- ĐỌC HIỂU (3 điểm)
AI DẪN EM ĐẾN CHÂN TRỜI TRI THỨC
Ta là ai? Nhiều ngàn năm qua con người khắc khoải đi tìm gia phả của mình để vẽ ra những lược đồ, phả hệ. Trái Đất là gì? Vũ trụ bao la này là gì? Cũng nhiều ngàn năm con người miệt mài khám phá, lớp sau nối lớp trước để có đáp số ngày càng gần chân lý.
Để rồi có khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn. Có toán, có lý, có văn, có địa, có sử, có hóa, có sinh… Có cả bầu trời tri thức mở ra trước mắt em. Cả những công thức, cả những phương pháp để em tiếp tục kiếm tìm và khám phá.
Ai đã dẫn em đến chân trời tri thức ấy? – Là những người thầy, người cô đã đi cùng em từ ngày em được khai tâm – vỡ lòng. Mẹ cha. Gia đình, xã hội – trong đó có thầy cô – đã có công dưỡng dục để em không chỉ lớn người mà còn là người lớn.
Khi một em bé lạc trong rừng rậm Sumatra và được chó sói nuôi dạy thì em bé mãi mãi chỉ là một em – bé – nhiều – tuổi, chỉ là con mà chưa phải là người, bởi em không có tinh – thần – người, tình cảm – người, buồn – vui – người, năng lực – người, văn minh – người.
Khi em không được học hành, trí tuệ của em chỉ là rừng hoang. Mặt trời mọc thế nào, máu tuần hoàn ra sao… Nước sao không chảy từ thấp lên cao. Sao không thế này mà lại là thế kia… Thầy cô là người gieo hạt, là người làm vườn để trí tuệ em đâm chồi nảy lộc, để thành hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng… Để em đủ vốn sống và tự mình đi tiếp trong đời. Tất nhiên em còn được học từ sách vở, từ máy tính, từ trường đời, nhưng trên tất cả, ơn nghĩa của thầy cô thật lớn lao.
Cha ông mình gọi người thầy là sư phụ. Sư là thầy, phụ là cha. Vì lòng biết ơn và kính trọng, người học trò đặt vị trí của người thầy ngang hàng với người cha.
Và như vậy, em hãy tiếp tục nói lời biết ơn thầy cô trong ngày 20/11, nhất là khi em đang bước vào thế kỷ mới – kỷ nguyên của tri thức, của một xã hội Việt Nam học tập.
(Dẫn theo Facebook Đoàn Công Lê Huy, ngày 20/11/2018)
Câu 1. Mục đích của văn bản là gì?
Câu 2. Tác giả giải thích từ “sư phụ” như thế nào? Điều đó có ý nghĩa gì?
Câu 3. Nêu tên và tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu: “Khi em không được học hành, trí tuệ của em chỉ là rừng hoang”?
Câu 4. Anh/Chị hãy tự trả lời câu hỏi: “Ai dẫn em đến chân trời tri thức?”.
- LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1. Viết đoạn văn khoảng 200 chữ nêu quan điểm của anh/chị về: Tôn sư trọng đạo trong thời đại ngày nay.
Câu 2. Trong cảnh VII, vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, cuộc đối thoại xác và hồn là cuộc đối thoại vô cùng gay gắt, mạnh mẽ. Phân tích cuộc đối thoại để thấy được bi kịch tha hoá của Trương Ba và triết lý nhân sinh Lưu Quang Vũ gửi gắm.
LỜI GIẢI CHI TIẾT
ĐỀ SỐ 24
- ĐỌC HIỂU
Câu 1. Mục đích của văn bản là khuyên người đọc nên kính trọng, tri ân thầy cô giáo – người đã dạy dỗ, bảo ban ta – “hãy tiếp tục nói lời biết ơn thầy cô trong ngày 20/11”.
Câu 2.
Tác giả giải thích nghĩa từ “sư phụ”: Sư là thầy, phụ là cha.
Qua đó nêu lên ý nghĩa: “Vì lòng biết ơn và kính trọng, người học trò đặt vị trí của người thầy ngang hàng với người cha”.
Câu 3.
Câu: “Khi em không được học hành, trí tuệ của em chỉ là rừng hoang” sử dụng biện pháp tu từ so sánh:
– So sánh “trí tuệ khi không được học hành” với “rừng hoang”.
– Tác dụng:
+ Khiến lời văn giàu hình ảnh, sinh động, cụ thể.
+ Nhằm thể hiện vai trò của học hành, khi không được học hành, trí tuệ con người phát triển tự nhiên như bản năng vốn có, không được chăm chút, sẽ như hình ảnh của rừng hoang: mạnh mẽ nhưng um tùm, lộn xộn, không có mục đích.
Câu 4.
Có nhiều cách trình bày:
+ Hình thức: 5-7 dòng
+ Nội dung: Nêu câu trả lời – Bàn luận làm rõ cho câu trả lời của mình.
Gợi ý:
“Ai dẫn em đến chân trời tri thức?” Câu hỏi ấy có lẽ không cần nghĩ, đa phần chúng ta cũng nói lên theo bản năng: thầy cô. Nhưng có mấy ai dành thời gian suy ngẫm cho kĩ càng: chúng ta đã đến với tri thức như thế nào? Bé, chúng ta học từ cha mẹ, ông bà. Lớn hơn, chúng ta học từ thầy cô, sách vở. Rời khỏi nhà trường, chúng ta học từ cuộc sống,… Có biết bao người đồng hành trên con đường đến tri thức. Tất cả đều chỉ cho ta những điều ta chưa biết, tiếp nhận hay không chính là phần của chúng ta. Chỉ có nhu cầu học hỏi và trau dồi mới dẫn được ta tới chân trời tri thức tươi sáng. Và chỉ khi có nhu cầu hiểu biết, nhận định được giá trị của kiến thức, con người mới thấm được ơn nghĩa thầy cô – những người đồng hành bên ta suốt dọc con đường tìm kiếm tri thức.
- LÀM VĂN
Câu 1.
- Yêu cầu chung:
– Nội dung:
+ Xác định đúng vấn đề nghị luận;
+ Thể hiện được quan điểm cá nhân, đảm bảo được tính nhân văn trong bài viết;
+ Triển khai vấn đề thành các luận điểm, luận cứ phù hợp, trình tự hợp lí, lập luận chặt chẽ; sử dụng phù hợp các thao tác lập luận biết kết hợp giữa nếu lí lẽ và đưa dẫn chứng.
– Hình thức:
+ Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận;
+ Đoạn văn mạch lạc, diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết;
+ Lời văn có cá tính và cảm xúc;
+ Không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
- Yêu cầu cụ thể: thực trạng đọc sách của giới trẻ Việt trong thời đại số.
Hệ thống ý | Dẫn dắt | – Nêu từ khóa: tôn sư trọng đạo |
Giải thích | – “Tôn sư” có nghĩa là tôn trọng, kính trọng thầy, “trọng đạo” có nghĩa là coi trọng những đạo lý, những điều tốt đẹp được lưu giữ, truyền bá trong cuộc sống. | |
Phân tích | – Truyền thống tôn sư trọng đạo của người Việt ta.
– Thực trạng của truyền thống này ngày nay. – Vì sao cần giữ gìn truyền thống tôn sư trọng đạo? – Xã hội hiện đại, thầy cô như người bạn lớn, có cần giữ quan niệm cũ về tôn sư trọng đạo? |
|
Liên hệ | – Bài học/Liên hệ + Từ khóa.
Nhớ ơn thầy cô,… |
Câu 2.
- Yêu cầu chung:
– Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục rõ ràng, đầy đủ; văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tích, cảm thụ.
– Diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
- Yêu cầu cụ thể:
ĐỌC HIỂU YÊU CẦU ĐỀ
– Đối tượng chính, trọng tâm kiến thức: Trương ba, Hàng thịt, Cuộc đối thoại hồn – xác – Dạng bài: Phân tích – Yêu cầu: Làm rõ bị kịch tha hoá của Trương Ba và triết lý nhân sinh Lưu Quang Vũ gửi gắm. Các em lưu ý đây là thể loại Kịch, cần bám sát đặc trưng thể loại, nắm được xung đột kịch và bám vào lời thoại nhân vật. |
|||
TIẾN TRÌNH BÀI LÀM | |||
KIẾN THỨC | HỆ THỐNG Ý | NỘI DUNG CẦN ĐẠT | ĐIỂM |
CHUNG | Khái quát vài nét về tác gia – tác phẩm | – Lưu Quang Vũ, người được mệnh danh là cây bút vàng của sân khấu kịch Việt Nam, đến với kịch như cơ duyên, Lưu Quang Vũ luôn mang khát vọng được bày tỏ, muốn được thể hiện tâm hồn mình vào thế giới xung quanh, muốn được tham dự vào dòng chảy mãnh liệt của đời sống, được trao gửi và dâng hiến. Có người gọi đó là nguồn nhiệt hứng không bao giờ vơi cạn của ông.
– Hồn Trương Ba, da hàng thịt được Lưu Quang Vũ viết năm 1981 nhưng đến năm 1984 mới công diễn. Vở kịch chia làm 7 cảnh, đoạn trích chúng ta tìm hiểu là cảnh cuối cùng. Vở kịch được lấy cảm hứng từ truyện Dân gian: Hồn Trương Ba, da hàng thịt. |
0.5 |
TRỌNG TÂM | Phân tích | – Đoạn trích hội VII, màn đối thoại giữa hôn và xác chính là cảnh mâu thuẫn được đẩy lên cao trào, bi kịch tha hóa của Trương Ba được bật lên rõ rệt:
+ Mở đầu đoạn trích là màn độc thoại của Hồn Trương in Ba: “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi!… Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó được tách khỏi thân xác này, dù chỉ một lát”. Lời độc thoại cho thấy con người đang ở trạng thái u uất, bế tắc, không lối thoát. + Trong màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt này ta thấy lượt lời của Trương Ba ít hơn và ngắn hơn lời của xác hàng thịt. Trong đó, Trương Ba phủ nhận hoàn toàn vai trò của xác thịt. Phủ nhận tiếng nói, phủ nhận tư tưởng, cảm xúc. Đặc biệt hơn đây là những lời miệt thị, coi khinh phần xác của hồn, cũng là cách hồn nâng cao giá trị của mình so với xác. + Thế nhưng, xác thịt cũng có những lý lẽ, những dẫn chứng khiến cho hồn phải đuối lý. Xác đã chỉ ra sự tha hoá của hồn bằng những chứng cứ khiến hồn không thể chối cãi, xác dẫn dắt hồn vào sự thật không thể phủ nhận. + Nhưng chưa hết, để chứng minh sức mạnh của xác, nó tiếp tục chứng minh sự sai khiến với hồn. + Trương Ba từ một người cha mẫu mực, luôn khuyên Do o dlahy dạy con những điều hay lẽ phải, thì giờ trở thành con người thô lỗ, phũ phàng. + Và, để khẳng định vai trò của xác, đáp lại sự phủ nhận của hồn, xác khẳng định, xác là “cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng cuốc xới. Ông nhìn ngắm trời đất, cây cối, những người thân… nhờ có tôi mà ông cảm nhận thế giới qua những giác quan của tôi…”. + Như vậy, đối với hồn, xác rất quan trọng bởi dù sao đi chăng nữa nếu không có xác, hồn chẳng có chốn dung thân và ngược lại nếu không có hồn thì xác cũng chỉ “âm u đui mù”. Vì thế cho nên “chúng ta tuy hai mà một”. |
3.5 |
Bàn luận | – Nội dung cuộc đối thoại xoay quanh một vấn đề giàu tính triết lí, thể hiện cuộc đấu tranh dai dẳng giữa hai mặt tồn tại trong một con người. Từ đó nói lên khát vọng hướng thiện của con người và tầm quan trọng của việc tự ý thức, tự chiến thắng bản thân.
– Qua đó ta thấy: Trương Ba được sống nhưng là sống nhờ sống gửi, sống vay mượn đáng hổ thẹn vì phải chung đụng với sự dung tục và bị sự dung tục đồng hoá. Tác giả cảnh báo: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Khi con người phải sống trong dung tục thì cái dung tục sẽ ngự trị, sẽ dần thắng thế, lấn át và sẽ tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người. |
0.5 |
Bài làm mẫu
Từng có nhận định cho rằng: “Có lẽ năm mươi năm trở lại đây, không có một ai có thể làm được như Lưu Quang Vũ”. Lời nhận định không chỉ công nhận tài năng mà còn khẳng định những đóng góp to lớn của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đối với nghệ thuật kịch hiện đại. Tên tuổi của Lưu Quang Vũ gắn liền với rất nhiều vở kịch nổi tiếng như: Mùa hạ cuối cùng, Bệnh sĩ, Lời thề số 9 và tiêu biểu nhất có thể kể đến Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Thành công của Hồn Trương Ba, da hàng thịt không chỉ là sự tài tình của tác giả khi biến một cốt truyện dân gian thành một vở kịch hiện đại với cái kết đầy ám ảnh, thành công của vở kịch còn nằm ở những triết lý ngầm trong từng câu thoại, mà ám ảnh nhất chính là cuộc đối thoại của hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt.
Lưu Quang Vũ, người được mệnh danh là cây bút vàng của sân khấu kịch Việt Nam, đến với kịch như cơ duyên, Lưu Quang Vũ luôn mang khát vọng được bày tỏ, muốn được thể hiện tâm hồn mình vào thế giới xung quanh, muốn được tham dự vào dòng chảy mãnh liệt của đời sống, được trao gửi và dâng hiến. Có người gọi đó là nguồn nhiệt hứng không bao giờ vơi cạn của ông. Hồn Trương Ba, da hàng thịt được Lưu Quang Vũ viết năm 1981 nhưng đến năm 1984 mới công diễn. Vở kịch chia làm 7 cảnh, đoạn trích chúng ta tìm hiểu là cảnh cuối cùng. Vở kịch được lấy cảm hứng từ truyện Dân gian: Hồn Trương ba, da hàng thịt.
Đoạn trích hồi VII, màn đối thoại giữa hồn và các chính là cảnh mâu thuẫn được đẩy lên cao trào, bi kịch tha hóa của Trương Ba được bật lên rõ rệt. Mở đầu đoạn trích là màn độc thoại của Hồn Trương Ba. Tác giả để Trương Ba ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy tuôn ra một trang độc thoại đầy đau khổ “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi!… Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó được tách khỏi thân xác này, dù chỉ một lát”. Lời độc thoại cho thấy con người đang ở trạng thái u uất, bế tắc, không lối thoát. Và trong sự khát khao tách bạch ấy, hồn đã được tách ra khỏi thể xác vốn không phải của hồn và màn đối thoại bắt đầu. Trong màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt này ta thấy lượt lời của Trương Ba ít hơn và ngắn hơn lời của các hàng thịt. Trong đó những lời thoại đầu là dài nhất, và mạnh mẽ hơn cả: “A, mày cũng có tiếng nói kia a? Vô li, mày không thể có tiếng nói mà chỉ là xác thịt âm 14, đui mù”, “Mày chỉ là cái vỏ ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc!”, “Chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt.”
Từ những lời thoại trên, ta nhận ra mấy điều mà Trương Ba đang nghĩ, đang cảm nhận, cũng như nỗi đau của Trương Ba. Trước hết, Trương Ba phủ nhận hoàn toàn vai trò của xác thịt. Phủ nhận tiếng nói, phủ nhận tư tưởng, cảm xúc. Và dùng những lời cay nghiệt vỗ thẳng mặt xác hàng thịt là: thứ âm u đui mù, thứ thấp kém, là cái vỏ ngoài, ngang bằng với loài thú. Những lời lẽ này cho thấy một sự căm phẫn của phần hồn. Đặc biệt hơn đây là những lời miệt thị, coi khinh phần xác của hồn, cũng là cách hồn nâng cao giá trị của mình so với xác.
Thế nhưng, xác thịt cũng có những lý lẽ, những dẫn chứng khiến cho hồn phải đuối lý. Xác hàng thịt đã cười nhạo hồn Trương Ba, tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù ghê gớm của mình “Có đấy, xác thịt có tiếng nói đấy. Chính vì âm u đui mù nên tôi mới có sức mạnh ghê gớm lắm khi lấn át được cái linh hồn cao khiết của ông”. Như một sự mỉa mai và láu cá, xác đã làm hồn phải ứ nghẹn. Và để chứng minh, xác đã chỉ ra sự tha hoá của hồn bằng những chứng cứ khiến hồn không thể chối cãi, xác dẫn dắt hồn vào sự thật không thể phủ nhận. Nếu như trước đây, Trương Ba là một người thanh cao, một con người đứng đắn, thì nay hồn Trương Ba ít nhiều đã bị vấy bẩn, tha hóa bởi dục vọng thấp hèn của thân xác: “Khi ông ở bên nhà tôi… Khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại… Đêm hôm đó, suýt nữa thì…”. Xác đã nhắc lại sinh động, tường tận dục vọng vật chất thấp hèn càng bồi thêm nỗi dằn vặt vì sự thật không thể chối. Là người có tuổi, lại rất tự trọng, điều đó khiến Trương Ba đau đớn, và khó có thể tha thứ cho bản thân.
Nhưng chưa hết, để chứng minh sức mạnh của xác, nó tiếp tục chứng minh sự sai khiến với hồn. Chính hồn đã lâng lâng cảm xúc trước các món ăn dung tục “tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi”. Những món ăn của phường đồ tể nay lại khiến một con người thanh đạm thích thú, đó là điều khó có thể chấp nhận. Trương Ba từ một người cha mẫu mực, luôn khuyên dạy con những điều hay lẽ phải, thì giờ trở thành con người thô lỗ, phũ phàng. Khi khuyên thằng con đi vào con đường ngay thẳng không được, ông đã nổi giận “tát thằng con toé máu mồm, máu mũi”, trong cái tát nảy lửa đó, có sự góp sức của bàn tay đồ tể. Và cả tính cách đồ tể nữa.
Một chi tiết thêm để nói về sự tha hóa của Trương Ba trong cuộc đối thoại với đứa cháu gái. Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới tươm” trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái điều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, “Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Hay nói cách khác, ông Trương Ba làm vườn khéo léo nay còn đâu, chỉ còn con người thô vụng, đụng đầu hỏng đó. Và, để khẳng định vai trò của xác, đáp lại sự phủ nhận của hồn, xác khẳng định, xác là “cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng cuốc xới. Ông nhìn ngắm trời đất, cây cối, những người thân… nhờ có tôi mà ông cảm nhận thế giới qua những giác quan của tôi…”.
Như vậy, đối với hồn, xác rất quan trọng bởi dù sao đi chăng nữa nếu không có xác, hồn chẳng có chốn dung thân và ngược lại nếu không có hồn thì xác cũng chỉ “âm u đui mù”. Vì thế cho nên “chúng ta tuy hai mà một”. Màn đối thoại kết thúc, Trương Ba thua cuộc và buộc chấp nhận hoàn cảnh.
Nội dung cuộc đối thoại xoay quanh một vấn đề giàu tính triết lí, thể hiện cuộc đấu tranh dai dẳng giữa hai mặt tồn tại trong một con người. Từ đó nói lên khát vọng hướng thiện của con người và tầm quan trọng của việc tự ý thức, tự chiến thắng bản thân. Qua đó ta thấy: Trương Ba được sống nhưng là sống nhờ sống gửi, sống vay mượn đáng hổ thẹn vì phải chung đụng với sự dung tục và bị sự dung tục đồng hoá. Tác giả cảnh báo: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Khi con người phải sống trong dung tục thì cái dung tục sẽ ngự trị, sẽ dần thắng thế, lấn át và sẽ tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người.
Còn gì đau khổ hơn khi phải sống trong tình cảnh bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo như Trương Ba? Thấm thía! Ngậm ngùi! Chấp nhận giải thoát để được là “tôi toàn vẹn”! Từng lời thoại của vở kịch Hồn Trương ba, da hàng thịt như chất chứa bao trăn trở, suy tư của người viết về cuộc đời, con người. Và sau tất cả, Lưu Quang Vũ, với đôi mắt nhìn đời tỉnh táo, đã để nhân vật của mình được giải thoát, để cuộc đời của Trương Ba mãi là một cuộc đời có nghĩa. Còn bạn, bạn chọn một cuộc sống thực hay chọn sự tồn tại vô nghĩa?
- Kiến thức bổ trợ
CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA HỒN VÀ XÁC (TRÍCH)
Kịch của Lưu Quang Vũ khai thác nhiều đề tài, đi vào khám phá mọi mặt của đời sống xã hội và con người. Có thể phân chia, sắp xếp kịch Lưu Quang Vũ ra làm nhiều loại căn cứ vào cốt truyện của kịch bản. Cha ông ta có câu “có tích mới dịch nên trò”. Có thể hiểu nôm na “tích” chính là cốt truyện, phải có cốt truyện mới tạo dựng thành tác phẩm, sân khấu mới có kịch để diễn. Kịch của Lưu Quang Vũ thường được xây dựng trên một cốt truyện chắc chắn, chủ yếu tập trung vào các vấn đề, các sự kiện quan trọng trong đời sống. Việc khai thác các mô típ dân gian, dựa vào đó để viết kịch bản mang đậm dấu ấn cá nhân và phong cách của mình đã tạo cho kịch Lưu Quang Vũ một chiều sâu đáng kể. Nó tạo cho kịch của anh sự phong phú về đề tài, hấp dẫn ở cốt truyện, lôi cuốn ở nghệ thuật xây dựng nhân vật. Trong số kịch bản của Lưu Quang Vũ, khối lượng những vở khai thác trực tiếp từ cốt truyện dân gian không nhiều, nhưng hầu hết những vở kịch đó đều đạt tới hiệu quả nghệ thuật tương đối cao. Tiêu biểu nhất là vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Vở kịch này được viết từ năm 1984, nhưng cho đến năm 1987, trong không khí đổi mới dân chủ, mới được ra mắt công chúng. Giới nghiên cứu phê bình cho rằng đây là một trong những vở kịch hay nhất của Lưu Quang Vũ. Ngay khi mới công diễn, vở kịch đã gây chấn động dư luận, tạo ra một không khí tranh luận sôi nổi trên báo chí và trong giới sân khấu. Với sự dàn dựng của đạo diễn Nguyễn Đình Nghi và lớp diễn xuất có nghề của Nhà hát Kịch Việt Nam, vở diễn đã thể hiện sâu sắc tính đa nghĩa của một kịch bản có cấu trúc chặt chẽ, giàu trí tuệ. Một cốt truyện dân gian quen thuộc, chẳng mấy ai tranh luận về ý nghĩa của truyện, vậy mà khi Lưu Quang Vũ đưa lên sân khấu, vở kịch không chỉ dừng lại ở những giá trị ban đâu mà nó còn đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ. Vở kịch không chỉ nói đến sự hoà hợp và ý thức đạo lý về phần hồn và phần xác con người mà còn đề cao cuộc đấu tranh cho sự hoàn thiện nhân cách con người. Qua những lời đối thoại ngắn gọn, súc tích, các nhân vật trong thế giới dân gian xưa cũ trở nên gần gũi, quen thuộc, như đang cùng tham dự với cuộc sống đương đại của chúng ta. Vở kịch không chỉ đề cập đến chuyện của một thời mà còn đề cập đến chuyện của muôn đời. Đó là triết lý nhân sinh về lẽ sống, lẽ làm người. Những rắc rối đổ vỡ bắt nguồn từ sự sống vay mượn của Trương Ba trong các anh hàng thịt đã khiến cho chúng ta thấy: Cuộc sống thật là đáng quý nhưng không phải sống thế nào cũng được. Sống vay mượn, chắp vá, không có sự hài hoà giữa hồn và xác chỉ đem lại bi kịch cho con người. Cuộc sống chỉ có giá trị khi con người được sống đúng là mình, được sống trong một thể thống nhất.
Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt không chỉ đề cập đến đời sống một cá nhân mà còn đặt ra những vấn đề của xã hội. Thói quan liêu, vô trách nhiệm của Nam Tào Bắc Đẩu đã tước đi mạng sống của người dân vô tội và gây nên bao nhiêu chuyện rắc rối. Sự sửa sai chắp vá của Đế Thích lại là tiền đề bất hạnh cho cuộc đời hồn nọ xác kia không hoàn chỉnh của ông Trương Ba. Mọi sự sửa sai không đúng chỗ đều chứa trong nó nhiều bi kịch hơn là niềm vui. Quyết định vĩnh viễn từ bỏ cuộc sống vay mượn giả tạo của Trương Ba ở phần kết là một sự phản kháng mãnh liệt và đau đớn.
Trích đoạn Hồn Trương Ba, da hàng thịt đưa vào dạy trong SGK Ngữ văn lớp 12 là một phần thuộc Cảnh VII – cũng là cảnh cuối cùng của vở kịch, được đặt tên là “Thoát ra nghịch cảnh”. Trọng tâm của lớp kịch là cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác Trương Ba. Do đó lời thoại đây vừa có thể coi là độc thoại vừa có thể coi là đối thoại. Nó là một lời thoại đặc biệt, vừa chứa đựng mâu thuẫn vừa mang tính hành động, thúc đẩy tình huống kịch phát triển đến mức cao nhất. Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác là đỉnh cao tư tưởng triết lý của vở kịch. Cuộc đối thoại đó cùng với thái độ và những lời đối thoại của những người ruột thịt thân yêu nhất đã dẫn đến hành động quyết liệt – kiên quyết chối từ một cuộc sống chắp vá hồn nọ xác kia của Trương Ba. Lưu Quang Vũ đã để cho nhân vật của mình chọn một con đường tưởng như tiêu cực nhưng hết sức cần thiết và đúng đắn: Rời bỏ cõi đời này để được đúng là mình, để giữ trong ký ức những người thân kỷ niệm tốt đẹp về mình.
(PGS. TS Lưu Khánh Thơ)