tìm kiếm và khẳng định vẻ đẹp riêng, sức cuốn hút, quyến rũ riêng của con sông xứ Huế. Hương giang hiện lên qua cuộc tìm kiếm của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ là con sông địa lý mà là một sinh thể, một con người, một người con gái vừa xinh đẹp, vừa tài hoa, vừa thăng trầm chìm nổi cùng lịch sử lại vừa đằm thắm lắng sâu với nền văn hoá riêng của nó. Rõ ràng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem tình yêu đằm thắm lắng sâu và những cảm xúc sôi nổi say sưa phổ vào trang viết để rồi mỗi dòng văn như một bài ca tôn vinh vẻ đẹp của sông Hương. Vì thế cái dễ nhận thấy từ những trang văn là chất trữ tình đậm đà đằm thắm.

 

Đoạn số 3:

 […] Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biển bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Và như vậy, giống như sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố phường với những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Tôi đã đến Lê-nin-grat, có lúc đứng nhìn sông Nê-va cuốn trôi những đám băng lô xô, nhấp nháy trăm màu dưới ánh sáng mặt trời mùa xuân, mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng và đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy với những hành khách tí hon của nó băng băng lướt qua trước cung điện Pê-téc-bua cũ để ra bể Ban-tích. […] Hai nghìn năm trước, có một người Hi Lạp tên là Hê-ra-clít, đã khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi qua nhanh, thế vậy! Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố… Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.

(Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, Tập một, Nxb Giáo dục Việt Nam, tr.199-200, 2014).

Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên.Từ đó, bình luận ngắn về cái tôi tài hoa, uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

 

MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

– Dẫn vào đoạn văn và yêu cầu của đề bài: Đoạn trích “Từ đây… nỗi lòng” đã làm nổi bật vẻ đẹp của sông Hương, từ đó, bộc lộ rõ cái tôi tài hoa, uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

THÂN BÀI

  1. Khái quát

Các dòng sông là cái nôi của những vùng, các nền văn hóa đa sắc màu nên viết về nó các nhà thơ, nhà văn thường viết bằng cả sự am tường, bằng một tình yêu tha thiết, sâu lắng. Từ lâu, con sông Hương của xứ Huế cũng đã rất nhiều lần đi vào các tác phẩm văn hóa, thơ ca. Dòng sông ấy đã từng được nhà thơ Hàn Mặc Tử miêu tả :

“Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng bắp buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay“

Hay một nhà thơ nào đó cũng ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương, xứ Huế:

“Thiếu nữ thẫn thờ vê áo mỏng

Nghiêng nghiêng vành nón đứng chờ ai

Ven dòng sông phẳng con đò mộng

Lả lướt đi về trong nắng mai”

Bởi vậy, viết về dòng sông Hương là một thử thách. May thay, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vượt qua thử thách ấy để tặng cho đời bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Trong tác phẩm này nhà văn đã cảm nhận về đẹp của sông Hương từ nhiều góc độ, phương diện. Nhà văn đã tìm hiểu thủy trình, khám phá vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên sông Hương và nhìn dòng sông trong sự gắn bó với nền văn hóa của xứ Huế, trong lịch sử dựng nước và giữ nước, cảm nhận về nó một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất với một tâm hồn nghệ sĩ đầy rung cảm.

Trong bài kí, vẻ đẹp của sông Hương trước hết được tác giả cảm nhận từ góc nhìn địa lí qua thủy trình, cảnh sắc thiên nhiên của dòng Hương giang từ vùng thượng lưu qua vùng đồng bằng rồi về thành phố Huế. Ở mỗi khúc đoạn dòng sông lại hiện lên với một vẻ đẹp riêng đầy cuốn hút. Ở những đoạn văn trước nhà văn đã miêu tả sông Hương ở thượng nguồn mang vẻ đẹp mãnh liệt, man dại và huyền bí, nhưng có lúc lại trở nên dịu dàng say đắm. Bởi vậy, vẻ đẹp sông Hương ở thượng nguồn như một cô gái Di-gan phóng khoáng, man dại có tâm hồn tự do, trong sáng. Sông Hương khi về đến đồng bằng châu thổ mang vẻ đẹp của một người con gái đẹp và nhuốm màu cổ tích. Người con gái đẹp ấy dám dấn thân vào một cuộc hành trình đầy gian truân để tìm đến với người tình trong mộng là thành phố Huế. Theo đó, đoạn văn này miêu tả vẻ đẹp của sông Hương khi nó về đến thành phố Huế.

  1. Vẻ đẹp sông Hương trong đoạn trích

Miêu tả vẻ đẹp sông Hương ở Huế là lúc tài văn chương của tác giả được dịp thăng hoa. Bởi vì, về đến Huế, sông Hương mới bộc lộ hết vẻ đẹp của nó và hầu như người ta thường chỉ biết đến sông Hương qua gương mặt kinh thành của nó. Ta có thể ví đoạn văn miêu tả sông Hương ở Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường như một tấm đá hoa cương đủ khắc tên nhà văn làm vẻ vang một đời nghệ sĩ.

2.1. Sông Hương được nhân hóa, mang tâm trạng như con người

Sông Hương khi chảy vào thành phố Huế được nhân hóa mang tâm trạng như con người. Khi biết đã tìm đúng đường để về gặp thành phố thân yêu, sông Hương vui tươi lên hẳn lên giữa biền bãi vùng ngoại ô Kim Long. Qua lăng kính tình yêu, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã luôn nhìn sông Hương với thành phố Huế như một cặp đôi tình nhân và dòng Hương giang khi gặp người tình trong mộng đã không che giấu niềm vui của nó.

Khi biết đã tìm đúng đường về để gặp người tình mong đợi, sông Hương cũng không còn băn khoăn, trăn trở “đổi dòng”, “uốn mình” liên tục nữa mà “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam, Đông Bắc” thật yên tâm bởi nó đã nhìn thấy cây cầu trắng của thành phố. Như vậy dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường sông Hương lúc này đã là một cô gái có tâm hồn, ý thức tìm được chính mình, đi tìm tình yêu đích thực của mình để được ôm ấp trong lòng một cố đô cổ kính.

Khi gặp người yêu, có cô gái nào lại không làm duyên, làm dáng và sông Hương ở đây cũng vậy. Khi giáp mặt thành phố ở cồn Giã Viên “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “ vâng” không nói ra của tình yêu”. Quả thực, đây là một câu văn súc tích, mang vẻ đẹp lãng mạn và đầy mê đắm của tình yêu miêu tả dòng sông Hương khi gặp người tình của nó trở nên đầy e ấp, tình tứ, thể hiện sự chấp nhận tình yêu một cách đầy kín đáo và nữ tính.

2.2. Sông Hương ở Huế gắn liền với hình ảnh cây cầu trắng

Nổi bật trên nền xanh của dòng Hương giang ở Huế là hình ảnh đầy ấn tượng: “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”. Ai đã từng đến Huế đều biết đến cây cầu Tràng Tiền nổi tiếng vẫn soi bóng trên dòng Hương giang, gợi một vẻ đẹp rất riêng mà chỉ có xứ Huế mộng và thơ mới có. Hình ảnh cây cầu ấy của đất cố đô đã đi vào thi ca với vẻ đẹp quyến rũ kì lạ:

“Cầu cong như chiếc lược ngà

Sông dài mái tóc cung Nga buông hờ”

(Nguyễn Bính)

Nguyễn Bính và Hoàng Phủ Ngọc Tường đều cảm nhận được đường cong gợi cảm của cây cầu vắt ngang dòng sông Hương. Nhưng nếu nhà thơ Nguyễn Bính so sánh cầu Tràng Tiền như chiếc lược ngà thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại so sánh với vành trăng non – một so sánh độc đáo, mới lạ để gợi tả thêm vẻ đẹp duyên dáng, tươi sáng của cây cầu. Khi sông Hương gặp Huế, vẻ đẹp của dòng sông và cây cầu như hoà vào làm một. Cây cầu như một nét đẹp bừng sáng tô điểm cho vẻ đẹp của của dòng sông cũng như thành phố Huế.

2.3. Sông Hương được so sánh với các dòng sông đẹp trên thế giới

Để làm nổi bật vẻ đẹp đặc trưng của dòng sông Hương ở Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh sông Hương với một số dòng sông đẹp và nổi tiếng trên thế giới. Nhà văn so sánh sông Hương với sông Xen của Pa-ri và sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét để thấy vẻ đẹp riêng của dòng sông Hương là nó thuộc về một thành phố duy nhất và chỉ một mình nó còn nằm trong tổng thể một đô thị cổ. Nó trôi đi bên cạnh những cây đa cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít, mà ở đó vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ. Vẻ đẹp cổ kính ấy của Huế, của sông Hương “không có một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Có thể nói lời nhận xét tràn đầy tình yêu say đắm ấy không chỉ thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng mà còn thể hiện niềm tự hào, kiêu hãnh của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với dòng sông thuộc về quê hương xứ sở mình sinh ra và lớn lên.

Sau đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn so sánh sông Hương với dòng sông Nê-va ở Lê-nin-grat để nhấn mạnh điểm khác biệt là nếu như dòng sông Nê-va chảy rất nhanh, thì sông Hương có dòng chảy chậm, thật chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Nhà văn cảm nhận dòng chảy nhanh của sông Nê-va qua hình ảnh những chú hải âu tinh nghịch co một chân trên đám băng lô xô trôi theo dòng chảy ra bể Ban-tích. Nước sông Nê-va chảy nhanh đến mức cuốn trôi băng băng những con tàu bằng thủy tinh chở theo những hành khách tí hon khiến tác giả chỉ biết ngẩn ngơ trông theo.

Và có như thế tác giả mới thấy quý điệu chảy chậm của dòng Hương giang khi ở Huế. Nếu như dòng sông Nê-va ở nước Nga xa xôi chảy qua thành phố với tốc độ rất nhanh “không kịp cho lũ hải âu nói điều gì” với người bạn của nó thì sông Hương lại chảy lặng lờ và được so sánh như một “điệu slow” tình cảm mà Hương giang dành riêng cho xứ Huế. Sông Hương chậm rãi, lặng lờ mang đậm khí vị của xứ Huế mộng mơ qua sự miêu tả của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở đây cũng rất giống với sự miêu tả của nhà thơ Thu Bồn:

“Con sông dùng dằng con sông không chảy

Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”

Nhà văn còn tô đậm dòng chảy chậm của Hương giang một lần nữa bằng cảm nhận của thị giác qua hàng nghìn ánh đèn hoa đăng bồng bềnh trên sông Hương vào dịp rằm tháng bảy, từ điện Hòn Chén trôi về đến Huế thì ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như vấn vương của một nỗi lòng. Đặc điểm dòng chảy chậm ấy được nhà văn lí giải từ nhiều góc nhìn khác nhau. Từ đặc điểm địa lí tự nhiên thì những chi lưu tỏa ra khắp phố thị cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước. Nhưng mặt khác, bằng lí lẽ của trái tim tác giả cho rằng “điệu chảy lặng lờ”, “ngập ngừng muốn đi muốn ở” của sông Hương là do tình cảm của nó dành riêng cho Huế. Sông Hương do quá yêu thành phố thân thương của mình nên dùng dằng không nỡ rời xa, nó chảy chậm, thật chậm để được ở bên người tình mong đợi.

Và chính dòng chảy chậm đầy tình yêu ấy của dòng Hương giang đã tạo nên vẻ đẹp sâu lắng, trầm mặc và rất đỗi thơ mộng cho xứ Huế. Nên có thể nói sông Hương dường như đang hòa điệu tâm hồn mình vào Huế để tôn lên vẻ đẹp thơ mộng của cố đô. Đứng trước sông Hương, người ta không chỉ cảm nhận trước một bức tranh sông nước diễm lệ mà còn đứng trước một biểu tượng của Huế, tâm hồn Huế, văn hóa Huế.

  1. Đánh giá về cái tôi tài hoa, uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Đoạn văn nhẹ nhàng với ngòi bút tinh tế, lối viết giàu cảm xúc, kết hợp giữa miêu tả và tự sự. Bằng sự quan sát tinh tường, tỉ mỉ, tưởng tượng phong phú, tác giả đã miêu tả sông Hương từ góc nhìn địa lí, hành trình sông Hương tìm về với Huế như về với tình nhân của mình. Các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa… được sử dụng hiệu quả.

Tác giả còn vận dụng những tri thức phong phú, những hiểu biết sâu sắc về nhiều mặt như địa lý, thơ ca, âm nhạc, hội họa… để làm giàu cho giá trị nhận thức của đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung. Chất thơ thể hiện rõ qua ngôn từ, hình ảnh… tạo nên những câu văn rất hay như “chiếc cầu trắng…nhỏ nhắn như những vành trăng non”, “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ… một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”… Vẻ đẹp của sông Hương cùng tài năng của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tạo nên đoạn văn  đậm chất nhạc và chất họa. Nhìn bằng con mắt của hội họa, sông Hương cùng những chi lưu tạo nên những đường nét thật mềm mại, tinh tế và cổ kính. Cảm nhận bằng âm nhạc thì sông Hương đang trong điệu slow du dương, sâu lắng và ngập tràn tình cảm với Huế.

Tất cả cho thấy một cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường thực sự tài hoa, uyên bác và chân thành, tha thiết yêu sông Hương – xứ Huế. Đoạn trích còn thể hiện phong cách sáng tác riêng biệt và đặc sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường: Sự kết hợp giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều.

 

Đoạn số 4:

Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày, hoặc trên sân khấu nhà hát. Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya. Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều. Tôi đã chứng kiến một người nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỉ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”… Đến câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh!”.

Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình. Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây; và để nhân cách hoá nó lên, tôi gọi đây là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và giống như nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả: “Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…”. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian; ấy là tấm lòng người dân nơi Châu Hoá xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”.

(Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr.198-199).

Phân tích hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về tình cảm của Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho xứ Huế.

 

MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

– Dẫn vào đoạn văn và yêu cầu của đề bài: Đoạn trích “Hình như… xứ sở” đã làm nổi bật vẻ đẹp của sông Hương, từ đó bộc lộ rõ tình cảm của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường với xứ Huế mộng và thơ.

 

THÂN BÀI

  1. Khái quát

Các dòng sông là cái nôi của những vùng, các nền văn hóa đa sắc màu nên viết về nó các nhà thơ, nhà văn thường viết bằng cả sự am tường, bằng một tình yêu tha thiết, sâu lắng. Từ lâu, con sông Hương của xứ Huế cũng đã rất nhiều lần đi vào các tác phẩm văn hóa, thơ ca. Dòng sông ấy đã từng được nhà thơ Hàn Mặc Tử miêu tả :

“Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng bắp buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay“

Hay một nhà thơ nào đó cũng ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương, xứ Huế:

“Thiếu nữ thẫn thờ vê áo mỏng

Nghiêng nghiêng vành nón đứng chờ ai

Ven dòng sông phẳng con đò mộng

Lả lướt đi về trong nắng mai”

Bởi vậy, viết về dòng sông Hương là một thử thách. May thay, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vượt qua thử thách ấy để tặng cho đời bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Trong tác phẩm này nhà văn đã cảm nhận về đẹp của sông Hương từ nhiều góc độ, phương diện. Nhà văn đã tìm hiểu thủy trình, khám phá vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên sông Hương và nhìn dòng sông trong sự gắn bó với nền văn hóa của xứ Huế, trong lịch sử dựng nước và giữ nước, cảm nhận về nó một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất với một tâm hồn nghệ sĩ đầy rung cảm.

Trong bài kí, vẻ đẹp của sông Hương trước hết được tác giả cảm nhận từ góc nhìn địa lí qua thủy trình, cảnh sắc thiên nhiên của dòng Hương giang từ vùng thượng lưu qua vùng đồng bằng rồi về thành phố Huế. Ở mỗi khúc đoạn dòng sông lại hiện lên với một vẻ đẹp riêng đầy cuốn hút. Ở những đoạn văn trước nhà văn đã miêu tả sông Hương ở thượng nguồn mang vẻ đẹp mãnh liệt, man dại và huyền bí, nhưng có lúc lại trở nên dịu dàng say đắm. Bởi vậy, vẻ đẹp sông Hương ở thượng nguồn như một cô gái Di-gan phóng khoáng, man dại có tâm hồn tự do, trong sáng. Sông Hương khi về đến đồng bằng châu thổ mang vẻ đẹp của một người con gái đẹp và nhuốm màu cổ tích. Người con gái đẹp ấy dám dấn thân vào một cuộc hành trình đầy gian truân để tìm đến với người tình trong mộng là thành phố Huế. Theo đó, đoạn văn này miêu tả vẻ đẹp của sông Hương khi ở Huế và rời khỏi thành phố Huế.

  1. Vẻ đẹp sông Hương trong đoạn trích

2.1. Vẻ đẹp sông Hương trong mối quan hệ với văn hóa Huế

Sông Hương khi về đến Huế đã chảy “chậm, thực chậm cơ hồ chỉ còn là một mặt hồn yên tĩnh”, dòng sông dường như dùng dằng không muốn rời xa thành phố thân yêu của nó. Và trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương lại hóa thân thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Bằng hình ảnh so sánh này, Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ cho thấy vẻ đẹp trang trọng, duyên dáng, nữ tính của dòng sông Hương mà còn thể hiện Hương giang gắn với nền văn hóa phi vật thể của vùng đất cố đô. Sông Hương chính là người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở, góp phần bồi đắp và gìn giữ nền văn hóa Huế. Cụ thể hơn thì chính sông Hương đã giúp hình thành nền âm nhạc cổ điển Huế và góp phần tạo nên vẻ đẹp trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.

Hương giang đã sinh thành nên toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế góp phần làm nên một xứ Huế “trong sáng và thư thái” (UNESCO). Ai đã từng có dịp đến Huế thưởng thức nền âm nhạc Huế, được xem các nghệ sĩ biểu diễn âm nhạc trên sông vào những đêm khuya mới thấy hết vẻ đẹp của âm nhạc và màu sắc văn hoá đặc trưng ở nơi đây. Tác giả khẳng định toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này. Từ âm thanh của dòng sông như tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, tiếng mái chèo khua sóng, tiếng nước vỗ vào mạn thuyền trong những đêm thanh vắng, không gian yên tĩnh đến mức có thể nghe thấy tiếng của những giọt nước rơi bán âm từ mái chèo khuya … đã hình thành những làn điệu hò dân gian và nền âm nhạc cổ điển Huế. Và rồi cũng chính trên dòng sông ấy, những câu hò và âm nhạc Huế vút lên, mênh mang, xao xuyến. Trình diễn âm nhạc của Huế trên không gian sông nước có thể là đặc điểm riêng của văn hóa Huế nhưng cũng có thể phải biểu diễn trên sông nước giữa đêm khuya thì âm nhạc Huế mới bộc lộ hết vẻ đẹp của nó. Bởi khi ấy, môi trường diễn xướng là tiếng nước rơi trên mái chèo làm tôn thêm tiếng đàn, tiếng đàn sẽ hòa điệu với tiếng nước rơi trên mái-chèo để tạo nên một sự cộng hưởng, âm vang của bản nhạc. Vậy nên Hoàng Phủ Ngọc Tường đã  tỏ ra rất thất vọng khi nghe nhạc Huế trên sân khấu vào giữa ban ngày.

Viết về sông Hương, nhà văn còn có một phát hiện, phán đoán rất bất ngờ là dòng sông Hương với âm nhạc Huế có ảnh hưởng đến kiệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng đại thi hào đã phải bao năm lênh đênh trên quãng sông này, nghe nhạc Huế với một phiến trăng sầu. Môi trường văn hóa ấy đã nuôi dưỡng hồn thơ của đại thi hào, để từ đó những bản đàn đi suốt cuộc đời nàng Kiều, để từ đó, Nguyễn Du tạo nên những câu thơ tuyệt bút: Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới xa nửa vời”. Nhằm chứng minh cho phán đoán ấy, tác giả đã dẫn vào câu chuyện về người nghệ nhân già, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc “Truyện Kiều” chợt nhổm dậy vỗ đùi chỉ vào trang sách của Nguyễn Du mà thốt lên “Đó chính là từ đại cảnh”.

Như vậy, dòng sông Hương trong lòng thành phố với nhịp điệu chậm rãi, khoan thai như một điệu slow tình cảm đã tạo nên cái thần, cái hồn rất riêng đó là sự khoan thai, dìu dặt, trang trọng.của nhã nhạc cung đình Huế, tạo nên vẻ đẹp rất riêng của kiệt tác văn học dân tộc “Truyện Kiều”.

2.2. Sông Hương khi rời khỏi thành phố Huế

Khi rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc. Tuy nhiên, do đặc điểm địa lý đặc biệt nên thủy trình của con sông đã phải thay đổi. Nó phải chuyển dòng sang hướng đông và như vậy sẽ lại đi qua một góc của thành phố Huế ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đó là đặc điểm địa lý tự nhiên của dòng sông Hương nhưng với sự miêu tả của một trái tim nhạy cảm, sông Hương chính là hiện thân của một người tình đằm thắm, dịu dàng, thủy chung không nỡ rời xa thành phố thân yêu của nó. Nhưng dù có níu kéo đến như thế nào thì đã tới lúc, sông Hương phải rời xa thành phố nên trước lúc giã biệt sông Hương đã dành cho Huế một cái ôm thật nồng thắm: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố Huế để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ”. Rời khỏi Huế rồi như sực nhớ ra điều gì điều gì chưa kịp nói với người tình yêu dấu, sông Hương đột ngột “rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối”. Trong con mắt của người nghệ sĩ tài hoa Hoàng Phủ Ngọc Tường, khúc ngoặt ấy lại là biểu hiện của nỗi “vương vấn”, thậm chí có chút “lẳng lơ kín đáo” của người tình thủy chung và chí tình. Với lăng kính tình yêu, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhận thấy sông Hương ở đây giống như nàng Kiều trong đêm tình tự đã trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề chung thủy. Đây đúng là một phát hiện, một liên tưởng thú vị, độc đáo và đậm màu sắc văn chương của tác giả về dòng sông thân thương của xứ Huế. Hương giang vốn đã đẹp, nay lại càng đẹp hơn, trọn vẹn hơn trong cảm nhận của người đọc. Một vẻ đẹp hài hòa giữa hình dáng bên ngoài với phần tâm hồn, tâm linh sâu thẳm bên trong.

2.3. Sông Hương mang đặc điểm tâm hồn con người xứ Huế

Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn đi sâu khám phá vẻ đẹp của sông Hương trong chiều sâu văn hóa của xứ Huế. Sông Hương không chỉ góp phần kiến tạo nên gương mặt văn hóa Huế khi sản sinh ra nền âm nhạc Huế, những bài Nam ai Nam bình da diết… mà còn được khám phá trong mối quan hệ với con người và dòng sông mang đậm đặc điểm tâm hồn của con người xứ Huế. Bằng quá trình nghiên cứu, tìm hiểu vô cùng nghiêm túc tác giả đã nhận thấy một điều rất đặc biệt: “có một cái gì rất lạ với tự nhiên và giống với con người nơi đây”. Như thế có nghĩa là sông Hương không đơn thuần chỉ là vẻ đẹp tự nhiên mà nó còn là kết đọng rõ nét và đầy đủ của tất cả vẻ đẹp con người xứ Huế, vẻ đẹp của tính cách, tâm hồn Huế. Dòng chảy dịu êm của sông Hương là vẻ đẹp đằm thắm, dịu dàng của con người xứ này. Sự chí tình của Hương giang cũng bắt nguồn từ tính cách con người xứ Huế mềm mại, chí tình, “mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”.

  1. Đánh giá

3.1. Nghệ thuật

Đoạn văn có sự kết hợp hài hoà cảm xúc, trí tuệ, chủ quan và khách quan. Bằng sự quan sát tinh tường, tỉ mỉ, tưởng tượng phong phú, tác giả đã miêu tả sông Hương từ góc nhìn địa lí, văn hóa. Ngôn ngữ trong sáng, phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng nhiều phép tu tư như : So sánh, nhân hoá, ẩn dụ… Tác giả còn vận dụng những tri thức phong phú, những hiểu biết sâu sắc về nhiều mặt như địa lý, thơ ca, âm nhạc… để làm giàu cho giá trị nhận thức của đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung. Đặc biệt, trong đoạn trích sông Hương được cảm nhận nhiều từ góc độ âm nhạc khi được so sánh với người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya, qua khẳng định toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước sông Hương và nhắc đến những bản đàn trong cuộc đời nàng Kiều…

3.2. Nội dung

          Tài năng của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tạo ra hình tượng nghệ thuật về dòng sông Hương thật trữ tình, thơ mộng và lãng mạn. Dòng sông Hương trong trang văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường khiến cho ai từng đọc qua bài bút kí đều có mong muốn được một lần đặt chân đến xứ Huế để đắm chìm trong cảnh sắc thiên nhiên và những câu ca ngọt ngào, da diết.

 

 

3.3. Đánh giá về tình cảm của Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho xứ Huế

Nếu chỉ là cảm xúc rung động nhất thời trước vẻ đẹp của con sông xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường sẽ không thể viết lên được những trang văn mê đắm và rất đỗi tài hoa như thế. Yêu Huế, yêu Hương giang, nhà văn mới có được những rung cảm mãnh liệt để tình cảm đặc biệt ấy hóa thành những dòng chảy trong tâm hồn nhà văn, tạo nên cả cái tôi mê đắm, tài hoa và uyên bác. Bằng con mắt tình yêu, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm hiện lên những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương trong một văn phong tao nhã, hướng nội, tài hoa. Với cảm hứng ngợi ca, bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? như lời cảm tạ của tác giả đối với đất mẹ Huế nơi nuôi dưỡng tâm hồn nhà văn. Tình yêu Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho Hương giang và xứ Huế rộng hơn chính là tình yêu quê hương, đất nước tha thiết.

 

Đoạn số 5:

Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước. Thỉnh thoảng, tôi vẫn còn gặp trong những ngày nắng đem ra phơi, một sắc áo cưới của Huế ngày xưa, rất xưa: màu áo điều lục với loại vải vân thưa màu xanh chàm lồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện, thấp thoáng theo bóng người, thuở ấy các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng. Đấy cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của thiên nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông…

Có một dòng thi ca về sông Hương, và tôi hi vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó: từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ, “Dòng sông trắng – lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, từ tha thướt mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng lên “như kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng trong hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan, nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn, trong thơ Tố Hữu. Và ở đây, một lần nữa, sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều, trong cái nhìn thắm thiết tình người của tác giả Từ ấy.

Có một nhà thơ từ Hà Nội đã đến đây, tóc bạc trắng, lặng ngắm dòng sông, ném mẩu thuốc lá xuống chân cầu hỏi với trời, với đất, một câu thật bâng khuâng:

– Ai đã đặt tên cho dòng sông?

Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên. Từ đó, bình luận về phong cách bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

 

MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

– Dẫn vào đoạn văn và yêu cầu của đề bài: Đoạn trích “Sông Hương là vậy… – Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã làm nổi bật vẻ đẹp của sông Hương, từ đó bộc lộ rõ phong cách bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.

THÂN BÀI

  1. Khái quát

Các dòng sông là cái nôi của những vùng, các nền văn hóa đa sắc màu nên viết về nó các nhà thơ, nhà văn thường viết bằng cả sự am tường, bằng một tình yêu tha thiết, sâu lắng. Từ lâu, con sông Hương của xứ Huế cũng đã rất nhiều lần đi vào các tác phẩm văn hóa, thơ ca. Dòng sông ấy đã từng được nhà thơ Hàn Mặc Tử miêu tả :

“Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng bắp buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay“

Hay một nhà thơ nào đó cũng ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương, xứ Huế:

“Thiếu nữ thẫn thờ vê áo mỏng

Nghiêng nghiêng vành nón đứng chờ ai

Ven dòng sông phẳng con đò mộng

Lả lướt đi về trong nắng mai”

Bởi vậy, viết về dòng sông Hương là một thử thách. May thay, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vượt qua thử thách ấy để tặng cho đời bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Trong tác phẩm này nhà văn đã cảm nhận về đẹp của sông Hương từ nhiều góc độ, phương diện. Nhà văn đã tìm hiểu thủy trình, khám phá vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên sông Hương và nhìn dòng sông trong sự gắn bó với nền văn hóa của xứ Huế, trong lịch sử dựng nước và giữ nước, cảm nhận về nó một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất với một tâm hồn nghệ sĩ đầy rung cảm. Theo đó, đoạn văn này là những cảm nhận của tác giả về vẻ đẹp của sông Hương ở góc độ lịch sử, văn hóa và thi ca.

  1. Vẻ đẹp sông Hương trong đoạn trích

2.1. Sông Hương hùng tráng và trữ tình

Mở đầu đoạn văn, nhà văn khẳng định: “Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu xanh cỏ lá xanh biếc”. Câu văn này đã thể hiện rõ cái tôi nội cảm và bộc lộ cảm nhận của tác giả về vẻ đẹp của sông Hương có sự hòa quyện giữa chất hùng tráng và trữ tình.

Có thể nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn hoá Huế, ông không chỉ nhìn sông Hương ở cảnh sắc thiên nhiên, thấy nó ngày ngày mang phù sa và nguồn nước ngọt trao tặng vô tư cho những cánh đồng Châu Hóa, cho cuộc sống người dân xứ Huế; mà ông còn nhìn sông Hương như là khởi nguồn cho những giá trị tinh thần lịch sử. Dòng sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi…” anh hùng bởi từ góc nhìn lịch sử, sông Hương đã trở thành chứng nhân của lịch sử. Nó chứng kiến bao nhiêu biến thiên mà xứ Huế trải qua như ở đoạn văn trước đó nhà văn đã ngược về quá khứ để khẳng định vai trò của dòng sông Hương trong lịch sử dân tộc. Nó là dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng. Trong những thế kỷ trung đại nó mang tên là linh Giang, đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt. Thế kỉ 18, nó soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ. Thế kỷ 19, nó sống hết lịch sử bi tráng với máu của những cuộc khởi nghĩa. Nó đóng góp cho cách mạng tháng tám bằng những chiến công rung chuyển. Nó bị tàn phá nặng nề trong mùa xuân năm Mậu Thân… Từ đó mà đồng chí Võ Nguyên Giáp đã nói về dòng sông Hương và xứ Huế “Lịch sử đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho tổ quốc”. Từ góc nhìn lịch sử, ngòi bút nhà văn lấp lánh niềm tự hào về lịch sử một dòng sông có cái tên mềm mại, dịu dàng nhưng kiên cường, kiêu hãnh qua thăng trầm lịch sử. Dòng chảy của của sông Hương đã đi trọn vẹn chiều dài của lịch sử dân tộc. Diện mạo và chiều sâu của lịch sử dân tộc đã đem đến cho Sông Hương một tầm vóc kỳ vĩ lớn lao. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường ở đây đã phát hiện ra một vẻ đẹp của dòng sông mà không phải ai cũng nhận thấy. Đó là một vẻ đẹp của một bản anh hùng ca với sức mạnh quật khởi của dân tộc từ thuở lập quốc.

Nhà văn sau đó còn bình luận về cách dòng sông Hương cống hiến cho lịch sử dân tộc. Khi nghe lời gọi của Tổ quốc, sông Hương biết cách “tự hiến đời mình làm một chiến công”. Cũng như những dòng sông khác trên đất nước Việt Nam, cũng như con người Việt Nam, nó mang trong mình vẻ đẹp truyền thống đã làm thành bản sắc văn hóa Việt, như Huy Cận từng khái quát:

Sống vững chãi bốn nghìn năm sừng sững

Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa

Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng

Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa.

Sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi được viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Với lối sử dụng hình ảnh ấy, nhà văn đã nhấn mạnh dòng sông Hương vừa là một bản hùng ca, vừa là một bản tình ca dịu dàng, tươi đẹp. Giữa đời thường, cảnh sắc thiên nhiên sông Hương chính là vẻ đẹp của thiên nhiên quê hương đất nước. Hơn nữa, sông Hương còn là một bản tình ca “Còn non, còn nước, còn dài – Còn về, còn nhớ…”. Đó không chỉ là nét riêng trong vẻ đẹp của dòng sông Hương mà còn là vẻ đẹp của Huế. Cách đặt vế câu“viết giữa màu có lá xanh biếc” của cuối câu cho thấy dù thế nào nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn cảm nhận dòng sông Hương ở vẻ đẹp dịu dàng, trữ tình và thơ mộng.

2.2. Sông Hương gắn liền với nền văn hóa phi vật thể của xứ Huế

Trong cảm nhận tinh tế của nhà văn, sông Hương còn hàm chứa trong nó cả nền văn hoá phi vật thể của Huế. Từ góc nhìn văn hóa ấy mà nhà văn nhận ra Hương giang khi “trở về với cuộc sống bình thường là người con gái dịu dàng của đất nước”. Nhà văn hoài niệm đến khắc khoải khi bắt gặp một sắc màu của chiếc áo cưới ở Huế xưa cũ “màu áo điều lục với loại vải vân thưa màu xanh chàm lồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện” mà các cô dâu Huế mặc sau tiết sương giáng, phát hiện màu áo cưới ấy rất giống với “màu của sương khói trên sông Hương”. Để rồi từ cái sắc màu văn hoá đặc trưng của Huế ấy mà tác giả liên tưởng một cách đầy ngẫu hứng mà rất có lí rằng sắc áo điều lục mà người Huế ưa thích vốn là màu của sương khói trên sông Hương “giống như một tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông”.  Có lẽ, thông qua sự liên tưởng này nhà văn muốn ngợi ca sông Hương vì nó góp phần làm cho Huế trở thành một bức tranh thiên nhiên sơn thuỷ hữu tình, muốn khẳng định sông Hương trong đời thường mang vẻ đẹp dịu dàng của một cô gái Huế, tô đậm vẻ đẹp của dòng sông trong sự gắn bó với văn hóa Huế.  Như vậy, sông Hương đã là một phần trong đời sống tâm hồn của người Huế trầm mặc, lắng sâu.

2.3. Sông Hương là nguồn cảm hứng dạt dào cho thi ca, nghệ thuật

Mặt khác, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn cảm nhận vẻ đẹp của sông Hương ở góc độ thi ca, nghệ thuật, khẳng định sông Hương cũng là cội nguồn của thi ca nghệ thuật. Có biết bao văn nhân, thi sĩ đã từng rung động với dòng sông Hương như Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tản Đà, Tố Hữu… Nhà văn đã tin rằng “có một dòng sông thi ca về sông Hương và tôi hi vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Cao Bá Quát đã từng nhìn sông Hương mà thốt lên rằng: “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”. Tản Đà thấy “dòng sông trắng, lá cây xanh”. Trong thơ Bà Huyện Thanh Quan sông Hương là “nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng”. Sông Hương còn quả thực rất Kiều và mang sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu… Không chỉ có thế, sông Hương còn đi vào thơ của bao nhiêu văn nhân nghệ sĩ yêu xứ Huế khác như: Thu Bồn nhìn dòng nước lững lờ của sông Hương mà bâng khuâng “Con sông dùng dằng con sông không chảy/Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”. Và với Nguyễn Trọng Tạo, Hương giang lãng đãng một bầu khí quyển huyền thoại thi ca giúp nhà thơ thăng hoa những vần mê đắm:

“Con sông đám cưới Huyền Trân

Bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn

Hèn chi thơm thảo nỗi buồn

Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ

Con sông nửa thực nửa mơ

Nửa mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Nguyên”

Như vậy, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem tình yêu đằm thắm lắng sâu và những cảm xúc sôi nổi, say sưa vào những trang viết để mỗi dòng văn thành lời ca, khúc nhạc tâm hồn tôn vinh vẻ đẹp của sông Hương. Như I.Ê-ren-bua đã từng viết : “Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào đại trường giang Von-ga, con sông Von-ga đi ra biển. Lòng yêu nhà, yêu gia đình, yêu miền quê trở thành tình yêu tổ quốc”, tình cảm đối với sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường, xét đến cùng, là tình cảm đối với đất nước, là tấm lòng yêu mến quê hương xứ sở nồng cháy của nhà văn.

2.4. Truy tìm câu trả lời cho câu hỏi đầy khắc khoải: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”

Không chỉ trong đoạn văn này mà cả bài bút kí dường như là cuộc hành trình tìm kiếm cho câu hỏi đầy khắc khoải “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Và cuộc tìm kiếm, lý giải cái tên của dòng sông đã trở thành cuộc tìm kiếm đầy hào hứng và say mê không chỉ vẻ đẹp của diện mạo hình hài mà còn là độ lắng sâu của tâm hồn và rung động.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” vốn là câu hỏi của một nhà thơ Hà Nội khi ngắm nhìn vẻ đẹp của dòng sông Hương. Câu hỏi này còn được lặp lại nhiều lần trong tác phẩm nhằm mục đích lưu ý người đọc về cái tên đẹp của dòng sông: sông Hương (sông thơm). Chính câu hỏi ấy đã khơi lên mạch viết dạt dào cảm xúc về vẻ đẹp thiên phú và đánh động bao nhiêu vốn liếng văn hóa về dòng sông Hương chảy qua cố đô Huế.

Tác giả sau đó đã dẫn dắt người đọc đến với cội nguồn tên gọi của dòng sông ấy,  nhắc đến một giai thoại đẹp mà nhà văn đã phải kỳ công lục tìm “Người làng Thành Chung có nghề trồng rau thơm. Ở đây có một huyền thoại kể rằng vì quá yêu quý con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ sông đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi”. Huyền thoại ấy đã khẳng định cái tên thân thương “sông Hương” hóa ra được bắt nguồn từ tình yêu quê hương đất nước của những người dân xứ Huế. Chính họ là những người đã khai sơn phá thạch, chứng kiến những thăng trầm của xứ Huế, trải qua nhiều giai đoạn phát triển của lịch sử và góp phần kiến tạo nên bản sắc văn hóa, muốn mang cái đẹp, tiếng thơm để gây dựng, vun đắp cho văn hóa, lịch sử của xứ sở. Và cũng chính họ đã là người đã đặt cho dòng sông cái tên đẹp ấy.

Câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” gợi ra bao nhiêu vẻ đẹp của dòng sông nên không thể trả lời vắn tắt trong một vài câu mà phải trả lời bằng cả bài kí dài.

  1. Đánh giá về phong cách bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường

Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên về bút kí, từng được nhà văn Nguyên Ngọc đánh giá là “một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay”. Ông là cây bút tài hoa, uyên bác, kí Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ và thường gắn liền với xứ Huế. Bài kí thể hiện rõ phong cách bút kí của ông ở các đặc điểm:

3.1. Đậm chất Huế: Chất Huế trong bài kí thể hiện ở tình yêu và sự gắn bó sâu sắc của nhà văn với dòng sông quê hương. Vì yêu Huế, yêu sông Hương nên Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chọn sông Hương làm đối tượng chính cho bài kí của mình. “ Phải lòng” dòng sông, nhà văn viết về nó với tất cả sự gắn bó, đắm say của một người con với dòng sông quê hương, với vẻ đẹp của quê hương, xứ sở.

3.2. Sự hòa quyện giữa chất trí tuệ và chất thơ

Chất trí tuệ thể hiện qua sự nghiêm túc, cẩn trọng trong tìm kiếm, phát hiện; sự kết hợp giữa nghị luận và suy tư đa chiều và vốn hiểu biết phong phú trên nhiều lĩnh vực…. Những kiến thức liên ngành đã giúp nhà văn khám phá vẻ đẹp đa dạng của sông Hương trên nhiều phương diện: địa lí, lịch sử, văn hóa…

Chất thơ trong kí Hoàng Phủ Ngọc Tường trước hết thể hiện ở phương diện nghệ thuật: Hình tượng sông Hương được miêu tả bằng ngôn ngữ tinh tế, giàu chất thơ; nghệ thuật so sánh, nhân hóa sáng tạo, những liên tưởng độc đáo,… sử dụng rộng rãi đặc sắc những phép tu từ gợi cảm vốn là quen thuộc trong thơ như so sánh kết hợp với nhân hóa, ẩn dụ. Vẻ đẹp nên thơ của Hương giang được bộc lộ khi Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ tái hiện lại một cách chân thực dòng chảy địa lí tự nhiên của con sông mà quan trọng hơn biến cái thủy trình ấy thành “hành trình đi tìm người yêu” của một người con gái đẹp, duyên dáng và tình tứ. Đây cũng chính là cảm nhận riêng, độc đáo và rất đặc sắc của nhà văn về sông Hương trước khi nó chảy vào lòng thành phố thân yêu. Chất thơ của đoạn kí còn thể hiện rõ qua cái tôi đầy xúc cảm của tác giả. Cảm hứng xuyên suốt trong đoạn trích cũng như trong tác phẩm là niềm say sưa tìm kiếm và khẳng định vẻ đẹp riêng, sức cuốn hút, quyến rũ riêng của con sông xứ Huế. Rõ ràng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem tình yêu đằm thắm lắng sâu và những cảm xúc sôi nổi say sưa phổ vào trang viết để rồi mỗi dòng văn như một bài ca tôn vinh vẻ đẹp của sông Hương. Vì thế cái dễ nhận thấy từ những trang văn là chất thơ, chất trữ tình đậm đà, đằm thắm.

3.3. Lối hành văn hướng nội, xúc tích, lãng mạn và mê đắm

Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện vẻ đẹp của dòng sông ở các lớp trầm tích, văn hóa. Không chỉ cảm nhận vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng mà còn viết về sông Hương từ góc nhìn lịch sử, khai thác vẻ đẹp anh hùng của con sông từ những sự kiện còn vang bóng trong tâm hồn mỗi con người Huế và nhìn sông Hương như một dòng sông khơi nguồn cảm hứng dạt dào cho thi ca. Lối văn hướng nội xúc tích, lãng mạn và mê đắm đã làm nên nét riêng rất độc đáo cho kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.

 

Đoạn số 6:

 Trong bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?, tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhiều lần ví von vẻ đẹp sông Hương:

Lúc ở thượng nguồn: “Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di- gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Nhưng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt có thể lý giải được về mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở.”

Khi về ngoại vi thành phố Huế: “Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới gặp thành phố tương lai của nó.”

Và khi tạm biệt kinh thành Huế: sông Hương “như sực nhớ ra một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình. Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống với con người ở đây; và để nhân cách hóa nó lên, tôi gọi đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và giống như nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả…”

(Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12,

tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, tr198-201)

Phân tích vẻ đẹp hình tượng sông Hương trong những lần miêu tả trên, từ đó làm nổi bật nét tài hoa trong phong cách kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.

 

MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

– Dẫn vào đoạn văn và yêu cầu của đề bài:

THÂN BÀI

  1. Khái quát: Tk các đề trước
  2. Cảm nhận được vẻ đẹp sông Hương qua ba lần miêu tả: Tk các đề trước

– Vẻ đẹp sông Hương trong quan hệ với cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế mang những nét đặc trưng của con người và cảnh vật nơi đây:

+ Sông Hương ở thượng nguồn nguyên sơ, man dại, mãnh liệt và đầy quyến rũ (cô gái Di- gan) nhưng cũng hết sức dịu dàng và trí tuệ bởi chiều sâu nhân cách của một dòng sông lặng lẽ bồi đắp “phù sa” cho văn hóa Huế, góp phần tạo nên và bảo tồn văn hóa của thiên nhiên xứ sở.

+ Sông Hương ở ngoại vi thành phố mềm mại, đương thì xuân sắc với những đường cong gợi cảm và tuyệt mĩ.

+ Sông Hương lúc tạm biệt kinh thành với khúc rẽ ngoặt độc đáo, được khám phá ở chiều sâu tính cách lãng mạn, đa cảm và chung tình.

– Hành trình sông Hương từ thượng nguồn về đến ngoại vi và thành phố Huế là hành trình đầy gian truân và thử thách, từ đó làm nổi bật diện mạo xinh đẹp, dịu dàng và tính cách thủy chung, thâm trầm của dòng sông;

– Vẻ đẹp sông Hương thể hiện niềm yêu da diết, niềm tự hào và kiêu hãnh của tác giả về con sông quê hương nói riêng và xứ Huế nói chung.

  1. Làm nổi bật nét tài hoa phong cách kí Hoàng Phủ Ngọc Tường:

– Vốn ngôn từ đẹp, tao nhã, tinh tế, lịch lãm; những ví von, so sánh nhân hóa giàu chất thơ, chất nhạc, chất họa và chất suy cảm, hướng nội đã làm nên nét thanh tao rất riêng trong chất kí HPNT; sự quan sát và tưởng tượng bằng lăng kính của tình yêu và cái nhìn lãng mạn đã làm nên chất trữ tình riêng của kí HPNT;

– Giọng điệu rất Huế, rất trữ tình và sâu lắng, đầy suy niệm.

 

KẾT BÀI CHUNG

Nguyễn Tuân, một nhà văn cũng chuyên viết kí nhận xét “Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa”. Phải chăng ánh lửa trong kí Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là vẻ đẹp của văn chương được thắp lên từ những con chữ biến hóa như phép màu. Đúng như Maiacốpxki nhận xét về quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ:

Phải đổi lấy hàng ngàn cân quặng chữ

Để thu về một chữ mà thôi

Nhưng chữ ấy làm cho rung động

Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” xứng đáng là một áng văn hay đặc sắc về xứ sở, về tình yêu quê hương đất nước và cũng rất tiêu biểu cho phong cách bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Dòng sông Hương trong văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường khiến cho ai đã từng đọc qua đều mong muốn được một lần đặt chân đến nơi đây, để được đắm mình trong những gì nên thơ nhất của xứ Huế.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *