(Giới hạn: Thơ Đường luật, thơ mới)
ĐỌC – HIỂU (6,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu: (Tự luận)
BẾN ĐÒ NGÀY MƯA
(Anh Thơ)[1]
Tre rũ rợi ven bờ chen ướt át,
Chuối bơ phờ đầu bến đứng dầm mưa.
Và dầm mưa dòng sông trôi rào rạt
Mặc con thuyền cắm lái đậu chơ vơ.
Trên bến vắng, đắm mình trong lạnh lẽo,
Vài quán hàng không khách đứng xo ro,
Một bác lái ghé buồm vào hút điếu
Mặc bà già sù sụ sặc hơi, ho.
Ngoài đường lội họa hoằn người đến chợ
Thúng đội đầu như đội cả trời mưa.
Và họa hoằn một con thuyền ghé chở
Rồi âm thầm bến lại lặng trong mưa.
(Theo Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh, Hoài Chân, NXB Văn học)
Câu 1. Xác định thể thơ của bài thơ. (0, 5đ)
Câu 2. Con người ở bến đò ngày mưa được tái hiện qua những hình ảnh nào? . (0,75đ)
Câu 3. Xác định 5 từ láy có trong bài thơ?( 0.75đ)
Câu 4. Nêu tác dụng của biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong hai câu thơ: (0.75 đ)Ngoài đường lội hoạ hoằn người đến chợ
Thúng đội đầu như đội cả trời mưa
Câu 5. Nhận xét cách gieo vần của tác giả trong bài thơ. (0.75đ)
Câu 6. Bức tranh quê trong bài thơ trên hiện lên như thế nào ? (1,0đ)
Câu 7. Qua bài thơ trên, anh/chị nêu cảm nghĩ về quê hương của mình.. (0,5đ)
Câu 8. Có ý kiến cho rằng: Bài thơ là tấm lòng của một người con yêu quê hương tha thiết. Anh/chị có đồng tình với ý kiến đó hay không? Vì sao? (1,0đ)
VIẾT (4.0 điểm)
Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ Bến đò ngày mưa (Anh Thơ).
LÀM VĂN (4,0 điểm)
Anh/chị hãy viết bài văn (khoảng 500 chữ) giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của văn bản trên.
Hướng dẫn chi tiết
PHẦN | Câu | ĐÁP ÁN | ĐIỂM |
I
ĐỌC HIỂU |
1 | Thể thơ 8 tiếng hoặc 8 chữ
Hướng dẫn chấm: – Học sinh trả lời như Đáp án: 0,5 điểm. – Học sinh trả lời không đúng: không cho điểm. |
0,75 |
2 | HS nêu được 3 ý trong các đáp án sau: Con người ở bến đò ngày mưa được tái hiện qua những hình ảnh là: “Vài quán hàng không khách đứng xo ro. Một bác lái ghé buồm vào hút điếu, Mặc bà hàng sù sụ sặc hơi, ho. Ngoài đường lội hoạ hoằn người đến chợ Thúng đội đầu như đội cả trời mưa.”
Hướng dẫn chấm: – Học sinh trả lời như Đáp án: 0,75 điểm. – Học sinh trả lời không đúng: không cho điểm. |
0,75 | |
3 | HS nêu được đủ 03 từ láy trong số đáp án: rũ rợi, bơ phờ, rào rạt, trơ vơ, lạnh lẽo, xo ro.. (0,75đ)
Hướng dẫn chấm: – Học sinh trả lời như Đáp án: 0,75 điểm. – Học sinh trả lời không đúng: không cho điểm. |
0,75 | |
4 | – Tác dụng của biện pháp tu từ so sánh là:
+ Làm nổ bật sự vất vả, khó nhọc của con người khi đến chợ vào ngày mưa + Giúp đoạn thơ trở nên sinh động, hấp dẫn. Hướng dẫn chấm: – Học sinh trả lời như Đáp án: 0,75 điểm. – Học sinh trả lời ½ Đáp án: 0,5 điểm. – Học sinh trả lời không đúng: không cho điểm. |
0,75 | |
5 | Cách gieo vần của tác giả trong bài thơ là gieo vần cách, giúp câu thơ trở nên linh hoạt và không bị gò bó.
Hướng dẫn chấm: – Học sinh trả lời như Đáp án: 0,75 điểm. – Học sinh trả lời ½ Đáp án: 0,5 điểm. – Học sinh trả lời không đúng: không cho điểm. |
0,75 | |
6 | – Bến đò ngày mưa hiện lên sinh động, đẹp giản dị, mộc mạc.
– Cảnh vật đơn sơ, tiêu điều và bến đò vắng vẻ sau cơn mưa. Hướng dẫn chấm: – Học sinh trả lời như Đáp án: 1.0 điểm. – Học sinh trả lời ½ Đáp án: 0,5 điểm. – Học sinh trả lời không đúng: không cho điểm. Hs trả lời ý tương đương vẫn cho điểm tối đa. |
1,0 | |
7 | Quê hương mỗi người chỉ một và nó là cái nôi yêu thương và nuôi dưỡng tâm hồn và con người em. Mỗi kí ức trong em về quê hương đều rất đẹp và ý nghĩa. Em luôn trân quý và tự hào về quê hương của mình.
Hướng dẫn chấm: – Học sinh trả lời như Đáp án: 1.0 điểm. – Học sinh trả lời ½ Đáp án: 0,5 điểm. – Học sinh trả lời không đúng: không cho điểm. Hs trả lời ý tương đương vẫn cho điểm tối đa. |
0,5 | |
8 | Đồng ý với ý kiến (0.25 đ)
Giải thích:Vì tác giả phải là một người yêu quê hương tha thiết mới có thể miêu tả đến chân thực như vậy, cảnh vật cũng như con người ở chợ lúc trời mưa. Không chỉ thế , tài quan sát và khả năng đưa vào tác phẩm của mình cũng giúp nhà thơ khẳng định sự yêu thương, trân quý quê hương, đất nước của chính mình.(0.75 đ) Hướng dẫn chấm: Hs trả lời ý tương đương vẫn cho điểm tối đa. |
1,0 | |
II | Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ Bến đò ngày mưa (Anh Thơ). | 4.0 | |
VIẾT | a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận
Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài khái quát được vấn đề |
0,25 | |
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: phân tích, đánh giá nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ Bến đò ngày mưa (Anh Thơ) | 0,25 | ||
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm
– Triển khai vấn đề nghị luận thành những luận điểm phù hợp – Kết hợp được lí lẽ và dẫn chứng để tạo tính chặt chẽ, logic của mỗi luận điểm. |
3,0 | ||
Dàn ý:
Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm. Anh Thơ là một gương mặt hiền hòa lặng lẽ, nhưng cũng không kém vẻ tân kỳ. Chị đem lại cho Thơ mới một phong cách độc đáo, đặc biệt. Sau Tương Phố mười lăm năm, cùng các nhà thơ nữ đương thời Vân Ðài, Mộng Tuyết, Hằng Phương…, Anh Thơ đã góp phần chứng tỏ truyền thống nữ lưu văn học không hề đứt đoạn, mà càng nảy nở. Thơ của Anh Thơ hiền hoà ở cấu trúc, giọng điệu, ở bút pháp, nhưng tân kì ở những chi tiết. hình ảnh, những câu thơ rất ảo rất say. Bến đò ngày mưa dựng lại một khung cảnh bến đò nhỏ nơi làng quê vào ngày mưa. Nét vẽ thơ là nét tả thực, không bộn bề chi tiết, nhưng cũng gợi được cái hồn xưa cảnh cũ của thôn cảnh xứ Bắc thuở nào. Thân bài: Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ: * Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình: Mạch cảm xúc: Bài thơ gợi tả quang cảnh của một bến đò trong ngày mưa. Qua việc khắc họa bức tranh cảnh vật và con người nơi bên đò, Anh Thơ đã gợi lên nét đặc trưng quen thuộc của phong cảnh làng quê Việt. Tuy không trực tiếp khẳng định nhưng tác giả cũng đã bộc lộ tình cảm yêu mến đối với cảnh với người và gởi đến thông điệp về tình yêu đối với những bình dị, thân thuộc của quê hương. Hình ảnh: + Hình ảnh thiên nhiên quen thuộc, bình dị, được miêu tả sinh động: tre, chuối, bến, dòng sông, con thuyền, vài quán hàng; hình ảnh con người hiện lên chân thực, gần gũi, gợi lên nhịp sống chậm rãi, bình yên nơi thôn quê: một bác lái…, bà già…, người đến chợ… Điểm nhìn: Bến đò ngày mưa là tranh thơ được vẽ bằng con mắt đa cảm, con mắt tình quê của nữ sĩ Anh Thơ. Vì vậy, bức tranh là một góc nhìn, ghi lại ấn tượng, cảm xúc về cảnh quê đơn sơ mà có hồn. Cảnh quê, nét nào cũng hoang vắng, bình lặng và buồn; nhưng thấm sâu trong cảnh là tâm trạng bâng khuâng, luyến níu của thi sĩ. Hai nét cảnh quê và tình quê làm nên linh hồn của từng bài thơ * Phân tích đánh giá sự phát triển của hình tượng chính và tính độc đáo của các phương diện ngôn từ. – Sự phát triển của hình tượng chính Bài thơ mở ra là cảnh ven bờ, đầu bến. Trong không gian nghiêng nghiêng xa cách ấy, những tạo vật tre, chuối, dòng sông, con đò – những hình ảnh quen thuộc ở làng quê Bắc Bộ – như đang phơi mình tắm mưa. Tre rũ rợi ven bờ chen ướt át, Chuối bơ phờ đầu bến đứng giầm mưa. Và giầm mưa dòng sông trôi rào rạt Mặc con thuyền cắm lái đậu chơ vơ Không gian thơ đã có sự chuyển dịch từ sông đến bến, từ mưa đến lạnh, từ bến vắng đến quán nghèo và hẹp. Đắm mình trong không gian ấy là những quán hàng ế khách đang co ro vì lạnh và hai con người với hai hoạt động “thù nghịch” nhau, nối kết nhau. Ba hình ảnh vừa gợi được cái lạnh của mưa, vừa gợi được không khí vắng lặng của bến đò vừa gợi được sự ấm áp của lòng người. Trên bến vắng, đắm mình trong lạnh lẽo, Mạch thơ như mở rộng ra. Không gian ngoại vi bến đò đã có phần đông người hơn. Khổ thơ có hai nét cảnh với hai không gian con đường và bến sông. Hai không gian gợi sự chuyển vận, gợi sự sống của con người. – Tính độc đáo của các phương diện ngôn từ: + Từ ngữ: tác giả sử dụng nhiều từ ngữ giàu sức gợi hình, rất nhiều từ láy (rũ rợi, ướt át, bơ phờ, rào rạt, chơ vơ, lạnh lẽo, xo ro, sù sụ, họa hoằn, âm thầm) vừa góp phần gợi hình ảnh, vừa góp phần tạo nhạc tính cho bài thơ + Biện pháp tu từ: Biện pháp điệp từ “dầm mưa”, “họa hoằn”; biện pháp nhân hóa và liệt kê, so sánh có tác dụng vừa diễn tả cụ thể, vừa diễn tả sinh động, gợi cái hồn quê nơi bến vắng. + Bài được viết theo thể tự do, gieo vần linh hoạt, chủ yếu là vẫn chân (“at, “ơ”, “o”); nhịp thơ chậm rãi, phù hợp với việc miêu tả không gian, nhịp sống nơi làng quê. * Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác cùng đề tài, chủ đề, thể loại Bến đò ngày mưa có cấu trúc chặt chẽ, chi tiết bình thường đã được nhà thơ thổi vào đấy sức sống mới nên có sức hấp dẫn riêng. Cùng với “Chiều xuân”, “Trưa hè”,… bài thơ đã thể hiện rõ nét riêng trong sáng tác của Anh Thơ. Cái đẹp của tác phẩm được tạo thành bởi bút pháp lấy động tả tĩnh, cách sử dụng từ láy, các từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm,… 3. Kết bài: Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ. |
0,5
1,0
1,0
0.5 |
||
d. Chính tả, ngữ pháp
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt. |
0.25 | ||
e. Sáng tạo
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ. |
0.25
|
||
I+II |
Bài viết tham khảo
Thơ ca là tri thức đầu tiên và cuối cùng, nó bất diệt như trái tim con người (William Wordsworth). Thật vậy, thơ là tiếng nói của tình cảm xuất phát từ những rung cảm của trái tim với cuộc đời của người nghệ sĩ. Đến với Bến đò ngày mưa của Anh Thơ là đến với nỗi buồn của một hồn thơ trước cảnh quê mưa giầm, một nỗi buồn lặng như bến cô đơn đang cảm nghe mưa ngoài trời hoá thành mưa trong lòng của một hồn thơ lãng mạn.
BẾN ĐÒ NGÀY MƯA
(Anh Thơ)[2]
Tre rũ rợi ven bờ chen ướt át,
Chuối bơ phờ đầu bến đứng dầm mưa.
Và dầm mưa dòng sông trôi rào rạt
Mặc con thuyền cắm lái đậu chơ vơ.
Trên bến vắng, đắm mình trong lạnh lẽo,
Vài quán hàng không khách đứng xo ro,
Một bác lái ghé buồm vào hút điếu
Mặc bà già sù sụ sặc hơi, ho.
Ngoài đường lội họa hoằn người đến chợ
Thúng đội đầu như đội cả trời mưa.
Và họa hoằn một con thuyền ghé chở
Rồi âm thầm bến lại lặng trong mưa.
(Theo Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh, Hoài Chân, NXB Văn học)
Anh Thơ là một gương mặt hiền hòa lặng lẽ, nhưng cũng không kém vẻ tân kỳ. Chị đem lại cho Thơ mới một phong cách độc đáo, đặc biệt. Sau Tương Phố mười lăm năm, cùng các nhà thơ nữ đương thời Vân Ðài, Mộng Tuyết, Hằng Phương…, Anh Thơ đã góp phần chứng tỏ truyền thống nữ lưu văn học không hề đứt đoạn, mà càng nảy nở. Thơ của Anh Thơ hiền hoà ở cấu trúc, giọng điệu, ở bút pháp, nhưng tân kì ở những chi tiết. hình ảnh, những câu thơ rất ảo rất say. Bến đò ngày mưa dựng lại một khung cảnh bến đò nhỏ nơi làng quê vào ngày mưa. Nét vẽ thơ là nét tả thực, không bộn bề chi tiết, nhưng cũng gợi được cái hồn xưa cảnh cũ của thôn cảnh xứ Bắc thuở nào.
Cái hay của bài thơ là mỗi nét vẽ đượm thấm chất hồn nhiên của cảnh quyện lẫn với sự hồn nhiên của tâm hồn thi nhân. Bức tranh bến đò ngày mưa vì thế mà có hồn vía, có nét đẹp riêng.
Bài thơ mở ra là cảnh ven bờ, đầu bến. Trong không gian nghiêng nghiêng xa cách ấy, những tạo vật tre, chuối, dòng sông, con đò – những hình ảnh quen thuộc ở làng quê Bắc Bộ – như đang phơi mình tắm mưa.
Tre rũ rợi ven bờ chen ướt át,
Chuối bơ phờ đầu bến đứng giầm mưa.
Và giầm mưa dòng sông trôi rào rạt
Mặc con thuyền cắm lái đậu chơ vơ.
Tạo vật thiên nhiên tưởng như có chung một nỗi niềm, ngỡ như sum vầy, chung cùng một tình điệu mưa, cùng giầm mưa, ướt át . Thế mà, ở chúng chẳng có sợi tơ mảnh liên hệ nào. Mỗi tạo vật là một hồn đơn, có sự sống riêng. Sở dĩ cảm nhận được như vậy là nhờ nhà thơ đã cài vào thơ những từ ngữ: rũ rượi, chen, bơ phờ, trôi rào rạt, chơ vơ,… rất nghệ thuật ứng với mỗi sự vật. Tre chen chúc nhau tìm hơi ấm. Chuối bất lực đành chịu bơ phờ trong mưa giầm. Dòng sông xuôi nhanh trốn mưa bỏ mặc con đò trơ vơ dưới mưa. Phải có con mắt tinh tế mới khám phá được nét riêng của tạo vật, mới cấp cho chúng một nét đẹp tâm hồn như thế.
Cảnh đầu bến ven bờ là vậy. Còn cảnh bến đò, trung tâm của bức tranh càng vắng lặng hơn trong mưa lạnh.
Trên bến vắng, đắm mình trong lạnh lẽo,
Vài quán hàng không khách đứng co ro.
Một bác lái ghé buồm vào hút điếu
Mặc bà hàng sù sụ sặc hơi, ho.
Không gian thơ đã có sự chuyển dịch từ sông đến bến, từ mưa đến lạnh, từ bến vắng đến quán nghèo và hẹp. Đắm mình trong không gian ấy là những quán hàng ế khách đang co ro vì lạnh và hai con người với hai hoạt động “thù nghịch” nhau, nối kết nhau. Ba hình ảnh vừa gợi được cái lạnh của mưa, vừa gợi được không khí vắng lặng của bến đò vừa gợi được sự ấm áp của lòng người. Giả như khổ thơ không có âm thanh rít lên của điếu thuốc lào, tiếng họ sù sụ vì sặc khói thuốc của bà hàng thì có lẽ thơ cũng chỉ như quán hàng không khách đứng co ro mà thôi. Thơ lúc ấy chỉ là thơ mặt phẳng, đâu còn là thơ sự sống ba chiều.Mạch thơ như mở rộng ra. Không gian ngoại vi bến đò đã có phần đông người hơn.
Ngoài đường lội hoạ hoằn người đến chợ
Thúng đội dầu như đội cả trời mưa
Và hoạ hoằn một con thuyền ghé chở
Rồi âm thầm bến lại lặng trong mưa
Khổ thơ có hai nét cảnh với hai không gian con đường và bến sông. Hai không gian gợi sự chuyển vận, gợi sự sống của con người. Thế nhưng, sức sống ở làng quê cũng chỉ là hoạ hoằn người, hoạ hoằn thuyền (một hoán dụ nghệ thuật) đứt quãng để lại những khoảng hở lạnh giữa đất trời và trong lòng người.
Hai câu đầu vẽ ra không gian con đường ướt sủng nước mưa lầy lội. Trên con đường đó, những người dân quê thưa thớt đến chợ quê. Cảnh chẳng có chút gì vui. Cuộc sống người dân quê ngày xưa là thế. Người dân quê với những phiên chợ nghèo trong những ngày tạnh ráo đã buồn rồi huống hồ là phiên chợ ngày mưa ! Thế nên, con người có rời rạc đến phiên chợ buồn cũng chẳng có gì là lạ. Anh Thơ hẳn đã sống sâu với người dân quê mới có được một câu thơ thực đến thế. Nhưng nữ sĩ là một nhà thơ lãng mạn nên hình ảnh thơ từ cõi thực đã bay vào cõi ảo: Thúng đội đầu như đội cả trời mưa. Một câu thơ đẹp đến say người. Câu thơ như là một nốt nhấn trong một bản đàn cung trầm. Câu thơ đẹp nhờ một lối so sánh đẹp. Người dân quê nghèo nhưng tâm hồn cũng dào dạt chất thơ.
Hai câu kết là không gian bến sông, nhưng thực ra là cả dòng sông dài qua hoạt động của thuyền đến đỗ bến rồi ra đi. Nhà thơ đã lấy động để nói tĩnh gợi được cái vắng của sông: hoạ hoằn con thuyền đến chở và cái lặng của bến lại lặng trong mưa. Bài thơ mở ra là ven bờ, đầu bến và khép lại với hình ảnh bến âm thầm lặng trong mưa. Bài thơ như vậy là có một cái tứ xuyên suốt: nỗi buồn của một hồn thơ trước cảnh quê mưa giầm, một nỗi buồn lặng như bến cô đơn đang cảm nghe mưa ngoài trời hoá thành mưa trong lòng của một hồn thơ lãng mạn.
Bến đò ngày mưa có cấu trúc chặt chẽ, chi tiết bình thường đã được nhà thơ thổi vào đấy sức sống mới nên có sức hấp dẫn riêng. Bài thơ tái hiện không khí vắng vẻ, ngưng đọng cũ kĩ ở chốn quê một thời đã qua, nên có thể xem bài thơ như là một chứng tích văn hoá của quê hương Việt một thời đã qua, nhưng lại là một thời để nhớ, để yêu. Đó là điều đáng trân trọng của hồn thơ Anh Thơ.
[1] Chú thích: Anh Thơ (1921-2005), tên thật là Vương Kiều Ân, quê ở tỉnh Hải Dương. Anh Thơ tham gia sáng tác từ sớm, bà có sở trường viết về cảnh sắc nông thôn Việt Nam, gợi được không khí và nhịp sống nơi đồng quê miền Bắc nước ta. Bà là nữ thi sĩ tiêu biểu của nền thơ Việt Nam hiện đại. Bài thơ “Bến đò ngày mưa” in trong tập “Bức tranh quê” (tập thơ đầu tay, 1941).