- ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Đọc văn bản sau và làm theo yêu cầu:
Con nhà nghèo chả có gì chơi
Tôi và Gái chỉ thẩn tha gốc ổi
Thương cây chiều nào cũng tưới
Cứ mỗi lần hai gánh ống bơ.
Bắt được chú gà sa nước gạo đêm qua
Cũng hì hục khiêng chôn bón gốc.
Cây còn nhỏ có đâu bóng mát
Mới ngang vai, cành chẽ chữ Y dài,
Thằng cu San cuối xóm ngõ ngoài,
Lăm le toan trộm cnàh làm súng.
Biết chuyện đó chúng tôi tức lắm
Bàn với nhau rào gốc cây luôn.
Thoắt đó mà đã vụt lớn khôn
Đi họp phóng viên, các bạn gọi tôi “đồng chí”
Nhưng trong kỷ niệm ngày thơ luôn vẫn bé
(Đứa trẻ có lớn lên trong ảnh bao giờ)
Thằng cu San vẫn đen thấp như xưa
Cái Gái – bạn nghèo thân hình gầy gõ
Và cây ổi vẫn khẳng khiu trước ngõ
Mới ngang vai, cành chữ chữ Y dài
Ôi cây nhỏ chưa tròn bóng mát
Suốt nẻo đường tôi bước vẫn che tôi
Tôi lại về đây – đã tám năm rồi
Tất cả thân quen – sao mới lạ:
Cái Gái – gánh ống bơ tưới cây ngày nhỏ
Giờ chỉ huy đội thủy lợi trong làng
Một vùng chiêm khê đã thêm vụ mùa vàng
Còn “cu San” – hẳn chả cần chạc ổi
Cây súng nâng niu từ lên xã đội
Đã giúp anh hạ một “con ma”
Chiến công này rạng rỡ thôn ta
Và cây ổi dây cành xòe rợp ngõ
(Nơi tụ tập của lớp sau tuổi nhỏ)
Lá xnah um trĩu trịt quả vàng
Con chào mào ngọt giọng hót vang
Vị thơm lự lơi rơi theo từng hạt.
Ôi những ngày xa quê thấy mình khôn lớn
Đâu biết quê hương còn lớn hơn mình.
(Gốc cây ngày bé, Xuân Quỳnh, trích tập thơ Hoa dọc chiến hào, NXB Văn học, 1968)
Câu 1. Nêu tên hai phuơng thức biểu đạt chính của văn bản.
Câu 2. Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ: Ôi cây nhỏ chưa tròn bóng mát/ Suốt nẻo đường tôi bước vẫn che tôi.
Câu 3. Nêu nhận xét về giọng điệu của nhân vật trữ tình trong văn bản.
Câu 4. Anh/Chị hiểu thế nào ý thơ: “Ôi những ngày xa quê thay mình khôn lớn/Đâu biết quê hương còn lớn hơn mình”.
- LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1. Viết đoạn văn bàn luận với chủ đề: Quê hương trong ta, khi xa và khi gần.
Câu 2. Phân tích hình tượng người dũng sĩ Tnú, trong Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành, từ đó làm nổi bật vẻ đẹp độc đáo của nhân vật anh hùng sử thi.
LỜI GIẢI CHI TIẾT
- ĐỌC HIỂU
Câu 1.
Văn bản sử dụng phương thức biểu đạt chính là biểu cảm và tự sự.
Câu 2.
Biện pháp tu từ: Ẩn dụ “che”: từ hành động che (tránh cho mưa nắng tác động đến con người) thành ý nghĩa che chở, làm điểm tựa tinh thần.
– Tác dụng:
+ Giúp lời thơ trở nên hình ảnh, giàu sức gợi, sức biểu cảm.
+ Bộc lộ những suy nghĩ chân thành của tác giả khi nghĩ về cây ổi gắn liền với những kỉ niệm thời thơ ấu. Đó là động lực, là điểm tựa tinh thần cho nguời chiến sĩ có thêm sức mạnh để dấn bước trên chặng đường chiến đấu.
Câu 3.
Bằng giọng điệu kể chuyện tâm tình thân mật, nhân vật trữ tình gửi gắm không chỉ những cảm xúc và kí ức của tuổi thơ mà còn biểu hiện được sự trưởng thành của bản thân và quê hương qua những đổi thay theo năm tháng. Nhịp thơ chậm rãi, nhịp nhàng là lời sẻ chia hết sức chân thành, tự nhiên về những kỉ niệm ngày thơ ấu, khơi gợi sự đồng điệu của người đọc bởi những điều giản dị mà quý giá.
Câu 4.
Thí sinh chủ động trình bày quan điểm của bản thân, đảm bảo được yêu cầu về nội dung và hình thức như sau:
– Nội dung: trình bày cảm nhận của mình về ý thơ: Sự trưởng thành của nhân vật trữ tình cũng như của quê hương đất nước trong kháng chiến.
– Hình thức: đoạn văn ngắn, khoảng 8 – 10 dòng, diễn đạt mạch lạc.
Gợi ý:
Thời gian làm mọi đứa trẻ trưởng thành, cũng như làm mọi thứ thay đổi. Xuân Quỳnh viêt: “Ôi những ngày xa quê thấy mình khôn lớn/ Đâu biết quê hương còn lớn hơn mình” khi chị đang cùng dân tộc trải qua những tháng ngày sống dọc chiến hào. Nhân vật trữ tình từ một cô gái quê bé nhỏ đã thành đồng chí, thành chiến sĩ, đã tự thấy những đổi thay trong hình hài, vóc dáng, trong những suy nghĩ và hành động. Nhưng quê hương còn lớn hơn. Quê hương với nhân vật trữ tình là người bạn thuở nhỏ “gầy gõ”, “đen thấp” đã thành chỉ huy thủy lợi, thành xã đội, là cây ổi từ cành ngang vai nay đã xòe rợp ngõ. Quan niệm về quê hương của chị vừa giản dị, vừa sâu sắc. Có thể nói, chính thời gian và cuộc kháng chiến đã khiến chị nhận ra rõ nét hơn sự lớn lên của bản thân và quê hương mình.
- LÀM VĂN
Câu 1.
Yêu cầu chung:
– Nội dung:
+ Xác định đúng vấn đề nghị luận;
+ Thể hiện được quan điểm cá nhân, đảm bảo được tính nhân văn trong bài viết;
+ Triển khai vấn đề thành các luận điểm, luận cứ phù hợp, trình tự hợp lí, lập luận chặt chẽ; sử dụng phù hợp các thao tác lập luận; biết kết hợp giữa nêu lí lẽ và đưa dẫn chứng.
– Hình thức:
+ Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận;
+ Đoạn văn mạch lạc, diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết;
+ Lời văn có cá tính và cảm xúc;
+ Không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu cụ thể:
Hệ thống ý | Dẫn dắt | – Nêu từ khóa: quê hương trong ta |
Giải thích | – Quê hương là nơi chôn nhau cắt rốn, là nơi gắn bó với tuổi thơ.
– Hiểu rộng ra quê hương là nơi xuất thân, nơi cội nguồn của mỗi người. |
|
Phân tích | – Tình yêu quê hương được biểu hiện như thế nào khi xa cũng như khi gần?
+ Tình yêu quê hương là tình cảm thiêng liêng, là một sự gắn bó rất tự nhiên và cũng rất nhân văn. + Khi gần, tình yêu quê là sự gắn bó, thân thuộc, là kỷ niệm tích lũy mỗi ngày, là môi trường sống, là ngôi nhà, là chốn đi về. + Khi xa, tình yêu quê là nỗi nhớ, là ước muốn được trở về, là kí ức quý giá,… + Khi xa hay gần đều có điểm chung: niềm tự hào, tôn trọng, thương yêu,… – Vì sao trong thế giới phẳng, con người vẫn cần có quê hương? + Vì quê hương như một ngôi nhà lớn, có những con người cùng những điểm chung với mình, cùng gắn bó với một mảnh đất. + Vì quê hương bồi đắp cho tâm hồn con người những xúc cảm vô cùng đáng quý. + Vì quê hương là chốn đi về. |
|
Phản biện | Có những người khi đi xa lại có thái độ phủ nhận, quay lưng lại với quê hương
→ sự bơ vơ của tâm hồn. |
|
Liên hệ | – Bài học/Liên hệ + Từ khóa.
Hiểu được sự thiêng liêng của hai tiếng “quê hương”. |
Câu 2.
Yêu cầu chung:
– Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục rõ ràng, đầy đủ; văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tíhc, cảm thụ.
– Diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu cụ thể:
ĐỌC HIỂU YÊU CẦU ĐỀ
– Đối tượng chính, trọng tâm kiến thức: Rừng xà nu – Dạng bài: Phân tích, bàn luận – Yêu cầu: Người viết cần phân tích làm rõ hình tượng nhân vật trung tâm của tác phẩm: người anh hùng Tnú, từ đó mà thấy được cảm hứng sử thi, bút pháp sử thi được nhà văn sử dụng khi xây dựng hình tượng. |
|||
TIẾN TRÌNH BÀI LÀM | |||
KIÊN THỨC | HỆ THỐNG Ý | NỘI DUNG CẦN ĐẠT | Điểm |
CHUNG | Khái quát vài nét về tác giả – tác phẩm | – Nguyễn Trung Thành là nhà văn lớn lên và trưởng thành trong cả hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Ông đặc biệt thành công về đề tài văn học viết về miền núi Tây Nguyên.
– Truyện ngắn Rừng xà nu là câu chuyện về dân làng Xô man trong kháng chiến chống Mĩ. Trong số những con người hiên ngang bất khuất của làng Xô man nổi bật lên là hình ảnh Tnú. Câu chuyện về cuộc đời anh đã được tái hiện cụ thê qua lời kể của già làng bên bếp lửa. |
0.5 |
TRỌNG TÂM | Giải thích hình tượng sử thi: Người anh hùng | – Trong văn học Việt Nam giai đoạn chống Mĩ, khuynh hướng sử thi là một khuynh hướng lớn. Tính sử thi được thế hiện trong đề tài, chủ đề mang ý nghĩa thời đại, bàn đến những vấn đề lớn lao, những vấn đề cộng đồng, cùng với đó là ngôn ngữ đầy trang trọng.
+ Nhân vật trong sử thi là nhân vật tiêu biểu cho cả cộng đồng, là người anh hùng, người dũng sĩ của thời đại mang sức mạnh, phẩm chất lý tưởng, thể hiện qua lời nói, hành động dũng cảm, với những chiến công hiển hách. |
0.5 |
Phân tích hình tượng Tnú | – Nhân vật tiêu biểu, mang tích cách điển hình cho đồng bào Tây Nguyên
+ Tnú mang trong mình những phẩm chất đáng quý: trung thực, gan góc, dũng cảm. Những phẩm chất ấy được biểu hiện từ khi Tnú còn nhỏ đến khi đã là một chiến sĩ cách mạng. Đó là khi Tnú học cái chữ, học thua Mai đã tự lấy đá ghè vào đầu mình. Là những lần vượt con thác dữ, mình như con cá kình, tìm những khúc xiết mà vượt khiến kẻ thù không ngờ. Là đôi bàn tay như mười ngọn đuốc rực đỏ nhưng không một tiếng van xin, chỉ có ánh mắt căm hờn lửa cháy… + Tnú mang trong mình tình yêu thương và lòng căm thù cháy bỏng. Tình yêu thương được thể hiện rất rõ trong mối quan hệ giữa Tnú với buôn làng và với những người dân trong buôn. – Nhân vật Tnú là điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên + Bi kịch của Tnú là một bi kịch điển hình. Khi anh dùng tay không để đấu tranh với toán giặc, gia đình anh không cứu được, trái lại còn bị đốt cháy đôi bàn tay. Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xô Man cầm vũ khí đứng lên tiêu diệt kẻ thù. + Nhưng Tnú không chìm đắm trong đau thương mất mát, anh biết vượt qua nỗi đau ấy, biến đau thương thành căm hờn và tôi luyện ý chí chiến đấu. – Đôi bàn tay quả báo – sức mạnh của lòng căm thù và ý chí phi thường + Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc biệt dụng công miêu tả đôi bàn tay của anh. Từ đôi bàn tay này, người đọc có thể thấy hiện lên không những cả cuộc đời mà cả những tính cách của nhân vật. Khi còn lành lặn, bàn tay Tnú là bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn. + Khi đôi bàn tay của Tnú thành tật nguyền, mỗi ngón chỉ còn hai đốt và như một chứng tích về tội ác của kẻ thù mà Tnú mang theo suốt đời. Nhưng, bàn tay tật nguyền đấy vẫn tiếp tục cầm súng giết giặc, vẫn có thế giết chết tên chỉ huy đồn địch dù nó cố thủ trong hầm. |
3.0 | |
Bàn luận, đánh giá | – Anh hùng sử thi với những phẩm chất phi thường, hiện lên ngạo nghễ, dũng mãnh với những kỳ tích mà hiếm kẻ thường nào làm được. Đó là những người anh hùng đại diện cho phẩm chất, cho sức mạnh, cho tính cách và trở thành niềm tự hào của cộng đồng.
– Tác phẩm thể hiện được quá trình trưởng thành và phát triển của nhân vật anh hùng, đồng thời cho thấy niềm vinh quang, vẻ đẹp của người anh hùng không rời xa lợi ích, mối quan hệ với cộng đồng. Người anh hùng chỉ đẹp khi gắn với mối quan hệ cộng đồng. |
0.5 |
Bài làm mẫu:
Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là một bản anh hùng ca về cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào Tây Nguyên trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Tác phẩm đã thế hiện sự truởng thành của một thế hệ cách mạng trẻ trung, mưu trí, kiên cường. Mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng tiêu biểu cho cốt cách, linh hồn của mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Nổi bật nhất là nhân vật Tnú, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Xây dựng con người này, Nguyễn Trung Thành đã nhúng hình tượng vào lò nung của sử thi, để khi nhân vật bước ra, toả rạng phẩm chất dũng sĩ, lấp lánh như một huyền thoại, và mãi là bài ca vang vọng giữa đại ngàn.
Nguyễn Trung Thành là nhà văn lớn lên và trưởng thành trong cả hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Ông đặc biệt thành công về đề tài văn học viết về miền núi Tây Nguyên. Như PGS.TS Lã Nhâm Thìn từng nhận xét: “Nguyên Ngọc là một trong những nhà văn sớm mở cánh cửa văn học vào mảnh đất Tây Nguyên”, trên mảnh đất ấy, nhà văn đã xây dựng được những lâu đài nghệ thuật nguy nga, tráng lệ. Những sáng tác của ông mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn, thường đề cập đến những vấn đề trọng đại, lớn lao của dân tộc. Truyện ngắn Rừng xà nu là câu chuyện về dân làng Xô Man trong kháng chiến chống Mĩ. Trong số những con người hiên ngang bất khuất của làng Xô Man nối bật lên là hình ảnh Tnú. Câu chuyện về cuộc đời anh đã đuợc tái hiện cụ thể qua lời kể của già làng bên bếp lửa.
Trong văn học Việt Nam giai đoạn chống Mĩ, khuynh hướng sử thi là một khuynh hướng lớn. Tính sử thi được thể hiện trong đề tài, chủ đề mang ý nghĩa thời đại, bàn đến những vấn đề lớn lao, những vấn đề cộng đồng, cùng với đó là ngôn ngữ đầy trang trọng. Nhân vật trong sử thi là nhân vật tiêu biểu cho cả cộng đồng, là người anh hùng, người dũng sĩ của thời đại mang sức mạnh, phấm chất lý tưởng, thể hiện qua lời nói, hành động dũng cảm, với những chiến công hiển hách. Nhân vật anh hùng sử thi không thể tồn tại nếu không vượt qua được mọi khó khăn thử thách để giành chiến thắng. Tnú được xây dựng trên cảm hứng sử thi ấy.
Trước hết, Tnú tiêu biểu cho tính cách đồng bào Tây Nguyên. Tnú mang trong mình những phẩm chất đáng quý: trung thực, gan góc, dũng cảm. Những phẩm chất ấy được biểu hiện từ khi Tnú còn nhỏ đến khi đã là một chiến sĩ cách mạng. Đó là khi Tnú học cái chữ, học thua Mai đã tự lấy đá ghè vào đầu mình. Là những lần vượt con thác dữ, mình như con cá kình, tìm những khúc xiết mà vượt khiến kẻ thù không ngờ. Là đôi bàn tay như mười ngọn đuốc rực đỏ nhưng không một tiếng van xin, chỉ có ánh mắt căm hờn lửa cháy.
Tnú là hiện thân của sự trung thành tuyệt đối với cách mạng, với Đảng, là hiện thân của sự khoẻ mạnh với bộ ngực rộng rãi, hai cánh tay khoẻ chắc như lim, là sự bất khuất kiên cường đã được thử thách qua tra tấn dã man và sự tù đày của kẻ thù. Tnú cường tráng như một cây xà nu lớn. Tnú không hề biết sợ hãi, không hề biết khuất phục dù tàn bạo có hiện hình trong mũi súng hay lưỡi dao chém ngang dọc trên lưng. Trong một lần chuyển thư của anh Quyết gửi về huyện, Tnú bị giặc bắt. Họng súng chĩa vào tai lạnh ngắt, Tnú kịp nuốt luôn cái thư. Giặc giam cầm, tra khảo Tnú dã man, lưng Tnú dọc ngang vết dao chém nhưng anh quyết không khai một lời.
Tnú còn là người mang trong mình tình yêu thương và lòng căm thù cháy bỏng. Tình yêu thương được thể hiện rất rõ trong mối quan hệ giữa Tnú với buôn làng và với những người dân trong buôn. Làng Xô Man là cội nguồn, là nơi nuôi dưỡng Tnú. Nơi đây có những người thân thuộc, có gia đình bé nhỏ của anh. Nhưng nơi thân thuộc, những người thân thương của anh đã bị giặc giày xéo. Anh chứa trong lòng niềm căm thù: mối thù ấy được tích góp qua năm tháng, đó là những vết chém dọc ngang lưng khi Tnú còn nhỏ, là đôi bàn tay chỉ còn hai đốt, nhưng sâu sắc nhất, ám ảnh nhất là bọn giặc đã cướp đi gia đình nhỏ của anh, những con người thân thiết nhất của anh.
Tnú cũng là điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên. Bi kịch của Tnú là một bi kịch điển hình. Khi anh dùng tay không để đấu tranh với toán giặc, gia đình anh không cứu được, trái lại còn bị đốt cháy đôi bàn tay. Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xô Man cầm vũ khí đứng lên tiêu diệt kẻ thù. Nhưng Tnú không chìm đắm trong đau thương mất mát, anh biết vượt qua nỗi đau ấy, biến đau thương thành căm hờn và tôi luyện ý chí chiến đấu. Bị giặc bắt sau khi Mai chết, Tnú không nghĩ đến bản thân mà chỉ lo lắng đến việc ai sẽ tiếp tục lãnh đạo dân làng kháng chiến khi Đảng phát lệnh. Chỉ còn cách cầm vũ khí: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”, dùng bạo lực cách mạng mới có thể tiêu diệt được cái ác, cái bạo lực.
Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc biệt dụng công miêu tả đôi bàn tay của anh. Từ đôi bàn tay này, người đọc có thể thấy hiện lên không những cả cuộc đời mà cả những tính cách của nhân vật. Khi còn lành lặn, bàn tay Tnú là bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn. Đấy là bàn tay cầm phấn học chữ do cán bộ dạy, bàn tay cầm đá ghè vào đầu để trừng phạt cái tội không nhớ mặt chữ, bàn tay đặt lên bụng để chỉ cộng sản ở đây… Tuy vậy ấn tuợng mạnh nhất về đôi bàn tay của Tnú chính là đoạn cao trào của truyện, cũng là đọan đời bi tráng nhất của nhân vật. Giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu vào muời đầu ngón tay và đốt. “Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc”, thiêu cháy cả ruột gan Tnú, anh “nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi”. Chứng kiến cảnh kẻ thù dã man đốt hai bàn tay của Tnú, dân làng Xô Man không thể kiềm chế được nữa đã bột phát vùng lên tiêu diệt lũ giặc, mở ra trang sử đấu tranh mới của dân làng. Từ đây bàn tay của Tnú thành tật nguyền, mỗi ngón chỉ còn hai đốt và như một chứng tích về tội ác của kẻ thù mà Tnú mang theo suốt đời. Đến cuối tác phẩm, bàn tay tật nguyền đấy vẫn tiếp tục cầm súng giết giặc, vẫn có thể giết chết tên chỉ huy đồn địch dù nó cố thủ trong hầm. Như vậy, có thể nói bàn tay Tnú được miêu tả trải dài theo suốt cả câu chuyện. Dường như mọi nét tính cách cũng như số phận và chiến công của Tnú đều gắn liền với hình ảnh hai bàn tay ấy.
Tnú – người anh hùng sử thi với những phẩm chất phi thường, hiện lên ngạo nghễ, dũng mãnh với những kỳ tích mà hiếm kẻ thường nào làm được. Đó là người anh hùng đại diện cho phẩm chất, cho sức mạnh, cho tính cách và trở thành niềm tự hào của cộng đồng, đặc biệt ta thấy được vẻ đẹp của người anh hùng không rời xa lợi ích, mối quan hệ với cộng đồng. Người anh hùng chỉ đẹp khi gắn với mối quan hệ cộng đồng.