ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn thơ sau:
“…Sắp đặt đời mình đâu chỉ tự mình thôi
Gặp cầu phải qua gặp sông phải lội
Vẫn còn nhiều nẻo đường trên mặt đất này chưa có lối
Mà cái đích mỏng manh lại tấp tểnh tận đâu rồi
Mẹ dặn con ra đường nhìn thẳng
Nhưng đừng quên ngoái lại phía sau
Nhìn thẳng để tới nhanh
Ngoái lại đằng sau để không về muộn
Gắng nhớ những gì cần nhớ
Và chớ phung phí thời gian vào những cái phải quên
Nghĩ suy nên cứng cáp
Nói năng lại phải mềm
Quá khứ không toàn là kỷ niệm
Quá khứ có lúc còn buốt óc
Quá khứ lộ thiên
Có đá có vàng
Có cả những báu vật rồi ngày mai ai may thì sẽ thấy
Có cả những màu mây chưa từng đến với trời
Có cả đống bão giông đang tích điện đợi ngày dâng hồng thuỷ
Và có cả gương mặt của chính mình sẽ mọc lại với mùa sau
Nếu ai quên quá khứ của mình
Một mai thôi
Như dòng sông tắt nước.”
(Trích “Bóng đa làng”, tập thơ “Trầm tích”,
Hoàng Trần Cương, NXB Hội Nhà văn, 1996)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Xác định thể thơ của văn bản.
Câu 2. Chỉ ra những điều mẹ dặn được nêu trong bài thơ.
Câu 3. Nêu hiệu quả của biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong các câu thơ:
Nếu ai quên quá khứ của mình
Một mai thôi
Như dòng sông tắt nước.”
Câu 4. Anh/ chị hiểu như thế nào về cách ứng xử của con người trong cuộc sống được thể hiện qua hai câu thơ:
Nghĩ suy nên cứng cáp
Nói năng lại phải mềm
Câu 5. Anh/Chị có đồng tình với quan điểm của tác giả trong câu thơ “Sắp đặt đời mình đâu chỉ tự mình thôi” không? Vì sao?
- VIẾT (6.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm): Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích đặc sắc trong nghệ thuật trần thuật (lời kể chuyện, điểm nhìn, ngôi kể) của trích đoạn sau:
Một bận, đến hai ngày liền tôi không thấy anh thợ của tôi làm việc. Cái quán cắt tóc bỏ vắng hai ngày liền. Sáng ngày thứ ba vẫn thế. Và lại thấy một người đàn bà ra dọn dẹp, chứ không phải bà cụ già lòa như mọi ngày. Tôi chạy sang. Chiếc ghế cắt tóc không còn nữa. Chỉ còn chiếc gương và mấy cái chai lọ. Người đàn bà hỏi tôi:
– Bác đến cắt tóc?
– Vâng.
– Nhà em mấy hôm nay đang dọn cái chỗ làm mới ở phố ngoài kia. Ngày mai xong. Xin mời bác đến.
Vợ anh có vẻ trạc tuổi gần ba mươi. Một khuôn mặt đàn bà hiền lành. Chị vừa nói vừa bóc tấm tranh của tôi ra. Tôi gợi chuyện.
– Bức tranh đẹp đấy chứ, chị nhỉ?
Người đàn bà hơi đỏ mặt, cuốn tấm tranh lại một cách cẩn thận. Lâu sau mới đáp:
– Anh nhà tôi bảo: Anh bộ đội trong tờ tranh này chính là người ta vẽ anh ấy. Hồi anh ấy còn ở bộ đội trong B. Cho nên mới mua về treo.
– Anh ấy nói với chị thế?
– Vâng.
– Hôm trước tôi đến cắt tóc ở đây có thấy một bà cụ…
– Là mẹ anh nhà tôi. Thế ra bác là khách quen?
– Vâng. Bà cụ bị tật lâu chưa?
– Thưa đã lâu. Đã chín năm nay.
– Vì sao?
– Bà cụ lòa đi cũng vì anh nhà tôi. Ngày đó bỗng nhiên có tin ra nhà tôi hy sinh. Bà cụ đâm ốm. Anh ấy là con một. Bà cụ nhớ anh ấy, nửa đêm cũng trở dậy đi lang thang. Cứ khóc hoài…
– Bà cụ lòa từ năm nào, chị biết không?
– Từ 69.
– Từ tháng mấy?
– Tôi cũng không nhớ thật rõ, có lẽ khoảng giữa năm.
Tôi ra đến Hà Nội vào đầu tháng ba năm ấy. Nếu tôi là một người tử tế ra thì không khéo bà cụ không bị lòa, không những thế mà tôi còn có thể làm cho bà cụ khỏe ra! Chính tôi đã làm cho bà mẹ anh trở thành mù lòa?
[…] Tôi quyết định phải trở lại cái quán kia. Tôi quyết định phải chường cái mặt mình ra, chứ không được lẩn tránh. Tôi không cho phép tôi chạy trốn. Bà cụ lại ngước mắt lên nhìn tôi như lần trước khuôn mặt đờ đẫn và hoan hỉ:
– Thưa ông đến cắt tóc?
– Vâng ạ!
Anh thợ cắt tóc nghe mẹ lên tiếng mới quay người lại. Tôi vừa kịp nhận ra được từ nơi cặp mắt vẫn còn trẻ của anh chiếu thẳng về phía tôi một cái nhìn ban đầu soi mói, ngạc nhiên, rồi hơi nghiêm mặt lại. Nhưng những diễn biến phản ứng trên cái mặt người thợ chỉ diễn ra nhanh như một cái chớp mắt. Ngay sau đó anh lại trở lại cái vẻ mặt và cử chỉ từ tốn, điềm đạm, ân cần của một người thợ cắt tóc đứng đắn và yêu nghề.
Da mặt tôi tự nhiên dày cộm lên.
– Mời bác ngồi!
Tôi cố trấn tĩnh để khỏi run lập cập, bước tới ngồi vào cái ghế gỗ như một cái ghế tra điện.
– Bác vẫn cắt như cũ?
– Vâng.
…
Gần nửa năm, tôi đã để vào bức tranh sơn mài tất cả công sức và sự suy nghĩ, và trong suốt thời gian ấy, một đôi lần tôi cũng gợi lại chuyện cũ nhưng người thợ vẫn một mực cố tỏ ra chưa hề bao giờ quen biết tôi. Trở về làm một anh thợ cắt tóc cũng như lúc ở bộ đội, anh vẫn lẳng lặng sống như vậy để cho người chung quanh tự phán xét lấy những công việc đã làm. Lời đề nghị rụt rè của anh: Xin mọi người hãy tạm ngừng một phút cái nhịp sống bận bịu, chen lấn, để tự suy nghĩ về chính mình.
(Trích truyện ngắn Bức tranh, Nguyễn Minh Châu,
tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, 1983)
Chú thích:
Nguyễn Minh Châu (20 tháng 10 năm 1930 – 23 tháng 1 năm 1989), tên thật là Nguyễn Thí, là một nhà văn có ảnh hưởng quan trọng đối với văn học Việt Nam trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam và thời kỳ đầu của Đổi mới. Ông là một trong những cây bút văn xuôi tiêu biểu của nền văn học Việt Nam 1954 – 1975.
Câu 2 (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bày tỏ ý kiến của anh/chị về sự cần thiết phải biết trân trọng quá khứ.
- ĐÁP ÁN, HƯỚNG DẪN
Phần | Câu | Nội dung | Điểm |
I | ĐỌC HIỂU | 4,0 | |
1 | Thể thơ tự do.
*/ Cách cho điểm: – Điểm 0,5 : Trả lời đúng như trên – Điểm 0: Trả lời sai hoặc không trả lời |
0,5 | |
2 | Những điều mẹ dặn được nêu trong bài thơ:
– Ra đường nhìn thẳng để tới nhanh, ngoái lại phía sau để không về muộn; – Nhớ những gì cần nhớ; chớ phung phí thời gian vào những cái phải quên; – Nghĩ suy nên cứng cáp; Nói năng lại phải mềm. – Không được quên quá khứ. */ Cách cho điểm: – Điểm 0,5 : Trả lời đúng từ 3 đến 4 ý. – Điểm 0,25 : Trả lời đúng 1 đến 2 ý. – Điểm 0: Trả lời sai hoặc không trả lời. |
0,5 | |
3 | Hiệu quả của phép tu từ
– So sánh những người lãng quên quá khứ với “dòng sông tắt nước”. (0,25 điểm) – Hiệu quả: + Làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho lời thơ; (0,25 điểm) + Nhấn mạnh/ làm nổi bất kết cục tất yếu với những ai thờ ơ, lãng quên quá khứ, nguồn cội chính là đã hủy hoại đi ý nghĩa tồn tại của đời mình, hủy diệt chính mình; (0,25 điểm) + Là lời cảnh báo, nhắc nhở để mỗi người trân quý quá khứ, cội nguồn. (0,25 điểm) |
1,0 | |
4 | – Cách ứng xử của con người trong cuộc sống được thể hiện trong hai câu thơ: Nghĩ suy nên cứng cáp/ Nói năng lại phải mềm”
+ Suy nghĩ cứng cáp và có lập trường vững vàng cho bản thân. + Lời nói lại không được cứng rắn mà phải lựa lời, mềm dẻo. – Đây mới chính là cách ứng xử linh hoạt trong giao tiếp và xử lý các mối quan hệ. */ Cách cho điểm: – Điểm 1,0 : Trả lời đúng 2 ý. – Điểm 0,5 : Trả lời đúng 1 ý. – Điểm 0: Trả lời sai hoặc không trả lời. |
1,0 | |
5 | Anh/Chị có đồng tình với quan điểm của tác giả trong câu thơ “Sắp đặt đời mình đâu chỉ tự mình thôi” không? Vì sao?
* Học sinh nêu quan điểm: đồng tình/ không đồng tình/ ý kiến khác * Lý giải thuyết phục, dưới đây là một hướng – Nếu đồng tình: + Kiến tạo nên cuộc đời của mỗi người là sự chi phối, ảnh hưởng từ vô vàn yếu tố: gia đình, môi trường, xã hội, thời đại, quá khứ – hiện tại – tương lai, may mắn, thất bại,… + Tự mình – tự lập, tự chủ,… là điều vô cùng cần thiết song vẫn là yếu tố chủ quan, nhiều khi không thể vượt qua/ chiến thắng nhưng trở lực lớn trong cuộc đời, không đủ tiềm lực để tạo nên phiên bản đời mình tốt nhất. + Có thêm nhiều trợ giúp, sự sắp đặt đời mình sẽ nhanh hơn, đi xa hơn và hiệu quả hơn… – Nếu không đồng tình: Trả lời theo hướng phản biện lại vấn đề + Có nhiều yếu tố khách quan ảnh hưởng, tác động đển sự sắp đặt cuộc đời mỗi cá nhân. Nhưng yếu tố mang tính quyết định lại đặc biệt thuộc về bản thân con người, yếu tố tự mình. + Bản thân mình hiểu rõ năng lực, sở trường, sở đoản; nếu có va vấp thất bại, tự mình đứng lên mới có thể kiến tạo lại những giá trị tốt nhất cho cuộc đời mình. – Ý kiến khác: có thể kết hợp lý lẽ của hai quan điểm đã nêu. */ Cách cho điểm ý 2: – Điểm 0,75: Lí giải hợp lí, thuyết phục. – Điểm 0,5: Lí giải hợp lí. – Điểm 0,25: Lí giải chung chung, sơ sài. – Điểm 0,0: Trả lời sai hoặc không trả lời.
|
1,0 | |
II | VIẾT | 6,0 | |
1 | Viết 01 đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích đặc sắc trong nghệ thuật trần thuật (lời kể chuyện, điểm nhìn, ngôi kể) của trích đoạn truyện ngắn Bức tranh (Nguyễn Minh Châu). | 2,0 | |
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn:
Xác định đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 200 chữ) của đoạn văn. Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoặc song hành |
0,25 | ||
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Đặc sắc trong nghệ thuật trần thuật (lời kể chuyện, điểm nhìn, ngôi kể) của trích đoạn truyện ngắn Bức tranh (Nguyễn Minh Châu). |
0,25 | ||
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận:
* Xác định được các ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận, sau đây là một số gợi ý: – Giới thiệu vấn đề nghị luận: Nguyễn Minh Châu đã thành công trong việc sử dụng nghệ thuật trần thuật của đoạn trích truyện “Bức tranh”. – Phân tích điểm nhìn nghệ thuật trong đoạn trích. Có thể như sau: + Ngôi kể: Ngội thứ nhất – xưng “tôi”. + Lời kể chuyện và lời nhân vật trong truyện có điều đặc biệt: Người kể chuyện cũng chính là nhân vật tôi. Bên cạnh những đoạn đối thoại giữa nhân vật tôi với anh thợ cắt tóc và vợ anh thợ cắt tóc còn là những đoạn tưởng tượng ra lời đối thoại có phần trách móc của anh thợ cắt tóc với chính mình à Cho thấy được sự dằn vặt trong tâm trí người nghệ sĩ khi biết có thể bản thân chính là nguyên nhân khiến mẹ anh thợ cắt tóc bị mù. + Điểm nhìn từ nhân vật tôi và điểm nhìn xây dựng từ bên trong. Nhân vật tôi là người trực tiếp tham gia câu chuyện, có ảnh hưởng tới các nhân vật khác, vì vậy việc đẩy điểm nhìn từ phía nhân tôi sẽ giúp cho câu chuyện trở nên chân thật và theo mạch cảm xúc của nhân tôi. Đồng thời, xây dựng điểm nhìn từ bên trong cho thấy được những cảm xúc day dứt, dằn vặt, dày vò khôn xiết của nhân vật tôi, những đoạn chiêm nghiệm về triết lí cuộc đời hay những cuộc đối thoại giữa mình và anh thợ cắt tóc khiến cho nhân vật tôi cảm thấy hoang mang, e ngại và lo sợ. – Nghệ thuật trần thuật đã góp phần làm nổi bật tư tưởng chủ đề của tác phẩm: Đề cao sự chính trực, đạo đức của con người. Nghệ thuật phải sinh ra trong đạo đức và duy trì đạo đức để làm nghệ thuật. * Sắp xếp được hệ thống ý hợp lí theo đặc điểm bố cục của đoạn văn. |
0,5 | ||
d. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu sau:
– Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận: Đặc sắc trong nghệ thuật trần thuật (lời kể chuyện, điểm nhìn, ngôi kể) của trích đoạn truyện ngắn Bức tranh (Nguyễn Minh Châu). – Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các ý. – Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng; bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng. |
0,5 | ||
đ. Diễn đạt:
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn. |
0,25 | ||
e. Sáng tạo: Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ | 0,25 | ||
2 | Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bày tỏ ý kiến của anh/chị về sự cần thiết phải biết trân trọng quá khứ. | 4,0 | |
a. Xác định được yêu cầu của kiểu bài
Xác định được yêu cầu của kiểu bài: nghị luận xã hội. |
0,25 | ||
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Sự cần thiết phải biết trân trọng quá khứ. |
0,5 | ||
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận:
– Xác định được các ý chính của bài viết – Sắp xếp được các ý theo bố cục hợp lí ba phần của bài văn nghị luận. * Giới thiệu vấn đề nghị luận và nêu khái quát quan điểm của cá nhân về vấn đề. * Triển khai vấn đề nghị luận: – Giải thích: Quá khứ là một thuật ngữ thường dùng để chỉ tất cả các sự kiện xảy ra trước một mốc thời gian cho trước. Khái niệm về quá khứ bắt nguồn từ việc con người nhận thức tính tuyến tính của thời gian, quá khứ được xem xét thông qua trí nhớ và hồi tưởng. Sau khi phát minh ra ngôn ngữ, con người đã bắt đầu việc lưu trữ quá khứ. – Bàn luận: + Trân trọng quá khứ cần thiết với mọi người bởi đó là một phần tất yếu của hành trình sự sống, là một phần đời của mỗi người; + Trân trọng quá khứ để mỗi người biết hướng về tổ tiên, trân quý cội nguồn; kế thừa và phát huy thành quả của người đi trước; rút kinh nghiệm/ bài học từ sai lầm, thất bại hay những thành công trong quá khứ; để biết yêu hiện tại vì hiện tại sẽ trở thành quá khứ trong tương lai gần; để biết vun đắp xây tương lai tươi đẹp hơn. + Mỗi cá nhân biết coi trọng quá khứ góp phần lan tỏa đạo lý sống đẹp, xây dựng xã hội nhân ái, văn minh. – Lấy dẫn chứng làm nổi bật vấn đề. – Mở rộng + Nâng niu, trân trọng quá khứ là một lối sống đẹp, thể hiện đạo lí “uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Thế mà hiện nay vẫn còn nhiều người quay lưng lại với quá khứ, phủ nhận, phỉ báng quá khứ. Đó là những hành động đáng bị lên án và sẽ phải trả giá vì “Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác” + Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng ôm lấy quá khứ, ăn mày quá khứ mãi như vậy. Hãy quên đi những gì không tốt đẹp của quá khứ sống cho hôm nay của hiện tại và nghĩ về tương lai nhiều hơn với những suy nghĩ tích cực và tràn đầy năng lượng nhiệt huyết của ngày tháng tuổi trẻ. – Bài học nhận thức và hành động: Biết nâng niu, gìn giữ quá khứ, cuộc sống sẽ mỉm cười với ta hơn. Ngược lại, chà đạp, vấy bẩn quá khứ để sống sẽ dẫn đến những bài học để đời. * Khẳng định lại quan điểm cá nhân đã trình bày và rút ra bài học cho bản thân. |
1,0 | ||
d. Viết bài văn đảm bảo các yêu cầu sau:
– Triển khai ít nhất được hai luận điểm để làm rõ quan điểm của cá nhân. – Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận. – Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng; bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng. Lưu ý: HS có thể trình bày suy nghĩ, quan điểm riêng nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật. |
1,5 | ||
đ. Diễn đạt
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết văn bản. |
0,25 | ||
e. Sáng tạo
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ. |
0,5 | ||
Tổng điểm | 10,0 |