4. Đề thi thử TN THPT 2021 – Môn Văn – Bộ đề chuẩn cấu trúc minh họa – Đề 4

ĐỀ THI THỬ CHUẨN CẤU TRÚC MINH HỌA

ĐỀ SỐ 04

(Đề thi có 02 trang)

KỲ THI TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NĂM 2021

Bài thi: Ngữ Văn

Thời gian làm bài: 120 phút không kể thời gian phát đề

 

  1. ĐỊNH HƯỚNG RA ĐỀ
  2. Cấu trúc đề vẫn gồm hai phần, đó là phần Đọc hiểu (3 điểm) và Làm văn (7 điểm).

– Trong đó, câu hỏi Đọc hiểu gồm ngữ liệu nằm ngoài sách giáo khoa cùng 4 câu hỏi đọc hiểu theo các mức độ: Nhận biết/ thông hiểu/ vận dụng. Đó là những dạng câu hỏi quen thuộc với học trò từ nhiều năm nay.

– Trong phần Làm văn, câu Nghị luận xã hội (2 điểm) với yêu cầu viết một đoạn văn khoảng 200 chữ, nội dung nghị luận là vấn đề có quan hệ hữu cơ với nội dung trong ngữ liệu đọc hiểu.

  1. Nội dung:

– Đề đảm bảo kiến thức cơ bản, và không có kiến thức trong nội dung tinh giản mà Bộ mới công bố ngày 31.3.2020. Đề không khó, vừa sức với học sinh, học sinh trung bình không khó để đạt mức điểm 5 – 6; học sinh khá đạt 7 – 8. Tuy nhiên để đạt mức điểm 9-10 đòi hỏi học sinh phải phát huy được tư duy phản biện, các trình bày vấn đề nghị luận sắc bén, thể hiện quan điểm cá nhân mang tính sáng tạo.

– Phần Đọc hiểu trong đề thi sử dụng ngữ liệu nằm ngoài sách giáo khoa, gồm một đoạn trích dẫn cho trước và 4 câu hỏi. Để trả lời được 4 câu hỏi này, đòi hỏi học sinh phải nắm chắc kiến thức về Tiếng Việt, đọc hiểu nội dung và suy ngẫm, đánh giá. Đặc biệt ở câu 3, câu 4 đòi hỏi người làm bài phải hiểu sâu sắc đoạn trích, câu trích dẫn thì bài làm mới hay, hiểu đúng vấn đề.

– Trong phần Làm văn:

+ Đề thi yêu cầu học sinh viết đoạn văn nghị luận xã hội: Câu này vẫn giữ nguyên tắc ra đề truyền thống, yêu cầu học sinh viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về một vấn đề được rút ra từ ngữ liệu ở phần Đọc hiểu.

+ Ở câu nghị luận văn học, nội dung câu hỏi nằm ở phần kiến thức chương trình học kì I lớp 12, không ra ngoài nội dung tinh giản của Bộ GDĐT, mức độ phù hợp giống với câu nghị luận học trong đề thi chính thức năm 2019. Và đây là đơn vị kiến thức nhỏ (không phải toàn bộ tác phẩm), phù hợp với dung lượng bài văn 5 điểm trong thời lượng đề thi 120 phút.

 

  1. MA TRẬN ĐỀ THI

MA TRẬN

PHẦN CÂU CẤP ĐỘ NHẬN THỨC
Nhận biết Thông hiểu Vận dụng Vận dụng cao
ĐỌC HIỂU 1 x      
2   x    
3     x  
4     x  
LÀM VĂN 1     x
2    

 

C – BIÊN SOẠN ĐỀ THI

  1. Đọc hiểu (3 điểm)

Đọc đoạn trích:

 

Họ gánh về cho tôi mùa ổi mùa xoài mùa mận
Mùa sen mùa cốm trên vai
Cả nắng ban mai cả hoàng hôn tím
Ngày đi rưng rưng đôi dép lê

 

Tôi mua được mùa ổi mùa sen bằng đồng bạc lẻ
Đồng bạc lặng lẽ
Thấm đẫm sương đêm thấm đẫm mồ hôi

Sau lưng họ đồng làng mồ côi hun hút gió
Vòng tay ngỏ
Lời ru con căng sữa

 

Họ gánh về cổng tôi bao mùa trinh nguyên, những mùa
tôi sẽ quên nếu thiếu họ
Hương nhãn Hưng Yên vừa vào mùa, sen Tây Hồ vừa nở,
cốm làng Vòng vừa trăn trở những hạt xanh
Họ gánh tặng tôi ngọn gió mát lành đồng quê
Nơi mẹ và con  và chồng họ đứng chờ […]

Những ngôi sao của tôi
Gánh trên vai mình hẩm hiu số phận
Vô danh giữa đời thường
Dẫu đôi lúc đặt vào mắt tôi bao tia nhìn mang hình dấu hỏi.

(Trích Những ngôi sao mang hình quang gánh, Nguyễn Phan Quế Mai)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1 (NB). Xác định thể thơ của đoạn trích trên.

Câu 2 (NB). Hình ảnh quê hương hiện lên trong nỗi nhớ của nhà thơ qua những từ ngữ nào?

Câu 3 (TH). Anh/chị hiểu như thế nào về câu thơ: Họ gánh tặng tôi ngọn gió mát lành đồng quê”.

Câu 4 (VD). Khổ thơ cuối gợi cho anh/chị suy nghĩ, trăn trở gì về thân phận của những

người gánh hàng rong?

  1. LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm)

Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về sự cần thiết của lòng trắc ẩn trong cuộc sống hiện đại.

Câu 2. (5,0 điểm)

Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mị .

Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết. Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường. Mị từ từ bước vào buồng. Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường.

 Anh ném pao ,em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi…

    (Trích Vợ chồng A PhủTô Hoài, Ngữ văn 12, tập hai, Nxb GD,2008, tr 7,8)

 Anh/chị hãy phân tích diễn biến tâm lí và hành động của nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét sự tinh tế khi diễn tả sự hồi sinh trong tâm hồn nhân vật của nhà văn Tô Hoài.

 

———–HẾT———-

Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm

 

 

 

HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT

Phần Câu/Ý Nội dung Điểm
I   Đọc hiểu 3.0
  1 Thể thơ: tự do 0.5
  2 – Hình ảnh quê hương hiện lên trong nỗi nhớ của nhà thơ qua những từ ngữ: mùa ổi, mùa mận, mùa xoài, mùa sen, mùa cốm, ngọn gió đồng quê…

– Như vậy, quê hương trong nỗi nhớ của nhà thơ gắn liền với nhưng gì gần gũi, thân thuộc, bình dị nhất.

0.25

 

 

0,5

  3 –        –  Câu thơ: Họ gánh tặng tôi ngọn gió mát lành đồng quê” là cách nói ý nhị, chỉ những gang hánh rong như những ngọn gió mát lành của quê hương.

–        – Câu thơ mang lại hình dung về cảm nhận của tác giả về những kỉ niệm tuổi thơ gắn bó với những gánh hàng rong quen thuộc. Những gang hàng đó không chỉ chở những sản vật của quê hương mà hơn cả là nét đẹp của quê nhà

 

0,75

 

 

  4 Khổ thơ cuối:

Những ngôi sao của tôi
Gánh trên vai mình hẩm hiu số phận
Vô danh giữa đời thường
Dẫu đôi lúc đặt vào mắt tôi bao tia nhìn mang hình dấu hỏi.

là những suy nghĩ, trăn trở của tác giả về thân phận con người:

–    Những người gánh hàng rong phải mưu sinh, lo lắng cho   cuộc sống thường ngày của họ.

–        Họ là những người vô danh, mang đến niềm vui, hạnh phúc cho mọi người nhưng liệu có ai quan tâm đến họ. Là một người có tấm lòng thương cảm, xót xa, tác giả tự đặt dấu hỏi cho mình về thân phận người nghèo khó trong xã hội.

–        Suy nghĩ của bản thân: Đồng cảm với tác giả, sẻ chia, xót xa, thương cảm với những khó khăn, nhọc nhằn của những người nghèo khó trong xã hội.

 

 

 

0,25

 

 

0,75

 

 

 

II   Làm văn  
  1 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về sự cần thiết của lòng trắc ẩn trong cuộc sống hiện đại.

 

2,0
a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận 200 chữ

Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng -phân-hợp, song hành hoặc móc xích.

 

0,25

 

 

 

 b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: sự cần thiết của lòng trắc ẩn trong cuộc sống hiện đại.  

0,25

c. Triển khai vấn đề nghị luận: Thí sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ sự cần thiết của lòng trắc ẩn trong cuộc sống hiện đại.

. Có thể triển khai theo hướng sau:

*Giải thích: Lòng trắc ẩn là sự thương xót, đồng cảm và thấu hiểu giữa con người với con người.

* Bàn luận (phân tích, chứng minh):

Lòng trắc ẩn được tạo nên bởi hai trụ cột chính là sự liên kết giữa người với người và ý nghĩa mà việc đối xử tốt với người khác đem lại. Vì thế trước tiên, lòng trắc ẩn sẽ giúp cho thế giới bớt đi khổ đau, bất hạnh, buồn thương.

– Lòng trắc ẩn giúp phát triển các mối quan hệ xã hội, khiến người gần người hơn, từ đó ngăn cản sự tổn thương, giúp cuộc sống này trở nên tốt đẹp hơn.

– Mỗi cá nhân hình thành và phát triển trong mình phẩm chất cao quý này sẽ góp phần phát triển những phẩm chất khác như: sự đồng cảm, đoàn kết, và cả sự biết ơn những giá trị mình đang có.

– Dẫn chứng: Trong hơn 40 năm mẹ Theresa đã chăm sóc người nghèo, bệnh tật, trẻ mồ côi, người hấp hối trên khắp Ấn Độ cũng như các quốc gia khác. Bà thực hiện bất cứ việc gì bà nghĩ là có thể mang tới hòa bình, tình yêu và tiếng cười trên thế giới. Đó chính là tình yêu thương không vị kỉ của vị nữ tu, hơn cả là lỏng trắc ẩn từ sâu thẳm trái tim bà.

*Bài học nhận thức và hành động:

–  Lòng trắc ẩn là điều cần có ở mỗi con người, đặc biệt trong cuộc sống hiện đại khi con người có xu hướng thu mình lại, quan tâm nhiều hơn đến bản thân, có những người bạn ảo mà quên đi còn rất nhiều cảnh đời cần có sự sẻ chia của mọi người.

– Cần trân trọng và nâng niu những tấm lòng trong xã hội dù là nhỏ bé nhất, bởi thứ nhỏ bé đó là thứ xã hội cần nhất.

 

1.0
d. Sáng tạo

Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.

0,25
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. 0,25
    2 Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đoạn trích … Từ đó, nhận xét sự tinh tế khi diễn tả sự hồi sinh trong tâm hồn nhân vật của nhà văn Tô Hoài. 5,0
  1. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận về một đoạn trích văn xuôi (có ý phụ)

Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.

0,25
  2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Vẻ đẹp của nhân vật Mị trong đoạn trích …, nhận xét sự tinh tế khi diễn tả sự hồi sinh trong tâm hồn nhân vật của nhà văn Tô Hoài.

0,25
  3. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Cụ thể:

3.1.Mở bài

– Tô Hoài là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông là nhà văn viết theo xu hướng hiện thực từ khi bắt đầu cầm bút, những sáng tác của ông phần lớn thiên về diễn tả sự thật của đời thường: Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc.Ông cũng là nhà văn hấp dẫn độc giả ở lối trần thuật của một người từng trải, hóm hỉnh, đôi lúc tinh quái nhưng luôn sinh động nhờ vốn từ vựng giàu có. Đồng thời, Tô Hoài cũng có một vốn sống đa dạng, vốn hiểu biết phong phú và sâu sắc về nhiều lĩnh vực đời sống, đặc biệt là những nét mới lạ trong phong tục, tập quán ở nhiều vùng khác nhau của đất nước và trên thế giới. Điều đó được thể hiện sâu sắc trong truyện Vợ chồng A Phủ;

– Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích thể hiện vẻ đẹp sức sống tiềm tàng, khát vọng tình yêu, hạnh phúc của nhân vật Mị, đồng thời nổi bật sự tinh tế khi diễn tả sự hồi sinh trong tâm hồn nhân vật của nhà văn Tô Hoài.

3.2.Thân bài

3.2.1. Khái quát tác phẩm: Truyện “Vợ chồng A Phủ” được nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1952, in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Tác phẩm gồm hai phần: phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ nhà thống lí Pá Tra; cuối phần một là cảnh Mị cứu và chạy theo A Phủ. Phần sau kể về Mị và A Phủ ở Phiềng Sa. Họ trở thành vợ chồng, được giác ngộ cách mạng.

– Vị trí đoạn trích:Thuộc phần đầu của truyện, diễn tả tâm trạng và hành động của Mị nhờ tác động của đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài

3.2.2. Cảm nhận vẻ đẹp của nhân vật Mị trong đoạn trích:

a. Về nội dung:

– Giới thiệu về nhân vật Mị và cuộc sống của Mị khi làm dâu trong nhà thống lí Pá Tra.

+ Cô gái có nhan sắc và phẩm chất tốt đẹp để xứng đáng được hưởng tình yêu hạnh phúc.

+ Mị bị bắt về làm dâu nhà Pá Tra vì món nợ truyền kiếp và bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần.

+ Sự trỗi dậy sức sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân bởi sự tác động của các yếu tố chủ quan và khách quan, nó biểu hiện ra thành những suy nghĩ nhận thức và  hành động.

-Vẻ đẹp của nhân vật Mị trong đoạn trích

+ Những yếu tố ngoại cảnh tác động tới sự hồi sinh của Mị: Cảnh Hồng Ngài bắt đầu vào xuân- cỏ gianh vàng ửng, gió rét dữ dội…; Cảnh các làng Mèo đỏ với những chiếc váy  hoa đem phơi ở các mỏm đá, tiếng trẻ con nô đùa trước sân. Đặc biệt là âm thanh tiếng sáo ở đầu núi rủ bạn đi chơi…

+Tiếng sáo đã dẫn đến hành động Mị “nổi loạn”. Mị lén lấy hủ rượu uống ực từng bát một, uống như nuốt cay đắng, phẩn uất vào lòng. Cách uống rượu của Mị chứa đựng sự phản kháng, Mị uống rượu như nuốt hờn, nuốt tủi, nén giận vào lòng, Mị uống rượu như muốn dồn men say của rượu để dịu đi những nuối tiếc khát khao, đau khổ, phẫn uất. Mị uống rượu mà như uống những cay đắng của phần đời đã qua và những khát khao của phần đời chưa tới. Men rượu và hơi xuân khiến người đàn bà không còn liên hệ gì với cuộc sống, không còn liên hệ gì với quá khứ nay bỗng “lịm mặt ngồi đấy… nhưng lòng Mị đang sống về ngày trước”. Song, có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị bồng bềnh về với nỗi khát khao của hạnh phúc, yêu thương có lẽ vẫn là tiếng sáo. Mị nghe tiếng sáo gọi bạn yêu ngoài đường, tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi. Người đàn bà lâu nay dửng dưng, âm thầm giờ đây đã thoát khỏi trạng thái vô cảm, thờ ơ. Mị không chỉ nghe tiếng sáo, Mị còn hình dung ra: “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”. Mị cảm nhận được sắc thái thiết tha, bồi hổi của tiếng sáo, nhận ra sự rạo rực, đắm say của người thổi sáo, thậm chí Mị còn ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi, bằng cách ấy Mị đã trở về với quá khứ.Tiếng sáo đã làm thức tỉnh con người tâm linh trong Mị. Mị nhớ lại kỉ niệm đẹp ngày xưa, uống rượu bên bếp và thổi sáo, Mị thấy phơi phới trở lại, đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước.

+Tiềm thức nhắc nhở Mị vẫn là một con người, Mị vẫn có quyền sống của một con người. Mị ý thức được Mị vẫn trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi. Tiếng sáo đã đưa Mị từ cõi quên về cõi nhớ, đã dìu hồn Mị trở về với nỗi khao khát, yêu thương.

+Thế nhưng, sự vượt khỏi hoàn cảnh của Mị diễn ra không hề đơn điệu, dễ dàng. Tô Hoài đã rất tinh khi đặt nhân vật Mị vào sự giao tranh giữa một bên là sức sống tiềm tàng, một bên là ý thức về thân phận. Ngòi bút của nhà văn như hóa thân vào nhân vật, để nâng niu, để trân trọng những giấc mơ tình tứ của con người, đồng thời lại rất tỉnh táo, khách quan khi phân tích, mổ xẻ những ngóc ngách sâu kín của tâm linh con người. Cho nên, bên cạnh cái năng nổ, khát khao, náo nức về sự tái sinh thì ở Mị vẫn còn lo lắng, day dứt, tủi hờn về thân phận: lòng phơi phới mà vẫn theo quán tính, Mị bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trắng trắng. Hình ảnh cái buồng kín chỉ có một cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay cứ trở đi trở lại trong tác phẩm. Nó trở thành một nỗi ám ảnh, day dứt người đọc. Khát vọng sống như ngọn lửa bùng cháy bao nhiêu thì Mị lại phẫn uất bấy nhiêu. Phẫn uất và đau khổ cho thân phận và số phận trớ trêu đầy bi kịch. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử và Mị lại không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Không thể cam chịu mãi kiếp nô lệ, kiếp làm dâu gạt nợ nên Mị đã muốn ăn lá ngón cho chết ngay. Mị muốn chết để không phải đối diện với thực tại, không phải nhớ lại quá khứ cùng với những ước mơ khao khát của mình. Sau bao nhiêu năm ở lâu trong cái khổ, Mị đã quen khổ rồi. Nay Mị đã thoát ra khỏi tình trạng lầm lũi, vô cảm để cảm nhận nỗi đau đớn, tủi cực của mình. Nhận thức ấy chua xót đến mức Mị không thể tiếp tục kiếp sống đau đớn, nô lệ, thậm chí cô lại muốn chết để thoát khỏi cuộc sống đầy đọa, đau khổ ở nhà thống lí Pá Tra. Hiện tại Mị đau đớn ê chề, tủi nhục, Mị muốn chết “Nếu có nắm lá ngón trong tay  lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa”. Mị muốn phản kháng lại hoàn cảnh, không chấp nhận cuộc sống trâu ngựa này nữa. Đó là  khi sức sống  tiềm tàng đã được đánh thức.

+ Ý thức về cái chết lại xuất hiện, nhưng lần này nó có ý nghĩa khác. Uất ức, nước mắt Mị ứa ra khi tiếng sáo gọi bạn tình vẫn lửng lơ bay ngoài đường. Tiếng sáo của tình yêu tuổi trẻ lại thôi thúc Mị, dìu hồn Mị theo những đám chơi. Khát vọng sống mãnh liệt được đẩy lên đến cao độ bởi sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng.Tâm hồn Mị diễn biến rất phức tạp trong quá trình thức tỉnh, nổi loạn. Mị đang sống trong nghịch lí giữa thân phận con dâu gạt nợ và niềm vui phơi phới muốn đi chơi Tết.

+ Đánh giá: Đoạn văn miêu tả tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân thể hiện sức sống tiềm ẩn trong Mị và tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của Tô Hoài. Thông qua đây, nhà văn khám phá, trân trọng, ngợi ca những khao khát tình yêu, hạnh phúc của con người, thể hiện niềm tin vào sức sống của con người không bị hủy diệt. Đồng thời lên án những thế lực tàn bạo chà đạp lên cuộc sống con người. Chính điều đó đã đem đến cho Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài những giá trị nhân đạo sâu sắc.

b.Về nghệ thuật: Diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân của Mị được nhà văn khéo léo thể hiện bằng nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, tự nhiên, ngôn ngữ biểu cảm, đặc biệt; là nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật…Tất cả đã làm nổi bật vẻ đẹp của sức sống tiềm tàng mãnh liệt của Mị.

3.2.3. Nhận xét sự tinh tế khi diễn tả sự hồi sinh trong tâm hồn nhân vật Mị của nhà văn Tô Hoài.

-Sự hồi sinh của tâm hồn nhân vật Mị được tác giả miêu tả tinh tế, phù hợp với tính cách của cô. Nhà văn sử dụng khá nhiều những yếu tố bên ngoài tác động vào nhân vật, được miêu tả rất tự nhiên như mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình, bữa tiệc đón năm mới… tất cả đã hoá thành những tiếng gọi đánh thức nỗi căm ghét bất công và tàn bạo cùng ý thức phản kháng lại cường quyền, đánh thức cả niềm khao khát một cuộc sống tự do, hoang dã và hồn nhiên vẫn được bảo lưu đâu đó trong dòng máu truyền lại từ lối sống của tổ tiên du mục xa xưa, làm sống dậy sức sống ẩn tàng trong cơ thể trẻ trung và tâm hồn vốn ham sống của Mị. Người đọc không thể không dừng lại, suy ngẫm và chia sẻ cảm xúc với những hành động của nhân vật Mị xuất phát từ những thôi thúc của nội tâm như các chi tiết:“Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát” trong một trạng thái thật khác thường. Rượu làm cơ thể và đầu óc Mị say, nhưng tâm hồn cô thì từ phút ấy, đã tỉnh lại sau bao tháng ngày câm nín, mụ mị vì sự đày đoạ. Cái cách uống rượu một hơi, một ực như thế, khiến người ta nghĩ: người uống rượu ấy đang thực sự phẫn nộ. Và người ta cũng có thể nghĩ: cô ấy uống như thể đang uống đắng cay của cái phần đời đã qua, như thể đang uống cái khao khát của phần đời chưa tới.Mị với cõi lòng đã phơi phới trở lại và cái ý nghĩ lạ lùng mà rất chân thực : “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa.” Nghịch lí trên cho thấy: khi niềm khao khát sống hồi sinh, tự nó bỗng trở thành một mãnh lực không ngờ, xung đột gay gắt, quyết một mất một còn với cái trạng thái vô nghĩa lí của thực tại. Sở trường phân tích tâm lí cho phép ngòi bút tác giả lách sâu vào những bí mật của đời sống nội tâm, phát hiện nét đẹp và nét riêng của tính cách.

-Với trang văn trong đoạn trích đầy ắp chất thơ và tấm lòng nhân hậu, một tài năng phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Tô Hoài đã khám phá diễn tả chiều sâu tâm hồn cùng những biến thái thăng trầm gấp khúc tuần tự và đột biết trong tâm trạng Mị. Chính sức sống tiềm tàng và mãnh liệt của người con gái Mèo xinh đẹp đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc và góp phần không nhỏ vào sự thành công của tác phẩm.

3.3. Kết bài:

– Kết luận về nội dung, nghệ thuật vẻ đẹp của nhân vật Mị;

– Nêu cảm nghĩ về giá trị tư tưởng và nghệ thuật của nhà văn Tô Hoài qua đoạn trích.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

0,25

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

0,25

 

 

 

 

 

 

 

2,0

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

0,5

 

 

 

1,0

  4. Sáng tạo

Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.

0,25
  5. Chính tả, dùng từ, đặt câu

Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu

0,25

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *