Đề thi thử THPT QG môn văn số 180

SỞ GD&ĐT BÌNH ĐỊNH
TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRÂN
ĐỀ ĐỀ NGHỊ
KỲ THI THPT QUỐC GIA 2017
Thời gian 120 phút

 
Câu 1 (3 điểm)
Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi nêu ở dưới:
Ngôn ngữ chung là cơ sở để mỗi cá nhân sản sinh ra những lời nói cụ thể của mình, đồng thời lĩnh hội được lời nói của cá nhân khác. Muốn tạo ra lời nói (khi nói, khi viết) để thoả mãn nhu cầu biểu hiện và giao tiếp trong những tình huống cụ thể, mỗi cá nhân phải huy động các yếu tố ngôn ngữ chung (như các từ) và vận dụng các quy tắc hoặc phương thức chung. Mặt khác, khi nghe, khi đọc, mỗi cá nhân cần tiếp nhận, tìm hiểu, lĩnh hội nội dung và mục đích giao tiếp trong lời nói người khác, lúc đó cá nhân cũng cần dựa trên cơ sở những yếu tố chung, những quy tắc và phương thức chung thuộc ngôn ngữ của cộng đồng xã hội.
(Ngữ văn 11, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, tr. 35)

  1. Ngôn ngữ chung của cộng đồng gồm những yếu tố nào? Ai đã tạo ra những yếu tố đó? (0.5 điểm)
  2. Thế nào là nhu cầu biểu hiện, thế nào là nhu cầu giao tiếp? (1.0 điểm)
  3. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân.( 0.5 điểm)
  4. Bài học về trau dồi tiếng Việt mà anh (chị) rút ra từ gợi ý của đoạn văn trên.(1.0 điểm)

Câu 2 (2 điểm)
Viết đoạn văn ( khoảng 200 chữ) trình bày ý kiến của anh/chị về trách nhiệm của thanh niên học sinh trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt .
Câu 3 (5 điểm)
Trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?của Hoàng Phủ Ngọc Tường có đoạn:
…Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hưong vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ toả lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…
(Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2014, tr. 198 – 199)
Cảm nhận của anh /chị, về vẻ đẹp của đoạn văn trên.
—Hết—
 
HƯỚNG DẪN CHẤM
Câu 1: Tùy mức độ bài làm, linh hoạt cho điểm, đảm bảo các ý sau:

  1. Ngôn ngữ chung của cộng đồng gồm ngữ âm, chữ viết, vốn từ, các quy tắc và phương thức ngữ pháp, các biện pháp tu từ. Những yếu tố đó được cộng đồng bản ngữ (cộng đồng dùng chung một ngôn ngữ) tạo nên, gắn với lịch sử hình thành và phát triển của chính ngôn ngữ ấy.
  2. Nhu cầu biểu hiện là nhu cầu tự bộc lộ tư tưởng, tình cảm của cá nhân. Để thoả mãn nhu cầu này, con người có thể sử dụng các hình thức như làm thơ, ghi nhật kí… Nhu cầu giao tiếp là nhu cầu trao đổi thông tin giữa người này với người khác. Hiện nay, nhu cầu này được thoả mãn bằng nhiều hình thức phong phú, chẳng hạn: nói chuyện trực tiếp, nói chuyện qua điện thoại, viết thư hoặc sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin.
  3. Ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân có mối quan hệ qua lại với nhau. Trước hết, cá nhân muốn nói hoặc viết, thì phải sử dụng những yếu tố ngôn ngữ chung, cụ thể là phải dùng hình thức ngữ âm hoặc chữ viết, phải dùng từ để tạo câu, phải biết diễn đạt suy nghĩ của mình bằng các hình thức tổ chức ngôn ngữ mà cộng đồng đã đúc kết thành các quy tắc, các phương thức. Ngược lại, lời nói của cá nhân sẽ góp phần làm sinh động, phong phú ngôn ngữ chung. Nhiều nhà thơ, nhà văn đã có công rất lớn đối với ngôn ngữ dân tộc của mình, chẳng hạn, sếch-xpia đối với tiếng Anh, Pu-skin đối với tiếng Nga, Nguyễn Du đối với tiếng Việt…
  4. Đoạn văn bản giúp ta nhận thức rõ ràng mối quan hệ giữa ngôn ngữ chung với lời nói cá nhân. Bản thân mỗi người, muốn sử dụng ngôn ngữ dân tộc mình với hiệu quả cao nhất, cần thường xuyên học tập, tích luỹ, trau dồi để có được vốn từ phong phú, biết vận dụng các quy tắc giao tiếp thuần thục và nắm vững các phương thức biểu đạt.

Câu 2:
– Yêu cầu kỹ năng: Viết đoạn nghị luận, diễn đạt trong sáng, không mắc các lỗi.
– Yêu cầu nội dung: học sinh trình bày được trách nhiệm của thanh niên học sinh trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt với những ý sau:
+ Có tình cảm yêu mến và ý thức quí trọng tiếng Việt
+ Có những hiểu biết về chuẩn mực và qui tắc của tiếng Việt ở các phương diện phát âm, chữ viết, dùng từ , đặt câu, tạo lập văn bản, giao tiếp
+ Có những cách sử sụng mới, sáng tạo riêng
+ Phê phán những biểu hiện làm ảnh hưởng tới sự trong sáng của tiếng Việt như sử dụng tiếng lóng, ngôn ngữ thời @, lạm dụng tiếng nước ngoài…
Câu 3:
Bài viết có thể triển khai các ý chính sau:
–   Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một tặng phẩm xứng đáng mà Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho sông Hương, cho Huế. Bút kí được viết bằng một bút pháp tỉnh táo mà đắm say, chặt chẽ mà bay bổng. Tính trữ tình, tính triết lí, tính khoa học thống nhất với nhau, tạo nên một áng văn dễ làm mê đắm lòng người.Chỉ qua đoạn trích từ “Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi…” đến “giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”, ta đã có thể cảm nhận được điều này.
–   Nếu cả thiên bút kí kể về toàn bộ hành trình của sông Hương từ đại ngàn về châu thổ rồi xuôi ra biển cả thì riêng đoạn văn này chỉ nói về một chặng đường mà sông Hương đã đi qua – chặng nó uốn lượn giữa miền trung du “lô xô” những “đám quần sơn”. Đây cũng là chặng đường rất đáng nhớ, chuẩn bị tiền đề cho một thay đổi lớn: sông Hương, từ “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” trở thành “người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”.
–   Trước hết, bằng cái nhìn của một người biết rõ sự tồn tại về phương diện địa lí của đối tượng, nhà văn đã vẽ ra một “bản đồ” thật chi tiết, miêu tả đường đi của sông Hương với những đợt “chuyển dòng”, “uốn mình” liên tục theo các hướng khi nam bắc, khi tây bắc, khi đông bắc… Bằng cách đó, ông đưa lại một cái nhìn bao quát về sông Hương tại “toạ độ” trung du với các điểm xác định: ngã ba Tuần, điện Hòn Chén, bãi Nguyệt Biều, Lương Quán, chùa Thiên Mụ, Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo… Tất cả như muốn làm rõ “một cuộc tìm kiếm có ý thức” của sông Hương sau khi đã ròi bỏ đại ngàn. Hoá ra, sự tỉ mỉ, khoa học trong cách đánh dấu các vị trí trên bản đồ lại phục vụ rất đắc lực cho việc miêu tả tính cách hay khí chất đang định hình của sông Hương. Việc làm này tương tự việc các nhà văn khác đi tìm những chi tiết thật đắt để miêu tả hành trình số phận của nhân vật. Theo từng dòng văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương đã thực sự ám ảnh độc giả như một con người đích thực, với những “chuyển”, “vòng”, “uốn”, “vấp”, “vẽ”, “ôm”… đầy xúc cảm.
–   Kiến thức khoa học nếu sử dụng không chắc tay dễ khiến bài bút kí khô khan, nhưng trong trường hợp này, nó đã được đưa vào hết sức nghệ thuật, làm cho mạch văn mềm mại, trữ tình mà không hề dễ dãi. “Sắc nước trở nên xanh thẳm” của Hương giang đoạn qua Ngọc Trản được lí giải là do con sông đang vượt qua một vực sâu. Sự đổi sắc của nền trời “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” phía tây nam thành phố Huế được cắt nghĩa bằng lí do phản quang ánh nắng của những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo. Đọc đoạn văn, ta không chỉ được thấy mà còn được hiểu, nhờ sự giải thích khéo léo, tự nhiên nhưng rất thuyết phục của tác giả.
–   Trong lí luận hội hoạ cổ phương Đông, khi khái quát về cách diễn tả xa gần, người ta thường dùng các thuật ngữ: bình viễn, thâm viễn, cao viễn, về bức tranh mà Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vẽ ra trước độc giả trong đoạn văn này, ta hoàn toàn có thể nói nhà văn đã rất thành thục trong việc làm nổi bật các khía cạnh cao, sâu, xa ấy của cảnh. Từ chữ nghĩa trên mặt giấy, một hình tượng hiện lên sống động, đầy cảm giác.
–   Trong đoạn trích, câu văn rất dài sau đây có ý vị thật đặc biệt, đã dồn nén được nhiều ấn tượng: “Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ toả lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. Hàng loạt ấn tượng về “đám quần sơn”, về “những lăng tẩm đồ sộ”, “những rừng thông u tịch” quyện vào nhau. Từ ngữ chỉ đặc điểm của đối tượng này cũng đồng thời ám gợi đặc điểm của đối tượng khác, tạo nên một vùng cảm giác phức hợp soi chiếu vào nhau. Đây là một kiểu biểu đạt rất thơ: trùng điệp, luyến láy và biến hoá; vừa tô đậm, xoáy sâu, vừa tạo ra những vùng nhoè, mờ, mở rộng không gian và khả năng liên tưởng cho người đọc.
–   Câu cuối của đoạn văn vô cùng gợi cảm: “Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…”. Câu văn gợi nhớ những kiểu kết thúc các khổ thơ, đoạn thơ trong một bài thơ: xoa dịu tâm trí vốn chật căng những ấn tượng, tạo phút giây chùng lắng để người đọc chuẩn bị tâm thế tiếp nhận một đợt sóng mới của cảm xúc.
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG
ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA NGỮ VĂN

,

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *