ĐỀ THAM KHẢO THEO CẤU TRÚC CỦA BỘ GD&ĐT
PHẦN ĐỌC HIỂU (4.0 điểm)
Đọc văn bản sau:
Cha tôi thế hệ 5X, chớm già. Sinh năm Canh Dần, theo tuổi bà mụ, tính đến nay cha vừa tròn năm mươi chín tuổi. Hơn nửa thế kỷ có mặt trên đời thì bốn mươi năm cha mặc áo nhà binh, cầm súng và xa nhà. Cha tôi lấy vợ muộn và lại muộn đường con cái bởi đi chinh chiến hết miền Nam rồi sang Campuchia đến năm 1989 mới về nước, sau ở lì Tây Nguyên thỉnh thoảng mới về nhà…..
(…..) Cha trở về, cha mang theo nguyên hình vị đại tá tại ngũ. Sáng mới năm giờ, cha đã gọi tôi dậy lên sân thượng tập thể dục. Cha hô một hai, một hai, con cũng hô một hai… một hai… đến mức sáng bảnh bà hàng phố ngó đầu sang bảo: “Nhà mày đang huấn luyện tân binh à?”. Mẹ tôi không giận cứ cười ngặt nghẽo.
Cha tôi đọc báo nghe đài, xem ti vi. Ông càng lo cho tôi, đứa con trai độc nhất. Nó mà dây vào nghiện hút thì không những đời nó tàn mà cả nhà khổ, ông sẽ mất con. Lúc nào, cha tôi cũng cảm thấy bất ổn. Đi ra đường thì sợ tai nạn giao thông, về nhà thì chỉ sợ con hư hỏng, sợ vợ làm ăn đổ bể… Suốt cả đời, cha tôi quen rèn luyện người khác, quen chăm lo người khác nên nó ngấm vào máu, thành thuộc tính cố hữu rồi.
Tối, cha bắt cả nhà đi ngủ sớm. Riêng điểm này thì tôi khó chịu lắm, cứ mặt nặng mày nhẹ với cha. Bấy lâu nay quen sống tự do, tôi học hành ấm ớ rồi lướt web, chơi game, hoặc chat với mấy đứa “chíp con” cùng lớp đến một, hai giờ sáng. Một tuần, mẹ tôi sáu ngày đến vũ trường nhảy nhót, hoặc đi uống cà phê đến khuya mới về. Chị Mai mải xem phim Hàn Quốc liên miên. Cái thứ phim toàn khóc lóc, thất tình, ung thư, hoặc bệnh máu trắng rồi ân hận, sám hối… có gì đáng đồng tiền bát gạo mà lấy mất thời gian của chị tôi đến thế? Cha về. Cha thiết quân luật. Đừng hòng ai thức khuya quá mười một giờ đêm. Cha bảo: “Cứ như đơn vị bố thì chín giờ rưỡi là kèn báo ngủ đã tèn teng… tèn teng… Anh nào có muốn đọc nốt bài báo cũng không được vì trực ban… tắt điện”. Chị Mai tôi than thở: “Cứ thế này thì tao đến phải lấy chồng mất thôi, chạy trốn vào nhà bà mẹ chồng có khi còn tự do hơn”.
Tuy có ca thán về cha, nhưng chị Mai thương cha vô cùng. Cái dạo chị mới năm sáu tuổi, cha về phép. Một cái khung xe đạp, một con búp bê tóc vàng, vài mảnh vải cho vợ con; vậy mà cả nhà vẫn đầm ấm, hạnh phúc, vui vẻ. Cha rất quý con gái. Ngày ấy, gia đình tôi chưa chuyển lên Hà Nội ở. Chiều chiều, cha tôi dẫn con gái đi dọc triền đê nhìn đồng quê sông nước. Hình ảnh cha vận sắc phục nhà binh, đeo quân hàm đỏ chói, bàn tay to dầy thô dắt đứa con gái nhỏ bé lích chích đi tha thẩn, nhàn hạ, thanh bình trên triền đê đầy hoa cỏ may cứ đi theo chị tôi suốt tuổi thơ đến bây giờ. Nhưng, ám ảnh, sợ hãi nhất là khi cha khoác ba lô trả phép. Ngày ấy, bên chiến trường Campuchia đánh bọn Pôn Pốt vẫn đang ác liệt. Cha phải đi, bên ấy có nhiều việc đang chờ. Con gái và cha vừa ấm hơi, quen nhau thì cha đã ra đi. Cha không muốn mẹ đưa ra tận ga tàu, cha sợ những giọt nước mắt sụt sùi. Mẹ và chị tôi tiễn chân cha ra đầu làng. Cha âu yếm nhìn vợ, rồi ôm hôn con gái, cha bảo mẹ tôi: “Em và con về đi”. Cha thả con gái xuống và quay lưng rảo bước, những bước chân dài đạp trên đá mạt rào rạo, vội vã, thỉnh thoảng quay lại vẫy vẫy tay. Bỗng chị tôi khóc thét lên và cùn cụt chạy theo cha. Cha tôi quay lại ôm choàng lấy con gái. Nước mắt chị tôi nhoen nhoét vào gương mặt dãi dầu từng trải của cha. Mẹ tôi bảo: “Hay anh ở lại, mai hãy đi”. Cha tôi bảo: “Em đừng buồn. Anh mà ở lại thì anh không đi được nữa. Thôi nào con, cho bố đi nào”. Cha chuyền tay trao con gái cho vợ rồi quay gót. Lần này, bước chân ông quả quyết, thật nhanh, không ngoái đầu nhìn lại. Mẹ và chị tôi thầm thũi khóc nhìn bóng cha tôi cứ xa dần, mờ dần.
Hầu như tôi không có kỷ niệm ấu thơ với cha. Cha nhẹ nhàng với con gái bao nhiêu thì nghiêm khắc với con trai bấy nhiêu. Hễ lần nào tôi đi học luyện thi về là cha hỏi han từng li từng tí: “Hôm nay con học môn gì? Con có tiếp thu được không?..”. Tất nhiên, tôi khó chịu ra mặt, trả lời qua loa đôi chút. Lúc cha chưa về, mẹ chẳng bao giờ xét nét tôi như thế.
(Trích truyện ngắn Cha tôi – Sương Nguyệt Minh)
Trả lời câu hỏi:
Câu 1. Câu chuyên Cha tôi được trần thuật theo điểm nhìn của ai?
Câu 2. Những chi tiết nào cho thấy cha tôi là vị đại tá tại ngũ?
Câu 3. Trong văn bản, người cha hiện lên như thế nào?
Câu 4. Cách giáo dục và sự quan tâm của cha trong đoạn trích, theo anh/chị có phù hợp với xã hội hiện đại hay không? Vì sao?
Câu 5. Giá trị tư tưởng của truyện ngắn Cha tôi mà Sương Nguyệt Minh gửi gắm có ý nghĩa như thế nào với đời sống hiện nay?
PHẦN VIẾT (6.0 điểm)
Câu 1. ( 2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) làm rõ tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích sau:
Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều
Người lên ngựa, kẻ chia bào(1)
Rừng phong(2) thu đã nhuộm màu quan san(3).
Dặm hồng(4) bụi cuốn chinh an(5),
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
(Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, NXB Hội nhà văn, 2002, tr. 122)
Chú thích:
- Bào: áo, thường thường trong khi ly biệt, người ta thường hay nắm lấy áo nhau, tỏ tình, quyến luyến. Chia bào tức là buông áo.
- Phong: một loại cây ở Trung Quốc, lá chia ra nhiều cành, gần giống lá cây thầu dầu ở bên ta, đến mùa thu thì sắc lá hóa đỏ.
- Quan san: quan ải, núi non, thường được dùng để chị sự xa xôi, cách trở.
- Dặm hồng: dặm đường đi giữa bụi hồng.
- Chinh an: chỉ việc đi đường xa.
Câu 2. (4,0 điểm)
Nhà bác học Acsimet từng nói: “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nâng bổng trái đất đất lên”.
Nếu được chọn một điểm tựa của cuộc đời mình, anh/chị sẽ chọn điểm tựa nào? Hãy viết một bài văn (khoảng 600 chữ) bàn luận về sự lựa chọn đó.
ĐÁP ÁN
Phần | Câu | Nội dung | Điểm |
I | ĐỌC HIỂU | 4.0 | |
|
1 | Điểm nhìn: nhân vật tôi | 0.5 |
2 | Những chi tiết cho thấy cha tôi là vị đại tá tại ngũ:
– bốn mươi năm cha mặc áo nhà binh, cầm súng và xa nhà. – đi chinh chiến hết miền Nam rồi sang Campuchia – Sáng mới năm giờ, cha đã gọi tôi dậy lên sân thượng tập thể dục. Cha hô một hai, một hai. – cha tôi quen rèn luyện người khác. – cha thiết quân luật. Đừng hòng ai thức khuya quá mười một giờ đêm – hình ảnh cha vận sắc phục nhà binh… |
0.5 | |
3 | Trong văn bản, người cha hiện lên là:
– Giàu tình yêu thương, luôn lo lắng cho con. – Nghiêm khắc trong cách giáo dục con – Yêu nước, sống có trách nhiệm với tổ quốc… |
1.0 | |
4 | – Trình bày quan điểm của cá nhân: đồng tình/không đồng tình/ kết hợp cả hai ý kiến.
– Lí giải: Nếu chọn đồng tình thì có thể lí giải như sau: + Xã hội hiện đại với rất nhiều cám dỗ, nếu không có sự giáo dục nghiêm khắc và sự quan tâm, lo lắng của người cha, con sẽ dễ hư hỏng, sa ngã, trở thành gánh nặng cho gia đình, xã hội. + Thể hiện tình yêu thương, sự quan tâm, chăm sóc của cha mẹ với con cái, nhờ đó con mới trưởng thành, có ích cho xã hội… |
1.0 | |
5 | – Giá trị tư tưởng của truyện ngắn: thể hiện tình cảm gia đình, tình yêu thương, sự quan tâm, chăm sóc của người cha với con.
– Ý nghĩa: + Nhận thức được tình cảm mà cha mẹ dành cho con vô bờ bến. + Thấu hiểu, đồng cảm với nỗi lo của cha mẹ. + Biết trân trọng tình cảm gia đình, yêu thương, hiếu thảo với cha mẹ. |
1.0 | |
II | VIẾT | 6,0 | |
|
1 | Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) làm rõ tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều – Truyện Kiều, Nguyễn Du. | 2.0 |
a. Xác định được về hình thức, dung lượng của đoạn văn (khoảng 200 chữ). Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng- phân- hợp; song hành hoặc móc xích. | 0.25 | ||
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều. | 0.25 | ||
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề cần nghị luận.
Xác định được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề cần nghị luận, sau đây là một số gợi ý: – tâm trạng lưu luyến, bịn rịn. – tâm trạng đau đớn, nuối tiếc. – tâm trạng cô đơn, buồn bã, bất lực…. |
0.5 | ||
d. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu sau:
– Lựa chọn được thao tác lập luận, phương thức biểu đạt hợp lý để triển khai vấn đề. – Trình bày rõ quan điểm và hệ thống ý. – Lập luận chặt chẽ, thuyết phục, lí lẽ xác đáng, bằng chứng hợp lý. |
0.5 | ||
e. Chính tả, ngữ pháp
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt. |
0.25 | ||
g. Sáng tạo: Bài viết có giọng điệu riêng; cách diễn đạt sáng tạo, văn phong trôi chảy. | 0.25 | ||
2
|
Nhà bác học Acsimet từng nói: “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nâng bổng trái đất đất lên”. Nếu được chọn một điểm tựa của cuộc đời mình, anh/chị sẽ chọn điểm tựa nào? Hãy viết một bài văn (khoảng 600 chữ) bàn luận về sự lựa chọn đó. | 4.0 | |
a. Đảm bảo đúng kiểu bài văn nghị luận xã hội: bố cục 3 phần: Mở bài nêu vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài khái quát được vấn đề. | 0.25 | ||
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: lựa chọn một điểm tựa của cuộc đời: gia đình/ tri thức/ niềm tin… | 0.5 | ||
c. Triển khái vấn đề nghị luận:
HS vận dụng phối hợp các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ quan điểm điểm tựa được lựa chọn. Có thể triển khai theo hướng sau: * Giải thích: – Điểm tựa: là một điểm cố định mà nhờ nó con người có thể nương vào, tựa vào, làm chỗ dựa chính. Ở đây có thể hiểu là nơi con người có thể dựa vào để tìm thấy yên bình, hạnh phúc, để không chênh vênh, gục ngã. – Nêu sự lựa chọn của bản thân: * Phân tích, chứng minh: Nếu chọn điểm tựa gia đình, thí sinh có thể lí giải như sau: + Gia đình chính là tổ ấm của mỗi con người, mỗi khi đi đâu xa về, ta lại cảm thấy mái ấm ấy yên bình nhất. + Những lúc ta gặp thất bại, không ai khác, gia đình chính là điểm tựa bình yên cho ta, nhờ có gia đình mà những lúc ngã đau ấy, ta cảm thấy được an ủi, được vỗ về + Nhờ có gia đình, ta mới khôn lớn, trưởng thành, tự tin trước sóng gió cuộc đời. + Gia đình là tế bào của xã hội, nhờ điểm tựa gia đình, cá nhân góp phần cống hiến, dựng xây xã hội… (Dùng khoảng 2 dẫn chứng) * Mở rộng, bày tỏ quan điểm trái chiều, hoặc ý kiến khác để có cái nhìn toàn diện hơn. * Khẳng định lại quan điểm cá nhân và rút ra bài học cho bản thân. |
1.0
|
||
d. Viết bài văn đảm bảo các yêu cầu sau:
– Học sinh lựa chọn được 2 luận điểm để bày tỏ được quan điểm của cá nhân. – Lựa chọn được thao tác lập luận, phương thức biểu đạt hợp lý để triển khai vấn đề. – Trình bày rõ quan điểm và hệ thống ý. – Lập luận chặt chẽ, thuyết phục, lí lẽ xác đáng, bằng chứng hợp lý. Lưu ý: Học sinh có thể bày tỏ quan điểm của cá nhân nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật. |
1.5 | ||
e. Chính tả, ngữ pháp
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt, liên kết bài văn |
0.25
|
||
g. Sáng tạo: Bài viết có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận, có cách diễn đạt mới mẻ. | 0.5
|
||
Tổng điểm | 10.0 |