Đề bài : Cảm nhận về vẻ đẹp của đoạn thơ:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
(Đất nước– Nguyễn Đình Thi)
Bài làm
Tôi đã từng nghe ai đó nói rằng: “Hương vị trong mát và ngọt lành nhất của cuộc sống chính là văn học”. Thật đúng vậy. Nếu phải chọn một loài hoa đẹp nhất tôi sẽ chọn cành hồng còn e ấp trong sương đêm. Nếu phải chọn một thanh âm cao nhất, tôi sẽ chọn lấy tiếng hót thiết tha của loài chim họa mi. Nếu phải chọn một bản giao hưởng hay nhất, có lẽ tôi sẽ chọn văn chương. Tiếng ca từ văn chương bao giờ cũng vui tươi rạo rực, giai điệu của văn chương bao giờ cũng đằm thắm, ngọt ngào. Khi những cung bậc cảm xúc ấy được cất lên chúng như những nốt nhạc du dương và chạm vào tâm hồn người đọc. “Đất Nước” của Nguyễn Đình Thi là một bài thơ như vậy, là một nốt nhạc khẽ chạm vào trái tim mỗi người đọc. Bức tranh về phố cổ Hà Nội khi vào thu, Thu Hà Nội đẹp, một vẻ đẹp mơ màng, thơ mộng man mác bâng khuâng. Thu li biệt Hà Nội trong 7 câu thơ đầu bài Đất Nước hơn nửa thế kỉ trước cứ vương vấn mãi hồn ta:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Nhũng phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Chẳng phải ngẫu nhiên chút nào khi nói đến đất nước là nói đến Hà Nội và nói đến Hà Nội lại nói đến mùa thu. Đất nước ta tươi đẹp bốn mùa nhưng đẹp nhất là vào mùa thu và có mùa thu ở đâu lại đẹp, lại “mát trong” hơn mùa thu Hà Nội? Nhất là mùa thu nơi đây lại từng điểm một cái mốc vàng son vào lịch sử – “Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình” giữa “Tháng Tám mùa thu xanh thẳm” (Tố Hữu). Cho nên, chẳng phải chờ đến bốn câu tuyệt tác, ngay từ những đồng đầu đã có cái gì xôn xao, xào xạc trong hồn:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa”
Những buổi sáng mùa thu, thu năm xưa cũng như thu hiện tại, không khí trong lành, bầu trời trong xanh không một gợn mây, thoáng đãng, mênh mông, bao la “xanh ngắt mất tầng cao” (Nguyễn Khuyến). Gió thu nhè nhẹ thổi mát hồn người và lòng người, ai cũng cảm thấy thảnh thơi, nhẹ nhàng, lâng lâng. Chỉ hai chữ “mát trong” mà nhà thơ đã nhận diện vẻ đẹp của sắc thu, khí thu và hồn thu muôn đời của đất nước. Câu thơ thứ nhất là một so sánh rất gợi: ” Sáng mát trong như sáng năm xưa” Đất nước trải qua những năm dài chiến tranh, bao mùa thu đã trôi qua, nhưng đất nước vào thu vẫn “mát trong”, vẫn đẹp như thế! Đất nước bền vững muôn đời nên thu vẫn đẹp muôn đời. Mùa thu cũng thật đẹp đẽ biết bao trong những vần thơ của Hữu Thỉnh:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”
Câu thơ thứ hai nói lên hương thu của đất nước: “hương cốm mới”. Gió thu thổi qua những cánh đồng, mang theo hương “lúa nếp thơm nồng”, “hương cốm mới” phả vào lòng người, ủ ấp hồn người cái hương vị quyến rũ, đậm đà của quê hương xứ sở. Câu thơ cho thấy chất tài hoa, chất Hà Nội trong hồn thơ Nguyễn Đình Thi. Có lẽ lần đầu tiên “hương cốm mới” hiện diện trong thơ? Trong văn xuôi, Thạch Lam và Vũ Bằng đã viết rất thơ về cốm Vòng Hà Nội. Cốm là “thức quà riêng của đất nước”, là “thức quà thanh nhã và tinh khiết”. Trong cốm có “cái mùi thơm phức của lúa mới, của hoa cỏ dại ven bờ; trong màu xanh của cốm, cái tươi mát của lá non và trong ngọt của cốm, cái dịu dàng thanh đạm của loài thảo mộc” Nguyễn Đình Thi đứng trước mùa thu của hiện tại và hồi tưởng về mùa thu quá khứ. Với hình ảnh thu trong lành, mát trong của sáng sớm, với gió mùa thu mang theo hương cốm, tác giả khiến người đọc cảm nhận một mùa thu quen thuộc, một mùa thu xưa đẹp đẽ. Vẻ đẹp của mùa thu, với tác giả, muôn đời vẫn vậy chẳng đổi thay, nỗi nhớ thương về cùng hoài niệm. Chỉ với một câu thơ “gió thổi mùa thu hương cốm mới” đã đánh thức trong lòng người đọc hình ảnh mùa thu Hà Nội với vẻ đẹp truyền thống, tao nhã, bền vững và cổ xưa. Một chút gió héo may, một chút hương cốm thơm nức. Một hình ảnh quen thuộc kéo dài từ năm này qua năm khác không đổi thay.
Ba câu thơ tiếp theo nhắc lại nỗi nhớ “những ngày thu đã xa” buổi đầu thu “trong lòng Hà Nội”. Câu thơ “tôi nhớ những mùa thu đã xa” giống như câu thơ bản lề, chuyển hướng, đẩy tâm sự người đọc hướng về hiện tại. Cảm xúc dồn nén, hoài niệm rung lên như dây tơ của cây nguyệt cầm với bao man mác:
“Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.”
Khổ thơ sau vẫn là nhịp điệu chậm rãi, tràn đầy nhung nhớ. Nguyễn Đình Thi lại nhắc lại hình ảnh “sáng”. Nhưng ánh thu Hà Nội của hiện tại đẹp mà buồn, gợi bao sự thương nhớ. Sáng mùa thu chớm lạnh trong lòng Hà Nội, hay đúng hơn là cái chớm lạnh của lòng người trước mỗi đợt, mỗi khoảnh khắc thu về. Cái tinh tế của nhà thơ được thể hiện qua câu chữ “trong lòng Hà Nội”. Liệu có phải đây thực ra là nỗi nhớ qua những câu thơ đầy khắc khoải và ám ảnh. “Những ngày thu đã xa” là những ngày thu giã biệt Hà Nội, ra đi vì nghĩa lớn, vì đất nước và dân tộc thân yêu. Cuộc giã biệt ấy đã để lại trong lòng nhà thơ bao nỗi nhớ. “Nhớ” cái “chớm lạnh” buổi đầu thu, cái lạnh se sắt của gió thu hiu hiu. Hai chữ “chớm lạnh” rất tinh tế trong gợi tả và biểu cảm, vừa diễn tả cái lành lạnh những buổi sáng sớm đầu thu, vừa thể hiện chất xúc giác trong cảm nhận. Trong hơi may lành lạnh còn có âm thanh “xao xác” của lá thu bay trong gió, nhẹ cuốn trốn hè phố, trong lòng đường cửa “những phố dài” Hà Nội. Từ láy “xao xác” là tiếng thu, của lá vàng rơi, của những nhánh cây khẽ rùng mình trong hơi may “chớm lạnh” mà thi sĩ Xuân Diệu đã từng xúc động:
”Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”
(Đây mùa thu tới)
Thu xưa trong thơ, mùa thu Hà Nội thấm bao nỗi buồn man mác, bâng khuâng. Thoáng buồn trong “xao xác hơi may” của lá thu bay, của “mái buồn nghe sấu rụng” (Chính Hữu). Chỉ bằng một vài nét vẽ, một vài chi tiết nghệ thuật về những ngày thu Hà Nội “những ngày thu đã xa”, trong đó có cái “chớm lạnh” của heo may cảm được, có cái “xao xác” của lá thu bay nghe được, Nguyễn Đình Thi đã để lại trong lòng mỗi chúng ta cái hồn thu Kinh thành văn hiến ngàn năm. Phải là người tài hoa, mang tình yêu sâu nặng đối với Hà Nội mới viết được những vần thơ hàm súc, đẹp mà buồn như thế.
Hai câu cuối đoạn thơ thể hiện tâm trạng người ra đi từ ngày thu ấy. Giọng thơ lẳng lặng buồn:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.
“Người ra đi” theo tiếng gọi của Non Sông, “lên chiến khu?”. “Người ra đi mang theo bao kỉ niệm sâu sắc về mùa thu Hà Nội”. “Hương cốm mới”, cái “chớm lạnh” trong “hơi may” buổi đầu thu, cái “xao xác” của lá me, lá sấu bay trong “những phố dài” Hà Nội đã trở thành hành trang, đã trở thành kỉ niệm sâu sắc, thân thiết. “Người ra đi” ôm “chí lớn” của một “li khách” với quyết tâm “đầu không ngoảnh lại!”. “Người ra đi” vì chí lớn non sông, nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, biết là thế nhưng sao trong lòng còn vấn vương, còn lưu luyến quá đỗi thế này. Mang trong lòng biết bao kỉ niệm về Hà Nội, về mùa thu của Hà Nội với hương cốm mới, với cái chớm lạnh, cái xao xác của những lá sấu, lá me bay, đó là hành trang để người chiến sĩ bước ra đi. Câu thơ vang lên mà ta nghe thấy cả tiếng lòng quyết tâm đến tột độ của người chiến sĩ. “Không ngoảnh lại” phải chăng đó là sự quyết tâm ra đi để đem về hòa bình, đem về những sáng mùa thu trong mát “như sáng năm xưa”? Nghe đâu đây âm vang của những lời thề “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” của những người lính năm nào! Câu thơ “Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” là một câu thơ thật hay. Có màu vàng nhạt của nắng thu, có sắc vàng tươi của lá thu đã “rơi đầy”, đã trải dài trải rộng trên thềm phố. Câu thơ chứa đầy tâm trạng. Tác giả đã lấy ngoại cảnh, lấy nắng thu, lá thu để gợi tả tình lưu luyến. Ra đi với quyết tâm “đầu không ngoảnh lại” nhưng vẫn cảm nhận được “Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” với bao tình lưu luyến, nhớ thương. Người ra đi để lại sau lưng là những giọt nắng thu vương vãi trên thềm nhà, là lá thu rơi trên nền đất, trải rộng trên “những phố dài”. Câu thơ không chỉ dùng để tả cảnh mà còn dùng để nói lên nỗi lòng của chính tác giả. Đó là sự lưu luyến, sự ngập ngừng chẳng muốn rời xa. Mặc dù ra đi với quyết tâm “đầu không ngoảnh lại”, khí thế là thế, nhưng chẳng thể tránh khỏi những phút lưu luyến, nghẹn ngào nhớ thương. Cái quay lưng của người chiến sĩ quyết tâm là thế, nhưng nghe sao bâng khuâng quá đỗi, bởi người thi sĩ – chiến sĩ ấy còn lưu luyến với quê hương, với mùa thu quê nhà.
Đoạn thơ trên là đoạn mở đầu của tác phẩm “Đất nước” được thai nghén trong vòng tám năm của tác giả Nguyễn Đình Thi. Đây là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông, không chỉ về mặt ý nghĩa mà là cả nghệ thuật nữa. Đã bao người viết về thu Hà Nội, nhưng chưa ai có cái nhìn vừa cảm quan lại sâu sắc như ông, bởi ông là người con của Hà Nội, gắn bó với Hà Nội suốt những tháng năm tuổi thơ. Mùa thu Hà Nội trong ông mang nỗi buồn day dứt, khó tả, mang theo cả hồn thơ sông núi muôn đời nữa. Một chút “xao xác hơi may”, “hương cốm mới”, cái “chớm lạnh” trên “những phố dài” cổ kính, tất cả đều làm nên một mùa thu khó quên trong lòng người ly biệt. Vậy nên, dù quyết tâm ra đi vì chí lớn non sông, người khách ly biệt cũng chẳng thể nào thôi lưu luyến nắng thu, lá thu đang “rơi đầy” ngoài “thềm” trong gió thu kia.