SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LẠNG SƠN TRƯỜNG THPT CHUYÊN CHU VĂN AN |
ĐỀ THI ĐỀ XUẤT TRẠI HÈ HÙNG VƯƠNG NĂM 2019 |
Môn: Ngữ văn 11 |
Câu 1. (8,0 điểm)
Đọc các ngữ liệu sau:
Thế giới thành cái chợ mất rồi. Cái yên ả êm đềm bị bài xích xua đuổi dần khỏi những chung cư đường phố. Sự yên bình đành rời bỏ chốn đô hội để tìm về nương náu trú ngụ ở những chốn xa. Và những ham hố, thù hận, u mê, những phụ bạc, thất thoát, phản trắc, những vết thương bị gây ra và tự gây ra cũng luôn băm nát lòng mình, chiếm đoạt mất thư thái trong tâm mình. Bất an là thường hằng, thư thái chỉ là thoáng chốc. Hành trình tìm kiếm hạnh phúc trong bề sâu là tìm kiếm thư thái mà có phải lúc nào mình cũng hay biết đâu…
(Tự tình cùng cái đẹp – Chu Văn Sơn)
Minh triết phát sinh từ sự yên lặng… Chỉ trong vắng lặng, con người mới ý thức năng lực trong mình và chung quanh mình. Chỉ trong yên lặng các quyền năng tiềm ẩn mới phát sinh và nảy nở. Tâm có an thì việc bên ngoài mới không vọng động, dục vọng mới chịu yên tĩnh…Con người cứ tìm kiếm hạnh phúc ở bên ngoài…Con người cần khám phá rằng, hạnh phúc ở trong tâm mình. Hiện nay phần lớn đều tìm kiếm hạnh phúc ở bên ngoài nhưng ngoại cảnh chỉ đem đến sự giải trí trong chốc lát thay vì hạnh phúc vô biên.
(Hành trình về phương Đông – Baird t.Spalding)
Qua gợi ý từ các ngữ liệu trên, hãy bình luận về con đường tìm kiếm hạnh phúc đích thực của con người trong xã hội hiện nay.
Câu 2. (12,0 điểm)
Nhà văn Pháp Buy – phông từng phát biểu:
Một nhà văn lớn quyết không thể chỉ mang một con dấu.
(Dẫn theo: Lí luận văn học, tập 3 – Phương Lựu (chủ biên),
NXB Đại học sư phạm, 2009, tr.90)
Bằng hiểu biết của bản thân về văn học, anh/chị hãy giải thích và làm sáng tỏ ý kiến trên.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LẠNG SƠN TRƯỜNG THPT CHUYÊN CHU VĂN AN |
HƯỚNG DẪN CHẤM ĐỀ THI ĐỀ XUẤT TRẠI HÈ HÙNG VƯƠNG NĂM 2019 |
Môn: Ngữ văn 11 |
Câu | Nội dung | Điểm |
I. Yêu cầu về kĩ năng: – Thí sinh biết cách làm bài nghị luận xã hội về một tư tưởng đạo lý đặt ra trong đoạn văn bản. – Bài viết có bố cục rõ ràng, các luận điểm, luận cứ xác đáng – Vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận như giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, so sánh… – Diễn đạt trôi chảy, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. II. Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có nhiều cách trình bày khác nhau, song cần làm rõ những nội dung cơ bản sau: |
||
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận | 0,5 | |
2. Giải thích ngữ liệu 2.1. Quan điểm của cố nhà nghiên cứu phê bình văn học Chu Văn Sơn: – Theo tác giả, hành trình tìm kiếm hạnh phúc trong bề sâu là tìm kiếm thư thái mà có phải lúc nào mình cũng hay biết đâu….: + hạnh phúc bề sâu là hạnh phúc đích thực, điều con người thật sự cần; + Con người luôn tìm kiếm hạnh phúc đích thực nhưng không phải ai cũng nhận ra rằng đó là quá trình đi đến sự thư thái bình yên. Nguyên nhân: do cuộc sống hiện tại đang đánh mất dần sự bình yên bởi những ham hố, thù hận, u mê, những phụ bạc, thất thoát, phản trắc,… 2.2. Quan điểm của Baird t.Spalding – Tác giả nêu ra những ý nghĩa của trạng thái tâm an, yên lặng như là biểu hiện của hạnh phúc: từ yên lặng, minh triết phát sinh; từ vắng lặng, con người ý thức được năng lực của mình và chung quanh mình; quyền năng tiềm ẩn phát sinh và nảy nở; dục vọng yên tĩnh. Từ đó, đi đến kết luận: con người cần khám phá rằng, hạnh phúc ở bên trong mình. => Điểm thống nhất giữa hai tác giả: con đường tìm kiếm hạnh phúc đích thực là quá trình tìm kiếm chính mình, khiến bản thân thư thái, bình yên thay vì trông đợi vào những biến động niềm vui bên ngoài. |
2,0 | |
3. Bình luận về “con đường đi đến hạnh phúc đích thực” – Tất cả chúng ta đều mong muốn có hạnh phúc, đều tích cực tìm kiếm nó nhưng liệu chúng ta có đạt được đến hạnh phúc đích thực? Hay chỉ là cảm giác vui sướng, thỏa mãn tạm thời. Hạnh phúc đích thực là có được cảm giác tích cực bền vững, còn hạnh phúc không đích thực có thể hiểu là những khoái lạc trong chốc lát. – Con người thường tìm kiếm hạnh phúc bằng nhiều con đường khác nhau, nhưng tựu chung lại có hai con đường chính: tìm kiếm bên ngoài mình và tìm kiếm bên trong mình. Tìm kiếm bên ngoài có thể hiểu là số tiền chúng ta kiếm được, địa vị chúng ta phấn đấu, quá khứ tươi đẹp đã qua hay tương lai màu hồng đang đến…; còn tìm kiếm bên trong là sự yên bình, yên lặng, vắng lặng, yên ả, êm đềm, thư thái là cảm nhận chủ quan của riêng mình trong hiện tại. – Thí sinh có thể bày tỏ quan điểm đồng tình hoặc không đồng tình đối với quan điểm của hai học giả, đưa ra sự lựa chọn của mình. Tuy nhiên cần đưa ra những lí lẽ và và dẫn chứng thuyết phục. Nếu lựa chọn: con đường tìm kiếm bên trong là con đường đi đến hạnh phúc đích thực, thí sinh có thể đưa ra một số lí lẽ sau: + Hạnh phúc là cảm nhận chủ quan của con người, mức độ và tiêu chí để có được cảm giác thỏa mãn, sung sướng của con người là khác nhau. + Khi chọn con đường tìm kiếm bên trong để có được hạnh phúc, con người sẽ chủ động, tự tin thay vì lo lắng bất an và tự ti. + Hạnh phúc dựa vào những điều bên ngoài mình chỉ đem lại những niềm vui thoáng qua vì hiện tại luôn thay đổi, cái mới xuất hiện và thay thế cái cũ rất nhanh, con người sẽ luôn phải miệt mài chạy theo nó. + Các sự vật bên ngoài có thể mang đến chúng ta niềm vui, sự hứng thú nhưng có khi lại gây cho chúng ta cảm giác lo lắng, bất an, sợ hãi, đau khổ. Con người càng ham muốn lại càng sợ hãi, càng sợ hãi lại càng đau khổ vì khi đạt được rồi lại ham muốn những thứ khác nữa. |
4,0 | |
4. Bình luận mở rộng: – Ai cũng mong muốn có được hạnh phúc, tìm kiếm hạnh phúc nhưng không biết thật sự thế nào là hạnh phúc và phương tiện để có được hạnh phúc. – Khi con người còn là nô lệ của dục vọng, còn lấy những điều bên ngoài mình (địa vị, danh tiếng, tiền bạc…) làm điểm tựa và phương tiện để đạt được hạnh phúc thì chúng ta sẽ lầm đường lạc lối. – Muốn có hạnh phúc thật sự, cần phải hiểu mình, giữ cho cuộc sống của mình tự tại, an lạc, vượt lên trên cám dỗ và dục vọng. |
0,75 | |
5. Bài học nhận thức, hành động: – Là một người trẻ, cần tỉnh táo để không cuốn theo những vòng xoáy lợi danh phù phiếm, không chạy theo những giá trị vật chất phù du. – Cần có trạng thái tâm hồn an nhiên; tâm thế sống tích cực, chủ động; biết chia sẻ và yêu thương. Khi có được sự bình an trong tâm hồn, chúng ta sẽ đạt được hạnh phúc đích thực. |
0,75 | |
* Lưu ý: Trong quá trình bàn luận, thí sinh cần kết hợp hài hòa giữa lí lẽ và dẫn chứng minh họa để tăng sức thuyết phục cho lập luận. | ||
Câu 2 | I. Yêu cầu chung: Hiểu đúng vấn đề, nắm được cách làm bài văn nghị luận văn học. Biết phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề. Bài viết nêu được ý kiến riêng, có sức thuyết phục. Bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ. Hành văn trôi chảy. Văn viết có cảm xúc. Không mắc các lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp, chính tả. | |
II. Yêu cầu cụ thể: Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các yêu cầu sau: | ||
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận | 0,5 | |
2. Giải thích ý kiến – con dấu: + Vật dụng tạo ra những dấu hiệu riêng để phân biệt giữa các tổ chức, cá nhân với nhau. + Ẩn dụ chỉ nét riêng, độc đáo, đậm nét, mang tính bản quyền của mỗi tác giả thể hiện trong sáng tác của họ. Đó chính là cá tính sáng tạo, phong cách nghệ thuật của nhà văn. – không thể chỉ mang một con dấu: phong cách nghệ thuật của nhà văn không phải, không thể là bất biến mà cần có sự vận động, đổi mới, phát triển đa dạng. => Ý kiến của Buy – phông nhấn mạnh: Nhà văn lớn là nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo, riêng biệt, không thể trộn lẫn; những nét phong cách đó vừa ổn định, thống nhất lại vừa đa dạng, phong phú, mới mẻ. |
1,5 | |
3. Bình luận – Vì sao nhà văn cần có phong cách riêng? + Do văn học nghệ thuật là hoạt động sáng tạo có tính chất cá thể. Nếu cá tính của nhà văn mờ nhạt, không tạo được tiếng nói riêng, giọng điệu riêng thì tác phẩm sẽ không có chỗ đứng trong đời sống văn học. + Do mong muốn khẳng định cái tôi sáng tạo của người nghệ sĩ. Người nghệ sĩ ý thức được rằng việc tạo lập được một thế giới nghệ thuật mới mẻ, riêng biệt, độc đáo chính là cống hiến có giá trị của bản thân với cuộc đời, góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần cho xã hội. – Vì sao phong cách của một nhà văn cần có sự đổi mới, phát triển phong phú, đa dạng + Cũng do đặc trưng của văn học nghệ thuật, nếu việc lặp lại người khác là điều tối kị thì lặp lại chính mình cũng là điều độc giả khó chấp nhận: “Nếu như đó là một nhà văn cũ đã quen thuộc, thì câu hỏi không phải Anh ấy là người như thế nào? mà sẽ là: Nào, anh có thể cho tôi thêm một điều gì mới?” (L. Tônxtôi) + Do thế giới quan, nhân sinh quan, tư tưởng nghệ thuật, năng lực sáng tạo của nhà văn có sự biến đổi nên phong cách nghệ thuật của nhà văn cũng vận động, đổi mới theo. + Do ít nhiều chịu sự chi phối của phong cách thời đại nên phong cách nhà văn cũng có sự vận động, biến đổi. – Sáng tạo vừa là yêu cầu, vừa làm nên vị trí danh dự của nhà văn, sức sống lâu bền của nhà văn trong lòng độc giả. Sáng tạo nghệ thuật của mỗi tác giả làm nên tính phong phú, đa dạng, giàu bản sắc của các nền văn học. Và sự vận động, đổi mới của phong cách tác giả chính là yếu tố quan trọng góp phần vào sự phát triển của lịch sử văn học. |
2,5 | |
4. Chứng minh, phân tích – Thí sinh có quyền lựa chọn một hoặc một số tác giả lớn trong hoặc ngoài chương trình để phân tích, chứng minh, nhưng phải thực sự là tác giả tiêu biểu, phù hợp với vấn đề cần nghị luận. – Trong quá trình phân tích, chứng minh cần làm rõ: + Tác giả đó có phong cách nghệ thuật độc đáo như thế nào. + Sự vận động, đổi mới, phát triển trong phong cách nghệ thuật của tác giả đó. – Ví dụ: Nguyễn Tuân + Những điểm ổn định, nhất quán trong phong cách Nguyễn Tuân: ++ Quan sát, khám phá và diễn tả thế giới nghiêng về phương diện văn hóa thẩm mĩ; ++ Quan sát, khám phá và diễn tả con người nghiêng về phương diện tài hoa nghệ sĩ; ++ Quan niệm cái đẹp là những hiện tượng gây ấn tượng sâu đậm, đập mạnh vào giác quan nghệ sĩ. ++ Sử dụng thể văn tùy bút hết sức phóng túng với nhân vật chính là “cái tôi” rất mực tài hoa uyên bác. ++ Văn Nguyễn Tuân giàu hình ảnh, nhạc điệu với một kho từ vựng phong phú, chính xác; nhiều tìm tòi mới lạ trong cách dùng từ, đặt câu. + Sự vận động, đổi mới, phát triển trong phong cách Nguyễn Tuân: ++ Trước cách mạng: quan niệm cái đẹp chỉ có trong quá khứ và tài hoa nghệ sĩ chỉ có ở những con người xuất chúng, thuộc thời trước còn vương sót lại; tìm cảm giác mạnh ở quá khứ, ở chủ nghĩa xê dịch, đời sống trụy lạc…; thể văn tùy bút thiên về diễn tả nội tâm của “cái tôi” chủ quan. ++ Sau cách mạng: cái đẹp có cả ở quá khứ, hiện tại cũng như tương lai và tài hoa có thể có cả ở nhân dân đại chúng; tìm cảm giác mạnh ở những phong cảnh đẹp, hùng vĩ của thiên nhiên đất nước và những thành tích của nhân dân trong chiến đấu và xây dựng; thể văn tùy bút có pha chất kí với bút pháp hướng ngoại để phản ánh hiện thực, ghi chép thành tích chiến đấu, xây dựng của nhân dân. |
5,5 | |
5. Đánh giá, mở rộng, nâng cao – Ý kiến hoàn toàn đúng đắn. Nghệ sĩ lớn là người sở hữu phong cách nghệ thuật độc đáo một cách đa dạng, bền vững mà luôn luôn đổi mới. – Ngoài sự ổn định, độc đáo, phong phú, mới mẻ, phong cách nghệ thuật còn cần có phẩm chất thẩm mĩ, phải đem đến cho người đọc sự hưởng thụ thẩm mĩ dồi dào trên cả hai phương diện nội dung và hình thức. Nếu không có phẩm chất này, sự thể hiện của nhà văn trên trang giấy chỉ là sự quái gở chứ không phải là cá tính sáng tạo. – Ý kiến có ý nghĩa định hướng sâu sắc cho cả người sáng tác và người tiếp nhận văn học: + Với nhà văn: Câu nói có ý nghĩa nhắc nhở người nghệ sĩ trong quá trình sáng tạo nghệ thuật phải luôn chú ý hình thành và xây dựng phong cách nghệ thuật của riêng mình, luôn “làm mới” phong cách đó trong lòng độc giả, từ đó có những đóng góp riêng trên nhiều phương diện cho văn học, tạo nên một nền văn học phong phú, giàu giá trị cho dân tộc… + Với người đọc: Câu nói có ý nghĩa định hướng cho người tiếp nhận một tiêu chí quan trọng để thẩm bình các tác phẩm văn chương, để đánh giá một tác giả: nhà văn tài năng nhất định phải có phong cách nghệ thuật độc đáo, mới mẻ và phong phú, đa dạng. |
2,0 | |
* Lưu ý: Có thể chấp nhận cả những bài làm có cách nhìn nhận vấn đề theo quan điểm riêng và có hệ thống ý riêng không giống với đáp án, với điều kiện phải có căn cứ xác đáng và lí lẽ thuyết phục. |
Người ra đề và thẩm định:
- Vi Minh Hiền
- Hoàng Thị Khánh Xuân