Đề văn lớp 11 sách mới : phân tích truyện Một bữa no của nhà văn Nam Cao

VIẾT VĂN BẢN NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TÁC PHẨM TRUYỆN

(Giới hạn:Truyện ngắn hiện đại Việt Nam)

BỘ CHÂN TRỜI

Đề 1: Đọc hiểu+tự luậnĐỌC – HIỂU (6,0 điểm)

Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu: (Trắc nghiệm)

MỘT BỮA NO

Tóm tắt: Một bữa no là câu chuyện về người bà của cái Đĩ. là một người nông dân già yếu, mất hết nơi nương tựa ( chồng chết, con trai chết). Bà có đứa cháu gái nhưng sau 7 năm vất vả nuôi nấng bà cũng đành  bán cháu cho nhà giàu bởi không còn đủ sức nuôi. Và bản thân bà cũng đang lâm vào bước đường cùng, sắp bị chết đói. Trước cái đói hành hạ, bà đành phải đến nhà phó Thụ, nơi người cháu đang ở để xin ăn.  Đoạn văn viết về cảm xúc, tâm trạng và hành động của nhân vật người bà trong “”bữa ăn chực”” ở nhà bà Phó Thụ

“”  Bà lão chẳng đợi ai phải bảo, ngồi ngay xuống cạnh cháu, tay run run so đũa. Trông bà so đũa mà ngứa mắt! Bà phó muốn giật xoét lấy làm thật nhanh cho đỡ bực. Nhưng bà nhịn đuợc. Bà chỉ chép miệng và lừ lừ đôi mắt, tỏ ý khó chịu. Cái đĩ hiểu nên chỉ nhìn xuống đất. Nó giận bà nó lắm. Nó đã bảo bà nó về đi mà bà nó không chịu về…
Bà phó chẳng nói nửa lời, bê lấy bát cơm ăn. Mặt bà vẫn hầm hầm. Lũ con gái, con nuôi, con ở, biết hiệu, vội vàng cũng làm theo. Chậm một tí, bà chửi cho phải biết! Có khi bà hắt cả bát cơm vào mặt. Bà lão nhìn vòng quanh một lượt, rồi cũng cất bát cơm lên:
– Mời bà phó…
Nhưng bà vừa mới há mồm ra thì bà phó đã cau mặt quát:
– Thôi, bà ăn đi! Đừng mời!
Bà lão vội vàng ăn ngay. Nhưng họ ăn nhanh quá. Mọi người đều lặng lẽ, cắm cúi, mải mốt. Đôi đũa này lên lại có đôi khác xuống. Liên tiếp luôn như vậy. Cứ tăm tắp tăm tắp. Tay bà lão lờ rờ, không biết lợi dụng lúc nào để gắp rau vào bát mắm. Lập cập quá, bà đánh rơi cả mắm ra ngoài bát. Bà phó lại cau mặt, gắt:
– Sẻ riêng cho bà ấy một bát mắm, để ra cạnh mâm cho bà ấy!
Một cô vội làm ngay. Từ đấy, bà lão dễ xoay xở hơn một chút. Nhưng bà mới ăn chưa hết hai lượt cơm thì bà phó đã quăng bát đũa xuống đất. Chỉ một thoáng sau, mọi nguời khác cũng thôi. Họ thôi gần đều một lượt. In như bà mẹ ra hiệu cho họ vậy. Thật ra thì lệ mỗi người chỉ được ăn có ba vực cơm thôi. Mà phải ăn nhanh để còn làm. Nhưng bà lão nhà nghèo, đã quen sống vô tổ chức, làm gì hiểu trong những nhà thừa thóc, thừa tiền, lại có sự hạn chế miệng ăn như vậy? Bà đoán rằng họ khảnh ăn. No dồn, đói góp. Người đói mãi, vớ được một bữa, tất bằng nào cũng chưa thấm tháp. Nhưng người no mãi, người ta có cần ăn nhiều lắm đâu. Vậy thì bà cứ ăn. Ăn đến kì no. Đã ăn rình thì ăn ít cũng là ăn. Đằng nào cũng mang tiếng rồi thì dại gì mà chịu đói? Bà ăn nữa thật. Cái đĩ ngượng quá, duỗi cổ ra, trợn mắt, nuốt vội mấy miếng cơm còn lại như một con gà con nuốt nhái. Rồi nó buông bát đũa. Bà bảo cháu:
– Ăn nữa đi, con ạ. Nồi còn cơm đấy. Đưa bát bà xới cho.
Nó chưa kịp trả lời thì bà phó đã mắng át đi:
– Mặc nó! Nó không ăn nữa! Bà ăn bằng nào cho đủ thì cứ ăn!
À! Bây giờ thì bà lão hiểu. Người ta đứng lên tất cả rồi. Chỉ còn mình bà lão ngồi ăn với bà phó Thụ ngồi lại để lườm với nguýt. Nhưng bà lão còn thấy đói. Còn cơm mà thôi ăn thì khí tiếc. Vả đã đi ăn chực thì còn danh giá gì mà làm khách. Bà cứ ăn như không biết gì. Đến khi bà đã tạm no, thì cơm vừa hết. Chỉ còn một ít bám dưới đáy và chung quanh nồi. Bà vẫn tiếc. Bà kéo cái nồi vào lòng, nhìn, và bảo con bé cháu:
– Còn có mấy hột để nó khô đi mất. Tao vét cho mày ăn nốt đi kẻo hoài, đĩ nhé?
– Khô mặc kệ nó! Bà có ăn được hết thì ăn đi, đừng bảo nó. Nó không ăn vào đâu được nũa. Ăn cho nó nứt bụng ra thì ăn làm gì?
Bà phó vội gắt gỏng bảo thế. Ừ, thì bà ăn nốt vậy! Bà cạo cái nồi sồn sột. Bà trộn mắm. Bà rấm nốt. Ái chà! Bây giờ thì bà no. Bà bỗng nhận ra rằng bà no quá. Bụng bà tưng tức. Bà nới thắt lưng ra một chút cho dễ thở. Bà tựa lưng vào vách để thở cho thoả thích. Mồ hôi bà toát ra đầm đìa. Bà nhọc lắm. Ruột gan bà xộn xạo. Bà muốn lăn kềnh ra nghỉ, nhưng sợ người ta cười, cố gượng. Ôi chao! Già yếu thì khổ thật. Đói cũng khổ mà no cũng khổ. Chưa ăn thì người rời rã. Ăn rồi thì có phần còn nhọc hơn chưa ăn. Ôi chao!…””

(Trích Tuyển tập Nam Cao, NXB Thời đại, 2010)

Đề 1: Trắc nghiệm + Tự luận

Lựa chọn đáp án đúng( Mỗi câu 0.5 điểm)

Câu 1: Truyện ngắn “Một bữa no” viết về đề tài gì?

  1. Người nông dân.
  2. Người trí thức.
  3. Người phụ nữ.
  4. Cái đói.

Câu 2: Truyện được kể theo ngôi thứ mấy?

  1. Ngôi kể thứ ba
  2. Ngôi kể thứ nhất
  3. Ngôi kể bà Phó Thụ
  4. Ngôi kể người cháu

Câu 3: No dồn đói góp được nhắc tới trong câu chuyện là

  1. Tục ngữ
  2. Thành ngữ
  3. Ca dao
  4. Danh ngôn

Câu 4: No dồn đói góp nghĩa là gì?

  1. Tình trạng ăn uống, tiêu pha không có chừng mực hoặc thất thường, lúc thì quá đầy đủ, thừa thãi, lúc lại thiếu thốn mọi thứ
  2. Dồn những bữa no, bữa đói lại
  3. Thiếu thốn nhiều
  4. Ham ăn, ham uống

Câu 5: Qua nhân vật bà lão trong câu chuyện, Nam Cao muốn phản ánh điều gì về người nông dân?

  1. Người nông dân vốn là những người nghèo nhưng hay sĩ diện
  2. Đời sống khổ sở của người nông dân, phải nhịn đói cho qua ngày rồi chết trong một bữa no
  3. Người nông dân vốn là những người lương thiện, nhưng sự hà khắc của chế độ phong kiến cùng với sự bóc lột của bọn thực dân đã đẩy họ vào con đường tha hóa, bần tiện
  4. Người nông dân sống cuộc đời nghèo khổ cuối cùng được sung sướng cho dù chết vì no

Câu 6: Giọng văn của Nam Cao được thể hiện trong câu chuyện:

  1. Chua xót, mỉa mai
  2. Hả hê, sung sướng
  3. Giễu cợt, trào phúng
  4. Ngậm ngùi, xót thương

Câu 7: Điểm nhìn được đặt vào nhân vật nào?

  1. điểm nhìn được đặt vào nhân vật bà lão
  2. điểm nhìn được đặt vào nhân vật bà lão
  3. điểm nhìn có sự kết hợp giữa người kể chuyện và nhân vật bà lão
  4. điểm nhìn có sự kết hợp giữa người kể chuyện và nhân vật bà lão.

Trả lời câu hỏi:

Câu 8 (0.5điểm): Nhận xét về tình cảm của nhà văn dành cho nhân vât bà lão.

Câu 9 (1.0 điểm): Qua đoạn văn anh/chị có suy nghĩ gì về hình ảnh người nông dân trước cách mạng?

Câu 10 (1.0 điểm): Từ văn bản anh/chị hãy viết đoạn văn ngắn (7-10 dòng) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của hành động “nhường cơm sẻ áo”” trong cuộc sống.

  1. LÀM VĂN (4,0 điểm)

Anh/chị hãy viết bài văn (khoảng 500 chữ) phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm trên.

Đề 2: Tự luận

Câu 1: Truyện ngắn “Một bữa no” viết về đề tài gì?

Câu 2: Truyện được kể theo ngôi thứ mấy?

Câu 3: No dồn đói góp nghĩa là gì?

Câu 4: Qua nhân vật bà lão trong câu chuyện, Nam Cao muốn phản ánh điều gì về người nông dân?

Câu 5: Nhận xét giọng văn của Nam Cao được thể hiện trong câu chuyện

Câu 6: Điểm nhìn được đặt vào nhân vật nào?

Câu 7: Nhận xét về tình cảm của nhà văn dành cho nhân vât bà lão.

Câu 8 : Qua đoạn văn anh/chị có suy nghĩ gì về hình ảnh người nông dân trước cách mạng?

Câu 9: Từ văn bản anh/chị hãy viết đoạn văn ngắn (7-10 dòng) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của hành động “nhường cơm sẻ áo”” trong cuộc sống.

 

Hướng dẫn đáp án chi tiết

Đề: Trắc nghiệm+Tự luận

  1. ĐỌC – HIỂU

Đề 1: Trắc nghiệm + Tự luận

1.A; 2. A; 3.B; 4.A;5.B;6.A; 7.C

  1. Tình cảm nhà văn đối với nhân vật bà lão:

 Thấu hiểu, cảm thông, Thương xót cho số phận bất hạnh của bà lão, vì cái đói, cái nghèo mà đánh mất sĩ diên, nhân cách

  1. Suy nghĩ về người nông dân trước cách mạng

 Người nông dân Việt Nam trước Cách Mạng là những con người có số phận bất hạnh, đáng thương. Cuộc sống của họ bị bóc lột, áp bức bởi chế độ thực dân và phong kiến theo nhiều cách khác nhau. Chị Dậu khốn khổ vì sưu thuế; Lão Hạc dằn vặt giữa sống hay chết khi không còn đủ sức để làm việc kiếm tiền và lão đã chọn cái chết; Chí Phèo bị tước đoạt cả nhân hình, nhân tính và cả quyền làm người, bà cái Đĩ phải bán tình thân và nhân cách để lấy miếng ăn. Rõ ràng, số phận  người  nông dân trước cách mạng thật  tủi nhục, khốn khổ. Phải chăng, bởi những cái chết đau đớn của người nông dân đã khiến cho những sáng tác của các nhà văn Nam Cao, Ngô Tất Tố.. đem đến cho người đọc qua bao thế hệ những xúc động, nghẹn ngào và ám ảnh da diết.

  1. Suy nghĩ về ý nghĩa của hành động “nhường cơm sẻ áo”” trong cuộc sống

– “nhường cơm sẻ áo” là hành động chia sẻ với những người khó khăn những giá trị vật chất và tinh thần mà chúng ta có. Đây là một đức tính tốt, cần có ở mỗi người.

– Ý nghĩa

+ Giúp cho mọi người khó khăn có thể vượt qua những giai đoạn khốn khó

+ Người biết nhường cơm sẻ áo sẽ cảm thấy cuộc sống của bản thân có ích, có ý nghĩa đối với xã hội

+ Được mọi người yêu mến, khâm phục; đây là đức tính cần có để đến với thành công.

Đáp án đề: Tự luận

Câu 1: Người nông dân.

Câu 2: Thứ 3

Câu 3: Tình trạng ăn uống, tiêu pha không có chừng mực hoặc thất thường, lúc thì quá đầy đủ, thừa thãi, lúc lại thiếu thốn mọi thứ

Câu 4: Người nông dân vốn là những người lương thiện, nhưng sự hà khắc của chế độ phong kiến cùng với sự bóc lột của bọn thực dân đã đẩy họ vào con đường tha hóa, bần tiện

Câu 5: Chua xót, mỉa mai

Câu 6: điểm nhìn có sự kết hợp giữa người kể chuyện và nhân vật bà lão

Câu 7: Thấu hiểu, cảm thông, Thương xót cho số phận bất hạnh của bà lão, vì cái đói, cái nghèo mà đánh mất sĩ diên, nhân cách

Câu 8 : Người nông dân Việt Nam trước Cách Mạng là những con người có số phận bất hạnh, đáng thương. Cuộc sống của họ bị bóc lột, áp bức bởi chế độ thực dân và phong kiến theo nhiều cách khác nhau. Chị Dậu khốn khổ vì sưu thuế; Lão Hạc dằn vặt giữa sống hay chết khi không còn đủ sức để làm việc kiếm tiền và lão đã chọn cái chết; Chí Phèo bị tước đoạt cả nhân hình, nhân tính và cả quyền làm người, bà cái Đĩ phải bán tình thân và nhân cách để lấy miếng ăn. Rõ ràng, số phận  người  nông dân trước cách mạng thật  tủi nhục, khốn khổ. Phải chăng, bởi những cái chết đau đớn của người nông dân đã khiến cho những sáng tác của các nhà văn Nam Cao, Ngô Tất Tố.. đem đến cho người đọc qua bao thế hệ những xúc động, nghẹn ngào và ám ảnh da diết.

Câu 9: – “nhường cơm sẻ áo” là hành động chia sẻ với những người khó khăn những giá trị vật chất và tinh thần mà chúng ta có. Đây là một đức tính tốt, cần có ở mỗi người.

– Ý nghĩa

+ Giúp cho mọi người khó khăn có thể vượt qua những giai đoạn khốn khó

+ Người biết nhường cơm sẻ áo sẽ cảm thấy cuộc sống của bản thân có ích, có ý nghĩa đối với xã hội

+ Được mọi người yêu mến, khâm phục; đây là đức tính cần có để đến với thành công.

  1. LÀM VĂN (Đảm bảo các luận điểm cơ bản dưới đây, hướng dẫn yêu cầu chi tiết)
  2. Mở bài:

Giới thiệu tác phẩm (tên tác phẩm, thể loại, tác giả,…); nêu nội dung khái quát cần phân tích, đánh giá.

– Nam Cao là tác giả tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán. Sáng tác của ông đề cập đến số phận của người nông dân với giọng văn đầy chua chát, cảm thương.

– “Một bữa no” là tác phẩm tiêu biểu cho đề tài người nông dân trước cách mạng. tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn: lạnh lùng, chua chát, buồn thương

– Đoạn văn miêu tả tâm trạng, thái độ và hành động của người bà trong một bữa ăn nhờ, ăn xin ở nhà bà phó Thụ.

  1. Thân bài:

Xác định chủ đề của tác phẩm: Đời sống đói khổ, khốn cùng của người nông dân nước ta trước các mạng tháng Tám.

Phân tích, đánh giá chủ đề của tác phẩm

Đây là một chủ đề quen thuộc trong văn học giai đoạn 1930-1945. Ta đã từng bắt gặp chủ đề này trong trang viết của Ngô Tất Tố; Vũ Trọng Phụng; Kim Lân,..và  đến với tác phẩm của Nam Cao người đọc thêm một lần nữa xúc động và ám ảnh về số phận con người trước cách mạng

Phân tích một số nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của tác phẩm

Để làm nổi bật chủ đề này nhà văn đã sử dụng nhiều hình thức nghệ thuật độc đáo

+ Xây dựng nhan đề. Nhan đề “Một bữa no” là một nhan đề lạ, độc đáo vừa phản ánh hiện thực cay đắng của người nông dân trong những ngày tháng đen tối trước cách mạng vừa thể hiện tâm trạng đau đớn, xót xa của nhà văn cho số phận con người

+ Xây dựng nhân vật

Đánh giá  tác dụng của những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật trong việc thể hiện chủ đề của tác phẩm.

Có thể nói những đặc sắc về hình thức nghệ thuật đã giúp nhà văn Nam Cao xây dựng thành công câu chuyện về số phận bi thảm của con người, nhất là người nông dân bần cùng trong xã hội cũ. Điều này khiến chủ đề tác phẩm vượt qua được sự thanh lọc của  thời gian, lưu lại trong tâm trí người đọc qua bao thế hệ.

– Thể hiện được những suy nghĩ, cảm nhận của người viết về tác phẩm

Qua câu chuyện của người bà trong hoàn cảnh đói khát Nam Cao đã đem đến cho người đọc bao thương cảm, xót xa cho số phận người nông dân trước cách mạng. Từ tác phẩm, chúng ta nhận ra cuộc sống luôn là những nốt nhạc nhiều màu sắc. Vì thế, tình thương yêu giữa con người với con người là vô cùng quý giá. Hãy biết yêu thương và giúp đỡ người khác khi họ đói khổ, khó khăn. Câu chuyện của Nam Cao cũng đã giáo dục cho mỗi người đọc chúng ta một lối sống hướng thiện, nhân văn, biết sẻ chia giữa cuộc đời.

  1. Kết bài:

Bằng nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật sâu sắc; giọng văn chua chát; bút pháp xây dựng hình tượng nhân vật điển hình; ngôn ngữ gần gũi.. nhà văn Nam Cao đã thể hiện sâu sắc chủ đề của tác phẩm: đời sống đói khổ, khốn cùng của người nông dân nước ta trước các mạng tháng Tám. Từ đó, nhà văn lên án, tố cáo giai cấp thống trị lúc bấy giờ. Qua nhân vật người bà tác giả còn bày tỏ nỗi đồng cảm, xót thương cho số phận bi thảm của người nông dân.

Bài viết tham khảo:

Nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh từng viết “Văn chương ra đời cốt để nói những điều tinh vi nhất, sâu kín nhất trong tâm hồn con người”. Quả thực như vậy. Văn chương bao đời vẫn luôn là nơi để những nhà văn  gửi gắm tâm tư, tình cảm của mình.  Với tác phẩm “Một bữa no”  nhà văn Nam Cao cũng đã gửi gắm niềm thương cảm sâu sắc đối với số phận bất hạnh của người nông dân trước cách mạng . Đặc biệt, đoạn văn sau””….”” đã để lại nhiều dấu ấn trong lòng người đọc bởi chủ đề và các hình thức nghệ thuật độc đáo

Nam Cao là một trong những nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam thế kỷ XX. Các sáng tác của ông trước 1945 đã đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của văn xuôi trên các phương diện: khả năng miêu tả và phân tích tâm lý, khả năng sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật… Đặc biệt, nhà văn được khẳng định là lá cờ đầu của chủ nghĩa nhân đạo trong Trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930-1945.

Tác phẩm “Một bữa no” được sáng tác năm 1943 viết về chủ đề: đời sống đói khổ, khốn cùng của người nông dân nước ta trước các mạng tháng Tám. Đây là một chủ đề quen thuộc trong văn học giai đoạn 1930-1945. Ta đã từng bắt gặp chủ đề này trong trang viết của Ngô Tất Tố; Vũ Trọng Phụng; Kim Lân,..và  đến với tác phẩm của Nam Cao người đọc thêm một lần nữa xúc động và ám ảnh về số phận con người trước cách mạng.

Để làm nổi bật chủ đề này, nhà văn Nam Cao đã sử dụng nhiều hình thức nghệ thuật độc đáo.

Trước hết là cách xây dựng nhan đề. Nhan đề “Một bữa no” là một nhan đề lạ, độc đáo vừa phản ánh hiện thực cay đắng của người nông dân trong những ngày tháng đen tối trước cách mạng vừa thể hiện tâm trạng đau đớn, xót xa của nhà văn cho số phận con người.

Bên cạnh việc thành công ở nhan đề nhà văn còn thành công ở cách xây dựng  nhân vật

Nhân vật chính của câu chuyện là người bà của cái Đĩ. Bà là một người nông dân già yếu, mất hết nơi nương tựa ( chồng chết, con trai chết). Bà có đứa cháu gái nhưng sau 7 năm vất vả nuôi nấng bà cũng đành  bán cháu cho nhà giàu bởi không còn đủ sức nuôi. Và bản thân bà cũng đang lâm vào bước đường cùng, sắp bị chết đói. Trước cái đói hành hạ, bà đành phải đến nhà phó Thụ, nơi người cháu đang ở để xin ăn.  Đoạn văn viết về cảm xúc, tâm trạng và hành động của nhân vật người bà trong “”bữa ăn chực”” ở nhà bà Phó Thụ thật chua chát và đau lòng biết bao.  Thực ra, đây ko phải là bữa cơm dành để tiếp khách mà là bữa cơm của những kẻ hầu, người hạ trong nhà. Cứ nhìn vào thái độ, cung cách nói năng, ánh mắt xỉa xói của bà phó Thụ đối với người ở, người đọc cũng đã hiểu được phần nào nỗi khổ của con người. Đó dường như không phải là bữa ăn bình thường mà là bữa cơm “”chan đầy nước mắt”” tủi nhục của kiếp người ở. Nam Cao đã dùng ngòi bút tài tình và ngôn ngữ sắc sảo của mình để dựng nên chân dung của một bà phó Thụ đại diện cho cường quyền hống hách, chuyên bắt nạt người khác. Nhưng bà của cái Đĩ đang đói, và vì đói nên bà chẳng nghĩ ngợi được nhiều. Nam Cao đã sử dụng rất nhiều hình ảnh để miêu tả trạng thái đang đói của bà: “tay run run so đũa””; “”Tay bà lão lờ rờ””; “”Lập cập quá, bà đánh rơi cả mắm ra ngoài bát”. Có lẽ bà cụ ấy đã đói lâu quá. Cái đói làm người ta mất hết sinh khí, ko đủ sức để gắp cho kịp mấy người trẻ.

Không chỉ được miêu tả qua bàn tay run rẩy vì đói, nhà văn NC còn miêu tả nỗi bất hạnh của nhân vật qua suy nghĩ. Khi những người ở trong nhà vội vã ăn và vội vã buông đũa theo hành động “quăng bát đũa xuống đất” của bà phó Thụ thì bà cụ lại ngạc nhiên và suy đoán. “Bà đoán rằng họ khảnh ăn. No dồn, đói góp. Người đói mãi, vớ được một bữa, tất bằng nào cũng chưa thấm tháp. Nhưng người no mãi, người ta có cần ăn nhiều lắm đâu””. Chính ý nghĩ ấy nên bà đã tự nhủ bản thân “ Vậy thì bà cứ ăn. Ăn đến kì no. Đã ăn rình thì ăn ít cũng là ăn”. Cách suy nghĩ của bà cụ thật đáng thương biết bao. Bà gọi bữa ăn hôm nay là “”ăn rình””, “”ăn chực””. Một bữa ăn đánh đổi cả nhân cách. Nhưng nhân cách còn có ý nghĩa gì nữa khi người ta đói. Nên “”đã mang tiếng rồi thì dại gì mà chịu đói? Bà cứ ăn như không biết gì””. Thậm chí “”Đến khi bà đã tạm no, thì cơm vừa hết. Chỉ còn một ít bám dưới đáy và chung quanh nồi. Bà vẫn tiếc. Bà kéo cái nồi vào lòng .Bà cạo cái nồi sồn sột. Bà trộn mắm. Bà rấm nốt””. NC đã sử dụng 1 loạt câu văn ngắn để miêu tả những hành động liên tiếp của bà cụ. Những hành động ấy như nói lên tất cả:khi người ta đói, người ta sẵn sàng vứt bỏ sĩ diện chỉ để cứu lấy bản thân. Quả thực, cái đói là nỗi ám ảnh của người nông dân trước cách mạng. Và cái đói đã đi vào trang văn của NC thật đau xót biết bao.

Sau bữa ăn “Bà bỗng nhận ra rằng bà no quá. Bụng bà tưng tức. Bà nới thắt lưng ra một chút cho dễ thở. Bà tựa lưng vào vách để thở cho thoả thích. Mồ hôi bà toát ra đầm đìa. Bà nhọc lắm. Ruột gan bà xộn xạo. Bà muốn lăn kềnh ra nghỉ, nhưng sợ người ta cười, cố gượng. Ôi chao! Già yếu thì khổ thật. Đói cũng khổ mà no cũng khổ. Chưa ăn thì người rời rã. Ăn rồi thì có phần còn nhọc hơn chưa ăn. Ôi chao!…””. Thán từ “”ôi chao”” được lặp lại 2 lần như nhấn mạnh nỗi khổ của người đói được ăn một bữa no. Hóa ra cái sự no đối với người đói ko phải là hạnh phúc mà còn là nỗi khổ. Ở đây,nhà văn đã sử dụng một loạt những tính từ miêu tả nỗi khổ vì no của bà lão “”tưng tức; mồ hôi đầm đìa; nhọc lắm; ruột gan xộn xạo””. Đặc biệt, bữa ăn ấy đã khiến bà lão đúc kết ra 1 chân lý của người nghèo “Đói cũng khổ mà no cũng khổ. Chưa ăn thì người rời rã. Ăn rồi thì có phần còn nhọc hơn chưa ăn””. Lời đúc kết đầy chua chát đã thể hiện được nỗi thống khổ của người nông dân trước cách mạng bị đẩy vào đường cùng của sự đói khát, bế tắc. Hình ảnh bà cụ trong câu chuyện là hình ảnh tiêu biểu cho số phận con người dưới cái đói, cái nghèo trước 1945.

Bằng nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật sâu sắc; giọng văn chua chát; bút pháp xây dựng hình tượng nhân vật điển hình; ngôn ngữ gần gũi.. nhà văn Nam Cao đã thể hiện sâu sắc đời sống đói khổ, khốn cùng của người nông dân nước ta trước các mạng tháng Tám. Từ đó, nhà văn lên án, tố cáo giai cấp thống trị lúc bấy giờ. Qua nhân vật người bà tác giả còn bày tỏ nỗi đồng cảm, xót thương cho số phận bi thảm của người nông dân.Qua câu chuyện của người bà trong hoàn cảnh đói khát chúng ta nhận ra cuộc sống luôn là những nốt nhạc nhiều màu sắc. Vì thế, tình thương yêu giữa con người với con người là vô cùng quý giá. Hãy biết yêu thương và giúp đỡ người khác khi họ đói khổ, khó khăn. Câu chuyện của Nam Cao cũng đã giáo dục cho mỗi người đọc chúng ta một lối sống hướng thiện, nhân văn, biết sẻ chia giữa cuộc đời.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *