Mục lục
Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn luyện kỹ năng khai thác nhịp điệu trong dạy thơ
Mục lục
Trang
I. Phần mở đầu
1. lý do chọn đề tài. 1
2. Mục đích nghiên cứu. 2
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 2
4. giới hạn của đề tài 2
5. những luận điểm bảo vệ 2
6. Những đóng góp cũng như ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài. 2
7. Phương pháp nghiên cứu.
II. Phần nội dung
1. Nhịp điệu trong thơ
2. các khai thác tiến hành nhịp điệu trong thơ
– Xác định tính chất các loại nhịp điệu trong thơ
– Đặc tính của loại nhịp lẻ
– Đặc tính của loại nhịp chẵn 5
– Sự kết hợp của hai loại chẵn – lẻ 6
3. áp dụng việc tìm hiểu 7
– Tìm hiểu nhịp điệu thơ trong “sóng”- Xuân Quỳnh thông qua hoạt động
đọc 7
– Tìm hiểu nhịp điệu thơ trong một số sáng tác của Nguyễn Bính 8
IV. Phần kết luận
I. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
– Trong sách giáo khoa văn 11,12, tác phẩm thơ chiếm 59,4%, số lượng tiết học chính khoá và thêm (Lớp 11 :35/54 bài chiếm 64,8%; lớp 12 25/47 bài chiếm 53,19%). Vì vậy dạy thơ trong chương trình chiếm một khối lượng lớn đòi hỏi người giáo viên phải nắm được đặc trưng, kỹ năng phân tích thơ.
– Thơ là phương thức biểu hiện trữ tình. Thơ được hình thành nhờ mối rung cảm thầm kín giữa con người và cuộc sống. Trong dòng chảy của thơ, con người được đắm chìm mình trong tình cảm của nhà thơ và của chính mình. Thơ thấm vào lòng người bởi những cảm xúc trực tiếp và nhiều mối liên tưởng kín đáo, những ý tứ sâu xa, sức quyến rũ của tiết tấu và thanh điệu. Tất cả những yếu tố ấy ùa vào lòng người đọc xoá đi hay khắc sâu thêm những tình cảm, tạo nên ấn tượng khó phai mờ. Đọc thơ để hiểu người. Giảng thơ để dạy làm người…Làm thế nào để chúng ta – vừa là người đọc, vừa là người giảng thơ để tạo ra và truyền được cái cảm hứng “ uống xong lại khát” ấy. Xin mượn lời nhà văn Nguyễn Tuân để trao đổi với bạn bè đồng nghiệp một kĩ năng nhỏ trong việc dạy thơ: “ Văn học có cái vui là phong cách, cách nói, cách viết khác nhau. Vậy mà nhiều anh dạy văn lại không đi vào đấy, chỉ nói về nội dung tư tưởng chung chung, nên trở nên nhạt nhẽo, vô duyên”. Vâng, trong một bài thơ ngoài yếu tố hình ảnh, từ ngữ, câu chữ – “ những phần nổi”, người dạy thơ thường bám vào phân tích còn có những “ phần chìm”- khoảng trống, khoảng lặng nằm im sau câu chữ. Đó chính là nhịp điệu. Bởi vậy, khi phân tích thơ người dạy cần xác định rõ kĩ năng khai thác nhịp điệu, tính chất của các loại nhịp thơ, đặc tính của từng loại nhịp – những mã khoá giúp người dạy, người học đi từ sự im lặng của các từ ngữ để trở về với tiếng lòng mình đến với những trạng thái tâm hồn cảm xúc. Đó chính là những lý do đưa tôi đến với đề tài: “ Rèn luyện kỹ năng khai thác nhịp điệu trong dạy thơ” .
2. Mục đích nghiên cứu:
– Giúp người dạy văn tìm ra một hướng tiếp cận sâu hơn đối với tác phẩm thơ.
– Giúp học sinh thực sự cảm nhận được cái hay, cái đẹp của nội dung và nghệ thuật của tác phẩm thơ.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
– Các tác phẩm thơ trong chương trình lớp 10, 11, 12 THPT và một số tác phẩm thơ của Nguyễn Bính, Tố Hữu, Nguyễn Trãi…
– Học sinh lớp 10, 11, 12 THPT.
4 Giới hạn của đề tài:
– Viết bài này, tôi không có ý định đi sâu bình giải một số tác phẩm thơ, mà chủ yếu qua các tác phẩm thơ để tìm hiểu thêm về cách khai thác nhịp điệu trong dạy thơ, để thấm thía thêm bài học muôn đời của nghề nghiệp: Muốn hiểu tới cội nguồn của văn chương để giảng dạy cho tốt, đừng quá lệ thuộc vào chủ đề, tư tưởng chủ đạo, hình ảnh… mà phải chăm chú tìm kiếm sức quyến rũ của tiết tấu, nhịp điệu trong bài thơ… để lắng nghe cho thấu những âm vang, cảm xúc của người nghệ sỹ và những tiếng dội của cuộc đời.
5. Những luận điểm bảo vệ:
– Khái niệm nhịp điệu thơ.
– Các thao tác tiến hành khai thác nhịp điệu trong thơ.
– Những dẫn chứng minh hoạ.
– Kết luận.
6. Những đóng góp cũng như ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:
– Đối với giáo viên: Đề tài sẽ cung cấp một “ cẩm nang” giúp người giáo viên trong quá trình dạy thơ có thể đi từ cái “ vốn như thế” liên hệ, mở rộng tới những cái thực tế “ khác thế”, “trái hẳn như thế”để chuyển tác phẩm của tác giả thành tác phẩm của bạn đọc, thơ trong ngôn từ, nhịp điệu, thành “ thơ trong mỗi tâm hồn học sinh”.
– Đối với học sinh: Nâng cao khả năng cảm thụ thơ, người học không còn cảnh không chú ý câu chữ, nhịp điệu cụ thể của tác phẩm mà chỉ chú ý ý tứ chung chung.
7. Phương pháp nghiên cứu
– Khảo sát thực tế các giờ dạy của bản thân và đồng nghiệp.
– Đi sâu tìm hiểu thi pháp thơ.
– Phân tích, so sánh, đối chiếu giữa các tác giả, tác phẩm thơ trong và ngoài chương chình phổ thông.
II. Phần nội dung
II.1. Nhịp điệu trong thơ
II.1. 1. Nhịp điệu trong thơ là kết quả của sự chuyển động nhịp nhàng và sự lặp lại đều đặn những âm thanh trong bài thơ “ Nhịp điệu là sức mạnh cơ bản, năng lực cơ bản của câu thơ” (Mai acốp xki ). Nhịp điệu không thuần tuý là những ngân vang bên ngoài đi kèm theo ý thơ mà có lúc như thoát ra khỏi ý thơ, nó vừa như có cái gì xác định cụ thể, lại vừa như mơ hồ, mơ hồ xa xôi. Nó vừa là âm thanh điểm nhịp đều đặn như tiếng chuông quả lắc đồng hồ lại vừa là nhịp vang vọng, âm thầm trong trái tim mỗi người nghe, người đọc. Nhịp điệu trong thơ toát ra từ âm hưởng của bài thơ, phụ thuộc vào độ dài ngắn của câu thơ và chỗ ngừng ngắt, độ mạnh, nhẹ của từng từ thông qua giọng điệu của người đọc và cường độ cảm xúc của người nghe.
II. 1.2 Nhịp điệu trong thơ linh hoạt hơn nhịp điệu trong nhạc.
Nhịp điệu trong thơ không những phụ thuộc và sự sắp xếp âm thanh, từ ngữ trong bài thơ mà còn phụ thuộc vào cảm xúc và giọng điệu của người đọc cũng như sự tiếp nhận và rung động của người nghe.
II. 2 Các thao tác tiến hành khai thác nhịp điệu trong thơ
II. 2. 1 Xác định tính chất của các loại nhịp trong thơ.
Nhịp trong nhạc đo bằng độ mạnh, nhẹ trong những đơn vị thời gian nhất định. Còn nhịp trong thơ đo bằng sự ngừng, ngất theo các từ ngữ của câu thơ để tính nhịp. Nếu câu thơ ngắt theo một từ, ba từ, năm từ, bảy từ …thì gọi là nhịp lẻ. Còn ngắt theo hai từ, bốn từ, sáu từ … thì gọi là nhịp chẵn. Như vậy, trong thơ có hai loại nhịp cơ bản: Đó là nhịp lẻ và nhịp chẵn.
II. 2.2 Đặc tính của loại nhịp lẻ:
So với nhịp chẵn, nhịp lẻ thường là loại nhịp được trhể hiện mạnh mẽ hơn trong khi đọc. Trong nhịp lẻ thì câu thơ ngắt theo nhịp 1 ( tức ngắt theo một từ ) là nhịp mạnh mẽ nhất. Độ mạnh mẽ giảm dần nếu ngắt theo nhịp 3, nhịp 5, nhịp 7.
Ví dụ: Trong câu thơ (“ Đổ trời muôn ngọc qua muôn lá” – Thơ duyên – Xuân Diệu ). Ta ngắt theo nhịp 1 – 3 -3. “ đổ” tách ra thành 1 nhịp, khẳng định một hành động mạnh mẽ nhất thể hiện sự táo bạo mãnh liệt và cũng rất thi vị trong cách cảm nhận mùa thu của Xuân Diệu khiến cho bầu trời mùa thu không xanh ngắt , tĩnh lặng như trong thơ Nguyễn Khuyến mà căng đầy sức sống. Hay trong câu thơ “ Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” ( Tây Tiến – Quang Dũng ). Ta ngắt theo nhịp 1 – 3 – 1 – 2, nhịp 1 là nhịp mạnh mẽ nhất, sau đó đến nhịp 3 và nhịp có độ nhẹ hơn cả là nhịp 2, khiến cho cung bậc của nỗi nhớ cùng được bộc lộ trong kết cấu âm điệu của câu thơ, những âm tiết mở như kéo dài câu thơ, làm rộng thêm nỗi nhớ. Điệp từ “ nhớ” tách thành nhịp lẻ được khắc lại như khẳng định nỗi nhớ thương. Nhịp 2 cuối câu thơ “ chơi vơi” góp phần định hình nỗi nhớ, tạo thành cảm giác luyến láy, ngân rung như bâng khuâng, như da diết như mênh mang, như âm thanh tiếng sáo ai chơi vơi đầu núi, như có hình, có sóng, lan xa làm nghiêng ngả cả núi rừng.
– Ngay trong nhịp 3 của câu thơ ta cũng có thể ngắt theo nhiều dạng khác nhau. Ví dụ: Câu thơ “ Cội rễ bền rời chẳng động” ( Tùng – Nguyễn Trãi ) ta có thể ngắt theo kiểu nhấn mạnh vào từ “cội” và từ “rời” còn hai từ sau rễ bền”, “ chẳng động” là những phách nhẹ theo kiểu mạnh / nhẹ / nhẹ thì hiệu quả khác hẳn vời việc nhần mạnh vào từ “ bền” và từ “ động” theo kiểu kết cấu nhẹ / nhẹ / mạnh, nhẹ / nhẹ / mạnh.
– Đôi khi ngắt theo nhịp 3, người nghe vẫn có cảm giác như ngắt theo nhịp 2 bởi hai từ đầu là từ lấy đà như thu nhập vào làm một. Ví dụ: Trong bài “ Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư: “ Em không nghe/ mùa thu
Dưới trăng mờ/ thổn thức”
Thì ba từ “ em không nghe”, “ dưới trăng mờ”… là nhịp 3 có hai từ “ em không” và “ dưới trăng” là những từ lấy đà chuyển sang phách mạnh “ nghe” và “ mờ”
II. 2. 3. Đặc tính của loại nhịp chẵn
So với nhịp lẻ, thì loại nhịp chẵn thường là loại nhịp nhẹ nhàng và êm dịu hơn, những câu lục bát trong thơ dân gian của ta thường ngắt theo nhịp chẵn, theo Phan Ngọc trong “ Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều” 9 NXB KHXH, 1985 – Trang 205 ): Nếu đọc kỹ ca dao, dân ca thì: “ Chắc chắn có thể nói hàng trăm câu mới gặp một câu có kiến trúc 3/3 hay 4/4, đó là loại kiến trúc không có trong thơ dân gian. Khi gặp nó trong thơ ca dân gian, ta phải cảnh giác, đó không phải là ca dao mà là thơ thực sự, chỉ có điều diễn đạt bằng thể lục bát mà thôi”. Ví dụ: Đọc bài “ Việt Bắc” của Tố Hữu ta thường ngắt theo nhịp 2:
“Mình về/ mình có/ nhớ ta
Mười lăm năm ấy/ thiết tha mặn nồng
Mình về/ mình có/ nhớ không
Nhìn cây nhớ núi/ nhìn sông nhớ nguồn”
Cùng một câu thơ sáu chữ, nhưng sự ngắt nhịp khác nhau thì sự biểu hiện và tính hiệu quả của nó sẽ khác nhau. Ví dụ: Cùng những câu 6 trong 3 bài thơ “ Tùng” của Nguyễn Trãi.ở bài tứ tuyệt 1: Câu 6 được ngắt theo nhịp 2 “ Một mình/ lạt thuở/ ba đông” giúp cho ta thấy tính chất của cảnh thu, trời thu và đông êm dịu, nhẹ nhàng hơn hẳn câu 6 ở bài 2 “ cội rễ bền/ dời chẳng động”thể hiện sự chống chọi với khí hậu, với thiên nhiên khắc nghiệt. Câu 6 ở bài 3 “ Dành/ còn để trợ/ dân này” lại ngắt theo những nhịp chẵn lẻ khác nhau tạo nên một sự mạnh mẽ đặc biệt, thể hiện một ý đẹp đẽ và trong sáng. Điều đó cũng là lý tưởng cao đẹp của nhà nho đối với dân, với nước.
II.2.4. Sự kết hợp của hai loại nhịp chẵn lẻ
– Sự kết hợp của hai loại nhịp điệu chẵn, lẻ trong một câu thơ sẽ tạo nên tính hài hoà trong câu thơ như ở thể thơ ngũ ngôn, thất ngôn. Ví dụ:
“Sao anh / không về / chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng / hàng cau / nắng mới lên
Vườn ai / mướt quá / xanh như ngọc
Lá trúc / che ngang / mặt chữ điền”
( Đây thôn vĩ dạ – Hàn Mặc Tử )
Tìm hiểu ý nghĩa của câu thơ, tìm hiểu chỗ ngừng , ngắt, độ mạnh nhẹ của từng lời thơ và sử dụng giọng điệu, âm lượng cho thích hợp để đọc một bài thơ theo đúng nhịp điệu đã định.
“ Huế ơi / quê mẹ / của ta ơi
Nhớ tự ngày xưa / tuổi chín mười
Mây núi hiu hiu / chiều lặng lặng
Mưa nguồi gió biển / nắng ra khơi”
(Tố Hữu)
– Cùng trong câu thơ bảy chữ, nhưng ngắt nhịp khác nhau thì nội dung, cảm xúc biểu hiện và tính hiệu quả khác nhau. Ví dụ : “Sau lưng thềm nắng lá vơi đầy”( Đất nước – Nguyễn Đình Thi). Câu thơ này có nhiều cách ngắt nhịp khác nhau. Có ý kiến cho rằng: hai câu thơ nên ngắt theo tiết tấu 3/4: Nắng vàng và lá vàng cùng một lúc rơi xuống mặt thềm tĩnh lặng. Câu thơ gợi lên một sắc thái riêng của vẻ đẹp mùa thu, nhưng hơi cầu kỳ. Có người khẳng định, nên ngắt theo nhịp 2 /2 / 3. Cách ngắt nhịp này tạo nên sợ ngập ngừng, lưu luyến trong lòng người ra đi trước cảnh thu Hà Nội. Nguyễn Đình Thi dã có lần phát biểu về ý thơ này. Ông cho rằng vẻ đẹp mùa thu là vẻ đẹp giản dị, sâu lắng nên lời thơ ngắt theo nhịp quen thuộc 4/3.
Vì thế, trong giờ giảng thơ người thầy cần chú ý khai thác những tiết tấu khác nhau trong cách ngắt nhịp để tạo nên hiệu quả cao nhất.
II.3. áp dụng trong công việc tìm hiểu
II.3.1. Tìm hiểu nhịp điệu bài thơ “ Sóng” – Xuân Quỳnh thông qua hoạt động đọc.
– Trước khi đi vào phân tích tác phẩm để tạo tâm thế cho giờ học, người giáo viên yêu cầu học sinh đọc, hiểu tác phẩm. Đó là công việc nhằm khẳng định một hiệu quả tiếp nhận văn học, để tái hiện toàn bộ hình tượng của tác phẩm và quan trọng hơn là xác định tiết tấu, giọng điệu và khắc sâu kiến thức. Muốn xác định được giọng điệu của tác giả, có thể dựa trên dấu hiệu hình thức và nguyên tắc tổ chức hình tượng của tác phẩm, có thể căn cứ vào thể loại…để tìm ra đặc điểm, tiết tấu, thanh âm, nhịp điệu của ngôn ngữ.
– Giáo viên cần định hướng cho học sinh về tác giả, tác phẩm: Xuất hiện trong làng thơ Việt Nam như “ Một chồi thơ sắc biếc” thơ Xuân Quỳnh giàu nữ tính, hồn hậu, chân thành, thể hiện sự gắn bó sâu sắc với con người và cuộc sống đời thường. Xuân Quỳnh là một trong số các nhà thơ Việt Nam hiện đại được gọi là nhà thơ tình yêu.
“ Sóng” là một bài thơ tình, nên khi đọc bằng hình dung ký ức và tưởng tượng nghệ thuật có thể xác định được giọng đọc chung với âm hưởng thiết tha để biểu lộ những phức điệu của tâm trạng chủ thể trữ tình. Thế nhưng trong từng đoạn thơ, mỗi đoạn có chức năng biểu hiện riêng nên giọng đọc và cách ngắt nhịp không thể giống nhau.
Dữ dội \ và dịu êm ( 2/3 )
ồn ào \và lặng lẽ ( 2/3 )
Sông\ không hiểu nổi mình ( 1/4 )
Sóng\ tìm ra \ tận bể ( 1/2/2 )
ôi\ con sóng\ ngày xưa ( 1/2/2 )
Và\ ngày sau \ vẫn thế ( 1/2/2 )
Nỗi\ khát vọng tình yêu ( 1/4 )
Bồi hồi\ trong ngực trẻ ( 2/3 )
Trước muôn trùng \ sóng bể ( 3/2 )
Em nghĩ về anh\ em ( 4/1 )
Em nghĩ về\ biển lớn ( 3/2 )
Từ nơi nào\ sóng lên… ( 3/2 )
– Đoạn thứ nhất là lời kể nên đọc chậm vừa, thể hiệ sự bồi hồi, hình dung đường nét, tâm trạng. Đọc chủ yếu ngắt theo nhịp 2/3.
– Đoạn hai giọng đọc kể, có tính chất hồi tưởng nên đọc chậm, đặc biệt câu 1, 2 ngắt nhịp 1 – 2 – 2 nhấn mạnh ở từ “ ôi”, “ và”còn lại đọc chậm hơn đoạn thứ nhất thể hiện sự bâng khuâng xao xuyến gợi không gian, thời gian kỷ niệm.
– Đoạn 3, 4: Ngắt nhịp 4/1 và 3/2, đọc nhanh thể hiện tâm trạng thổn thức mãnh liệt của một trái tim tuổi trẻ giàu khao khát.
– Hai đoạn cuối bài đọc ngắt nhịp 2/3, đọc giọng trầm và chậm, thể hiện nỗi phấp phỏng, lo âu đó cũng là khao khát tình yêu cháy bỏng.
Bằng nhịp thơ ngắn ( chủ yếu là nhịp chẵn 2/4, xen kẽ nhịp lẻ 1/3/5 )
– Giọng điệu thủ thỉ, da diết và cách sử dụng nhuần nhuyễn cặp tiểu đối trong thể thơ năm chữ, Xuân Quỳnh đã thể hiện một khát vọng tình yêu tuổi trẻ nồng nàn, đồng thời khẳng định triết lý nhân sinh cao đẹp, đó là khát vọng được hoá thân cho tình yêu vĩnh cửu.
I I. 3. 2. áp dụng tìm hiểu nhịp điệu thơ trong một số sáng tác của Nguyễn Bính.
– Trong sáng tác của Nguyễn Bính, thơ lục bát chiếm tỉ lệ nhiều hơn so với những thể loại khác. Thống kê và đối chiếu nhịp lẻ trong thơ lục bát của Nguyễn Bính và một số nhà thơ cùng thời ta thấy:
+ Tố Hữu có 63 dòng ngắt nhịp lẻ / 819 dòng lục bát ( tỉ lệ 7,66% ).
+ Huy Cận có 23 dòng ngắt nhịp lẻ/ 369 dòng lục bát ( tỉ lệ 5,8% ).
+ Xuân Diệu có 50 dòng ngắt nhịp lẻ/ 578 dsòng lục bát ( tỉ lệ 8,65% ).
+ Nguyễn Bính có115 dòng ngắt nhịp lẻ/1132 dòng lục bát ( tỉ lệ 10,16% ).
Như vậy, cách ngắt nhịp lẻ trong thơ lục bát của Nguyễn Bính so với Tố Hữu, Huy Cận, Xuân Diệu vẫn chiếm ưu thế, tỉ lệ cao nhất, nghĩa là cứ 10 dòng thơ lại có 1 dòng nhịp lẻ. Có những bài nhịp lẻ được bố trí dày đặc như “ Lỡ bước sang ngang”, “ Tiếng trống đêm xuân”, “ Người hàng xóm”…Chính nhịp điệu vô cùng linh hoạt này, kết hợp với hình tượng thơ là làm cho thơ lục bát của Nguyễn Bính không lẫn lộn với ca dao, mặc dù nhà thơ đã tiếp thu truyền thống ca dao, dân ca của dân tộc, nét hiện đại và sáng tạo của Nguyễn Bính trong thơ cũng do nhịp điệu này góp sức.
Nguyễn Bính thường sử dụng nhịp điệu đặc biệt để thể hiện tâm trạng khác thường hoặc diễn biến tâm trạng nhân vật trữ tình trong thơ.
“ Tôi chiêm bao\ rất nhẹ nhàng ( 3/3 )
Có con bướm trắng thường sang bên này
Bướm ơi\ , bướm hãy\ vào đây ( 2/2/2 )
Cho tôi hỏi nhỏ\ câu này chút thôi ( 4/4 )
Chả bao giờ\ thấy nàng cười… ( 3/3 )
Tôi buồn tự hpỉ hay tôi yêu nàng.
Không\ , từ ân ái nhỡ nhàng ( 1/5 )
Tình tôi than lạnh tro tàn làm sang…
Mấy hôm nay\ chẳng thấy nàng ( 3/3 )
Giá tôi cũng có tơ vàng mà hong
Cái gì như thể nhớ mong
Nhớ nàng\ không\ quyết là không\ nhớ nàng ( 2/1/3/2 )
Vâng\ từ ân ái nhỡ nhàng ( 1/5 )
Lòng tôi riêng nhớ bạn vàng ngày xưa.
( Người hàng xóm – Nguyễn Bính )
Nhịp điệu thay đổi rõ khi chàng trai bồi hồi phát hiện ra tâm trạng khác thường của mình và càng thay đổi đặc biệt hơn khi anh ta không dám công nhận sự thật của con tim đang rung động, nhất quyết tự dối lòng mình “ Nhớ nàng”/ không/ quyết là không/ nhớ nàng”. Nhịp điệu 2 – 1 – 3 – 2 trong câu bát đó chính là nhịp điệu của trái tim đang thổn thức.
– Trước cách mạng tháng Tám, Nguyễn Bính viết nhiều về chủ đề tình yêu, yêu đơn phương hoặc nỗi thất vọng tình yêu. Không chỉ một lần nhà thơ thể hiện:
“Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai / hỏi ai người biết cho (3/5)
Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các / bướm giang hồ / gặp nhau” (3/3/2)
(Tương tư)
Hay “Yêu/ yêu/ yêu mãi/ thế này (1/1/2/2)
Tôi như một kẻ xa lầy trong yêu.
Cao bao nhiêu/ thấp bao nhiêu (3/3)
Một/ hai/ ba/ bốn/ năm chiều/ rồi …thôi” (1/1/1/1/2/1)
(Lòng yêu đương)
– Cách ngắt nhịp trên khiến lời thơ như lời tự đay nghiến mình, cứ luẫn quẫn mãi trong vòng yêu đương vô vọng .
– Có khi sự phân nhịp lẻ lại thể hiện dáng dấp khẩu ngữ rất duyên dáng, dễ thương.
“ Từ ngày cô đi lấy chồng
Gớm/ sao có một quảng đồng/ mà xa (1/5/2)
Bờ rào cây bưởi không hoa
Qua bên nhà/ thấy bên nhà /vắng teo (3/3/2)
Lợn không nuôi/đặc ao bèo (3/3)
Giầu không dây chẳng buồn leo vào giàn”
( Qua nhà )
– Đối với gia đình, quê hương, người thân bạn bè Nguyễn Bính cũng thường sử dụng nhịp đặc biệt để thể hiện tâm trạng đó là nỗi lòng của người con thương mẹ . Vì hoàn cảnh mà bó tay không đỡ đần gì được. Một lúc nào đó trên bước đường giang hồ lại dấy lên nỗi niềm ân hận nên tự xỉ vả mình.
Thầy đừng nhớ/ mẹ đừng thương (3/3 )
Con như đồng kẽm ngang đường bỏ rơi
Con đi năm ấy tháng tư
Lúa chiêm xấp xỉ trổ từ tháng ba
Con đi quạnh của quạnh nhà
Cha già đập lúa mẹ già giũ rơm
Cha dặm gạo/ mẹ vần cơm (3/3 )
Có con con vắng ai làm thay cho
Con/ gian díu nợ giang hồ (1/5 )
Một mai tưởng những cơ đồ làm nên.
( Thơ gửi thầy mẹ )
– Với quê hương, đi xa lâu ngày nhưng nhà thơ vẫn nhớ về những kỷ niệm cũ:
Thôn Vân/ có biếc/ có hồng ( 2/2/2 )
Biếc trong nắng sớm/ hồng trong vườn chiều ( 4/ 4)
Đê cao/ có đất thả diều ( 2/4 )
Giời cao lăm lắmcó nhiều chim bay ( 4/4 )
Quả lành nặng trĩu từng cây ( 2/4 )
Sen đầy ao cá/ cá đầy ao sen ( 4/4 )
Hiu hiu/ gió quạt trăng đèn ( 2/4 )
Với dăm trẻ nhỏ / thả thuyền ta chơi ( 4/4 )
Ăn gỏi cá đánh cờ người ( 3/3 )
Thần tiên/ riêng một góc trời/ thôn Vân (2/4/2 )
Ơi thôn Vân/ hỡi thôn Vân (3/3 )
Phương nào/ kết giải mây Tần cho ta (2/4/2 )
Từ nay/ khi nhớ quê nhà ( 2/4 )
Thấy mây Tần/ tưởng đó là thôn Vân (3/5 )
( Anh về quê cũ )
ở đoạn thơ trên, khi kể về kỉ niệm tuổi thơ: Thả diều, thả thuyền, cây cối, sen cá… nhịp thơ đều đặn, từ từ, chủ yếu là nhịp chẵn. Chỉ khi nào đi vào thể hiện tâm trạng, nhịp thơ mới bắt đầu biến đổi đặc biệt “ Ăn gỏi cá …kết dải mây Tần cho ta”.
Có những bài thơ ngắn, khi thể hiện một thoáng bâng khuâng, một chút gợi lên trong lòng. Nhà thơ đã kết hợp giữa cách sử dụng hình tượng thơ, hình ảnh thơ và nhịp điệu rất vtuyệt diệu.
“ Hôm nay/ dưới bến xuôi đò ( 2/4 )
Thương nhau/ qua cửatò vò/ nhìn nhau (2/4/2 )
Anh đi đấy/ anh về đâu ( 3/3 )
Cánh buồm nâu/ cánh buồm nâu/ cánh buồm ( 3/3/2 )
( Không đề )
Sự sử dụng linh hoạt nhịp điệu dã tạo nên sức sống cho sáng tác của Nguyễn Bính.
III. Kết luận:
– Người xưa thường nói “ Thi trung hữu hoạ”, trong quá trình phân tích cái hay, cái đẹp của bài thơ, ta không thể bỏ qua những yếu tố nhạc điệu trong thơ. Để phân tích được những yếu tố này, người giáo viên không những phải hiểu nhạc điệu trong thơ mà phải còn rèn luyện kỹ năng phân tích nhạc điệu trong thơ . Muốn như vậy, người giáo viên cần tích luỹ và nâng cao hiểu biết về các loại hình nghệ thuật có liên quan trực tiếp tới văn học, đặc biệt là thơ, trong đó có âm nhạc. Từ đó tập phân tích những yếu tố nhạc điệu trong bài thơ, góp phần nâng việc khai thác những yếu tố thẩm mỹ của bài thơ tạo nên giờ dạy học thơ đầy hào hứng và lý thú.
– Tuy vậy, trong quá trình phân tích thơ, người giáo viên cũng đừng quá cường điệu các yếu tố nhạc điệu thơ, mà cần phải chú ý tới các yếu tố khác có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp các yếu tố nhạc điệu của bài thơ.
– Với những suy nghĩ trên và bằng những thể nghiệm của chính mình. Cách khai thác nhịp điệu trong dạy thơ đã giúp tôi đạt được những kết quả nhất định :
Những học trò trong lớp dạy của tôi từ năm học 2004 – 2007 đã quan tâm hơn đến giờ Văn và có hứng thú trong quá trình học thơ, cảm thơ. Trên cơ sở đó, từ những lớp bình thường có thể chọn những học sinh có khả năng cảm thụ thơ thực sự để bồi dưỡng nâng cao. Từ khi trực tiếp phụ trách lớp mũi nhọn khối C, D và cùng các đồng nghiệp ôn thi học sinh giỏi, ôn thi đại học, tôi có điều kiện áp dụng tốt hơn những biện pháp trên. Kết quả là phần lớn các em có hứng thú học tập hơn và đạt tỉ lệ điểm giỏi khá cao. Cụ thể: Năm học: 2004 – 2005, từ không có học sinh giỏi Văn trong kỳ thi học sinh giỏi tỉnh, năm học 2005 – 2006 có 5 giải ( 2 giải ba, 3 giải khuyến khích ), năm học 2006 – 2007 có 7 giải ( 1 giải nhì, 2 giải ba và 3 giải khuyến khích ). Trong kỳ thi đại học năm học 2004 – 2005, 2005 – 2006 có nhiều học sinh đạt điểm 7,0; 7,5; 8,0; và 8,5.
Tuy nhiên, với trình độ người viết có hạn chắc chắn những phần trình bày trên còn nhiều thiếu sót. Nhưng với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng học tập của bộ môn Văn. Xin được trao đổi và rất mong được các thầy cô có kinh nghiệm lâu năm trong nghề tận tình chỉ bảo góp ý.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tài liệu tham khảo
1. Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều:
Nhà xuất bản KHXH, 1995, Vũ Ngọc Phan.
2. Thơ Nguyễn Bính – Nhà xuất bản GD
3. Trên con đường bình thơ – Nhà xuất bản GD, Vũ Dương Quỹ.
4. Thi pháp thơ Tố Hữu – Nhà xuất bản GD, Trần Đình Sử.
2
Rèn luyện kỹ năng khai thác nhịp điệu trong dạy thơ